intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Nghiệm pháp gây mất ngủ một phần trong việc phát hiện sóng dạng động kinh

Chia sẻ: Trần Thị Hạnh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

30
lượt xem
0
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nội dung bài viết với mục tiêu xác định hiệu quả của nghiệm pháp gây mất ngủ một phần trong việc phát hiện các phóng điện dạng động kinh trên điện não đồ. Mời các bạn cùng tham khảo bài viết để nắm rõ nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Nghiệm pháp gây mất ngủ một phần trong việc phát hiện sóng dạng động kinh

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013<br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> NGHIỆM PHÁP GÂY MẤT NGỦ MỘT PHẦN<br /> TRONG VIỆC PHÁT HIỆN SÓNG DẠNG ĐỘNG KINH<br /> Lê Văn Tuấn*, Đỗ Quốc Hùng**<br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Mục tiêu: Xác định hiệu quả của nghiệm pháp gây mất ngủ một phần trong việc phát hiện các phóng điện<br /> dạng động kinh trên điện não đồ.<br /> Phương pháp: Khảo sát đoàn hệ tiến cứu, trên 150 bản điện não của 75 bệnh nhân động kinh (mỗi BN được<br /> đo EEG 02 lần, lần I là EEG không sử dụng nghiệm pháp gây mất ngủ một phần, lần II là EEG có sử dụng<br /> nghiệm pháp gây mất ngủ một phần) đến khám và điều trị tại khoa Nội Thần Kinh tổng quát – Bệnh viện Nhân<br /> Dân 115.<br /> Kết quả: Khi không sử dụng nghiệm pháp gây mất ngủ một phần, chỉ có 13 trên tổng số 75 bản ghi EEG có<br /> ghi nhận sự xuất hiện của các phóng điện dạng động kinh, chiếm tỷ lệ 17,3%. Sau khi sử dụng nghiệm pháp gây<br /> mất ngủ một phần, có 44 trên tổng số 75 bản ghi EEG có ghi nhận sự xuất hiện của các phóng điện dạng động<br /> kinh, chiếm tỷ lệ 58,7%. Có mối liên hệ nhân quả giữa nghiệm pháp gây mất ngủ một phần với các phóng điện<br /> dạng động kinh ngoài cơn, thể hiện qua phép kiểm 2 McNemar với kết quả Chi-Square = 20 > 1, có ý nghĩa thống<br /> kê với p < 0,001, và RR = 1,32.<br /> Kết luận: Nghiệm pháp gây mất ngủ một phần có khả năng làm tăng sự xuất hiện các phóng điện dạng<br /> động kinh so với khi không sử dụng nghiệm pháp này. Do đó, ngoài các nghiệm pháp kích thích đã sử dụng<br /> thường qui (NP hít thở sâu, NP kích thích ánh sáng), cần ứng dụng nghiệm pháp gây mất ngủ một phần nhiều<br /> hơn trong kỹ thuật đo điện não; để nâng cao chất lượng bản ghi EEG, hỗ trợ với lâm sàng và hình ảnh học trong<br /> việc chẩn đoán và điều trị động kinh.<br /> Từ khóa: Nghiệm pháp gây mất ngủ một phần, điện não đồ, động kinh<br /> <br /> ABSTRACT<br /> PARTIAL SLEEP DEPRIVATION FOR ACTIVATING INTERICTAL EPILEPTIFORM DISCHARGES<br /> Le Van Tuan, Do Quoc Hung<br /> * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 - Supplement of No 1 - 2013: 91 - 96<br /> Objectives: Define effectiveness of partial sleep deprivation as a trigger method of interictal epileptiform<br /> discharges (IED) on electroencephalography (EEG).<br /> Methods: Prospective cohort study on 150 EEG tracings of 75 suspected epilepsy patients admitted on<br /> Department of General Neurology - 115 People Hospital (two EEG recordings of every patient in which the first<br /> recording is with non – partial sleep deprivation and the second one was with partial sleep deprivation).<br /> Results: There were only 13 (17.3%) of the first recordings with non – partial sleep deprivation showed IED.