intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Ngân hàng và doanh nghiệp khó có tiếng nói chung

Chia sẻ: Bibo Bibo | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:3

78
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong bối cảnh môi trường kinh doanh khó khăn như hiện nay, nhiều doanh nghiệp sẽ không đáp ứng đủ điều kiện và tiêu chí cho vay. Ví dụ như nợ quá hạn, thiếu tài sản thế chấp, hoặc giá trị tài sản thế chấp, do bất động sản đang mất giá... Vì vậy, nếu để các ngân hàng thương mại tự xem xét, đánh giá thì đa số doanh nghiệp không đủ điều kiện để vay. Đó là chưa kể việc hạ lãi suất về 15%/năm theo yêu cầu của Ngân hàng Nhà nước, vô hình trung có thể...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Ngân hàng và doanh nghiệp khó có tiếng nói chung

  1. Ngân hàng và doanh nghiệp khó có tiếng nói chung Trong bối cảnh môi trường kinh doanh khó khăn như hiện nay, nhiều doanh nghiệp sẽ không đáp ứng đủ điều kiện và tiêu chí cho vay. Ví dụ như nợ quá hạn, thiếu tài sản thế chấp, hoặc giá trị tài sản thế chấp, do bất động sản đang mất giá... Vì vậy, nếu để các ngân hàng thương mại tự xem xét, đánh giá thì đa số doanh nghiệp không đủ điều kiện để vay. Đó là chưa kể việc hạ lãi suất về 15%/năm theo yêu cầu của Ngân hàng Nhà nước, vô hình trung có thể làm nảy sinh thêm nhiều tiêu cực vì cơ chế gần như kiểu xin - cho. Thực tế hiện nay, doanh nghiệp muốn được cứu, nhưng ngân hàng cũng không muốn chết theo doanh nghiệp. Không phải tự nhiên Ngân hàng Nhà nước tổ chức hẳn cuộc họp báo về nợ xấu ngân hàng - điều chưa từng xảy ra trong suốt lịch sử hơn 60 năm của ngành ngân hàng. Nợ xấu đang chiếm 8,6% (khoảng 2,6 triệu tỷ đồng) tổng dư nợ toàn hệ thống. Trong chúng ta, không ai dám chắc con số này sẽ dừng ở đây, nếu không muốn nói là sẽ còn nhiều hơn. Việc Ngân hàng Nhà nước công khai nợ xấu, cũng là tìm đồng minh, tìm sự ủng hộ trong chính sách xử lý nợ xấu sắp tới. Bản thân các ngân hàng thương mại biết rõ nhất nợ xấu của họ đang ở mức nào, sẽ tăng đến đâu. Đây chính là lý do khiến họ không muốn cho vay đối với những doanh nghiệp đang đối mặt với nguy cơ phá sản. Nguồn thu chính của ngân hàng là từ tín dụng. Bản thân các ngân hàng rất muốn tăng cung tín dụng, doanh thu và tăng lợi nhuận. Nhưng trong bối cảnh môi trường kinh doanh nhiều khó khăn cộng với chính sách liên tục thay đổi, sẽ là mạo hiểm nếu ngân hàng cứ mạnh tay cho
  2. doanh nghiệp vay tiền. Theo tôi, đây chính là lý do khiến nhiều ngân hàng chỉ giảm lãi suất và cho vay có chọn lọc. Một lãnh đạo Techcombank từng tuyên bố "Căn cứ trên hệ thống xếp hạng tín nhiệm khách hàng và tình hình sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp, theo đó Techcombank chỉ tập trung ưu tiên giảm lãi suất cho vay các khách hàng thân thiết...". Như vậy, có thể tạm chia doanh nghiệp - những người đã, sắp vay vốn ngân hàng thành các nhóm. Nhóm 1 là khách hàng thân thiết - được hưởng tối đa những ưu đãi của ngân hàng. Nhóm 2 là khách hàng đang có quan hệ tín dụng, có khả năng trả nợ, được giảm lãi suất theo yêu cầu của Ngân hàng Nhà nước và xem xét cho vay mới tùy theo điều kiện của ngân hàng. Nhóm 3 là khách hàng chấp nhận được mức lãi suất cho vay cao (thường ngân hàng chỉ cho vay ngắn hạn với đánh giá sát sao về độ rủi ro). Và nhóm 4 là khách hàng để "cho chết" hoặc ngân hàng không muốn mạo hiểm cho vay. Tùy từng điều kiện, chủ trương của mình, các ngân hàng thương mại sẽ điều chỉnh tỷ lệ dư nợ cho vay của các nhóm khách hàng để đảm bảo “an toàn rồi mới hiệu quả”. Phó Chủ tịch Hiệp hội doanh nghiệp trẻ Hà Nội đã từng lên tiếng, mặc dù khoản vay cũ đã được giảm về 15% một năm như "lệnh" của Thống đốc, nhưng việc vay vốn hiện không dễ. Nguyên nhân không phải do ngân hàng đưa ra điều kiện quá cao mà là doanh nghiệp không còn khả năng đáp ứng những điều kiện đó nữa vì tình trạng quá khó khăn. Nếu tôi làm giám đốc ngân hàngchắc bản thân cũng không dám cho vay. Vì sao lại có sự phân nhóm trên, theo tôi chính là sự minh bạch thông tin. Tại sao Ngân hàng Nhà nước yêu cầu tổ chức tín dụng đưa lãi suất cho vay về mức 15%/năm? Nếu xét trên mức lãi suất huy động phổ biến hiện nay là 9%/năm, cộng
  3. thêm các chi phí vốn khác (2%) thì mức lãi suất cho vay 15% vẫn là cao. Theo tôi mức chênh lệch lãi suất đầu vào - ra ở mức 2 đến 2,5%/năm là hợp lý. Nhưng thực tế, chi phí lãi suất đầu vào của một số ngân hàng hiện không ở mức 11%/năm do phải thực hiện các chiêu thức cạnh tranh trong huy động vốn. Mặt khác, với môi trường kinh doanh khó khăn, chính sách lại liên tục thay đổi, việc giãn rộng biên độ lãi suất là hợp lý. Vì thế, có khách hàng được vay với lãi suất chỉ 12%/năm, nhưng có khách hàng phải vay đến 18%/năm. Mức chênh lệch quá lớn về lãi suất cho vay giữa các nhóm khách hàng chính là vấn đề gây nhiều tranh cãi trong nội bộ các ngân hàng thương mại hiện nay. Và ngân hàng thương mại cũng sẽ khó giải trình với Ngân hàng Nhà nước nguyên nhân thực tế của việc chi phí vốn cao (như vậy là tự thú việc không chấp hành quy định về huy độ
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2