<br /> The abnormal EEG with IED were increase to 44 (58.7%) among the second recordings with partial sleep<br /> deprivation. There was a cause – effect relationship between partial sleep deprivation procedure and IED<br /> presenting by 2 McNemar test (Chi-Square = 20, p<br /> 1, có ý nghĩa thống kê với p < 0,001.<br /> Số đo kết hợp RR<br /> Phóng Điện Dạng Động Kinh<br /> Sau NP<br /> Trước NP<br /> <br /> Không<br /> Có<br /> Cộng<br /> <br /> Có<br /> <br /> Không<br /> <br /> Cộng<br /> <br /> 38<br /> 6<br /> 44<br /> <br /> 24<br /> 7<br /> 31<br /> <br /> 62<br /> 13<br /> 75<br /> <br /> RR = (38/62)/(6/13) = 1,32<br /> <br /> 93<br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013<br /> <br /> Các yếu tố có liên quan đến sự xuất hiện<br /> của phóng điện dạng động kinh<br /> Yếu tố<br /> <br /> Hệ số Khoảng tin<br /> p<br /> Hệ số<br /> B<br /> cậy 95% của<br /> chuẩn<br /> hệ số B<br /> hóa Beta<br /> Nhóm tuổi<br /> 0,008 0,003 0,013 0,001 0,325<br /> Khoảng thời gian -0,005 -0,008 -0,002 0,002 -0,319<br /> bị động kinh<br /> Số cơn động kinh 0,016 0,006 0,026 0,002 0,316<br /> Cơn động kinh -0,008 -0,013 -0,003 0,002 -0,318<br /> cuối<br /> <br /> Khả năng xuất hiện các phóng điện dạng<br /> động kinh tăng thuận chiều với số tuổi và số cơn<br /> động kinh, tăng ngược chiều với khoảng thời<br /> gian bị động kinh cũng như khoảng thời gian<br /> tính từ cơn động kinh cuối đến lúc đo điện não.<br /> <br /> BÀN LUẬN<br /> Về tỷ lệ bản điện não có phóng điện dạng<br /> động kinh trước và sau khi thực hiện<br /> nghiệm pháp gây mất ngủ một phần<br /> Trong nghiên cứu của chúng tôi, tất cả các<br /> bệnh nhân đều trải qua nghiệm pháp gây mất<br /> ngủ một phần với thời gian ngủ tối đa là 03 giờ<br /> vào buổi tối trước (đi ngủ lúc 24h, thức dậy lúc<br /> 03 giờ). Hầu hết các bệnh nhân được đo EEG vào<br /> buổi trưa sau khi ăn, trong phòng tối và yên tĩnh.<br /> Tất cả các bản ghi EEG đều kéo dài 1 giờ. Trong<br /> khoảng 15 phút đầu tiên là EEG giai đoạn thức<br /> với đầy đủ các nghiệm pháp hoạt hóa như kích<br /> thích ánh sáng cũng như nhắm mở mắt và tăng<br /> thông khí ở bệnh nhân hợp tác. Khoảng 45 phút<br /> còn lại là giai đoạn ngủ với giấc ngủ tự nhiên,<br /> không dùng thuốc.<br /> Theo kết quả nghiên cứu của tác giả Nguyễn<br /> Hồng Thanh(7): Trước “đêm trắng”, 24/35 bệnh<br /> nhân có kết quả bất thường (60%); trong đó 21/35<br /> bệnh nhân có các sóng bất thường không có<br /> dạng động kinh bao gồm các sóng chậm theta và<br /> delta (60%); chỉ có 2/35 bệnh nhân có ghi nhận<br /> các phóng điện dạng động kinh bao gồm các<br /> hình thức tổ hợp của các nhọn/đa nhọn/sóng<br /> chậm (8,6%). Sau “đêm trắng”, 29/35 bệnh nhân<br /> có kết quả điện não bất thường (82,9%); trong đó<br /> chỉ có 8/35 bệnh nhân có các sóng bất thường<br /> <br /> 94<br /> <br /> không có dạng động kinh (22,8%); tỷ lệ các bản<br /> ghi điện não có các phóng điện dạng động kinh<br /> tăng đáng kể (60,1%). Tác giả đã đưa ra một kết<br /> luận chung là nghiệm pháp gây mất ngủ làm<br /> tăng tỷ lệ thay đổi sóng nền và sóng kịch phát<br /> trên điện não đồ từ 68,6% lên 82,9 % và sự khác<br /> biệt chưa có ý nghĩa thống kê (p>0,05).<br /> Nghiên cứu của J. A. Carpay và cộng sự(1)<br /> trên 552 trẻ em và thiếu niên, từ 1 tháng đến 16<br /> tuổi, có hai hay nhiều cơn động kinh trong quá<br /> khứ. Tất cả bệnh nhân được đo EEG thường quy.<br /> Trong các trường hợp EEG thường quy cho kết<br /> quả bình thường, sẽ tiến hành đo EEG lần thứ II<br /> có sử dụng nghiệm pháp gây mất ngủ một phần.<br /> Bệnh nhân được gây mất ngủ một phần tùy theo<br /> lứa tuổi: từ 0-2 tuổi: EEG được ghi trong giấc ngủ<br /> trưa; từ 3-10 tuổi: bệnh nhân được ngủ tối đa 07<br /> giờ vào tối hôm trước; từ 11-15 tuổi: thời gian<br /> ngủ tối đa vào tối hôm trước là 05 giờ. Kết quả<br /> nghiên cứu cho thấy: tỷ lệ phát hiện sóng dạng<br /> động kinh của EEG thường quy là 56%; Trong<br /> 44% các trường hợp còn lại, EEG có sử dụng<br /> nghiệm pháp gây mất ngủ một phần giúp phát<br /> hiện sóng dạng động kinh thêm 34,5% (tương<br /> đương 11% nếu tính trên tổng số 552 bệnh nhân).<br /> Do đó, nếu tính trên tổng số 552 bệnh nhân<br /> trong nghiên cứu, bản ghi EEG lần thứ II có sử<br /> dụng nghiệm pháp gây mất ngủ một phần làm<br /> tỷ lệ phát hiện sóng dạng động kinh từ 56% (với<br /> EEG thường quy) tăng lên 67%.<br /> R.Peraita-Adrados(8) đã tiến hành ghi EEG<br /> trên 686 bệnh nhân có ít nhất 1 cơn động kinh<br /> trong quá khứ. Bệnh nhân được gây mất ngủ<br /> một phần từ 1 đến 3 giờ vào đêm hôm trước (3<br /> giờ đối với người lớn; 2 giờ đối với thanh thiếu<br /> niên; 1 giờ đối với trẻ em và không sử dụng<br /> nghiệp pháp gây mất ngủ cho trẻ dưới 12 tháng<br /> tuổi); sau đó được đo EEG liên tục trong 02 tiếng<br /> (từ 1 đến 3 giờ chiều) ngày hôm sau. Trong số<br /> này, 40 trường hợp có kết quả không rõ ràng<br /> được đo EEG lần thứ hai. Phóng điện dạng động<br /> kinh ngoài và trong cơn được ghi nhận ở 40,4%<br /> các trường hợp khi đo EEG lần đầu và 35% trong<br /> 40 trường hợp đo lần thứ hai.<br /> <br /> Chuyên Đề Nội Khoa II<br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013<br /> Trước khi sử dụng nghiệm pháp gây mất<br /> ngủ một phần, tỷ lệ xuất hiện các phóng điện<br /> dạng động kinh theo nghiên cứu của chúng tôi là<br /> 17%. Kết quả này cao hơn của tác giả Nguyễn<br /> Hồng Thanh (8,6%) do tác giả ghi EEG theo qui<br /> trình thường quy(7,2), trong khi đó bản ghi EEG<br /> của chúng tôi có thời gian dài hơn (01 giờ). Kết<br /> quả này thấp hơn đáng kể so với kết quả nghiên<br /> cứu của tác giả J. A. Carpay (56%), do tác giả có<br /> thể kéo dài thời gian ghi đến 1,5 giờ trong<br /> trường hợp chưa ghi nhận được EEG giấc ngủ<br /> của bệnh nhân, và tuổi trung bình trong nhóm<br /> nghiên của tác giả nhỏ hơn trong nghiên cứu của<br /> chúng tôi(6,3).<br /> Sau khi sử dụng nghiệm pháp gây mất ngủ<br /> một phần, tỷ lệ xuất hiện các phóng điện dạng<br /> động kinh theo nghiên cứu của chúng tôi là 59%.<br /> Kết quả này tương đương của tác giả Nguyễn<br /> Hồng Thanh (60,1%) và J.A Carpay (67%).<br /> Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Hồng Thanh tuy<br /> sử dụng nghiệm pháp gây mất ngủ toàn bộ<br /> (“đêm trắng”) nhưng thời gian của bản ghi ngắn<br /> hơn (EEG thường quy).<br /> <br /> Về số đo kết hợp RR<br /> Trong nghiên cứu của chúng tôi, số đo kết<br /> hợp RR=1,32. Điều này có thể diễn giải như sau:<br /> Sau nghiệm pháp gây mất ngủ một phần, khả<br /> năng xuất hiện các phóng điện dạng động kinh ở<br /> nhóm không có IED gấp 1,32 lần nhóm có IED<br /> khi không sử dụng nghiệm pháp gây mất ngủ<br /> một phần. Giá trị 1,32 nhỏ hơn kỳ vọng (RR=1,5)<br /> có thể do cỡ mẫu nhỏ, thời gian đo EEG ngắn (01<br /> giờ) và điều kiện phòng ốc trang thiết bị không<br /> tốt (tiếng ồn).<br /> <br /> Về các yếu tố có liên quan đến sự xuất hiện<br /> của phóng điện dạng động kinh<br /> Sự xuất hiện của các phóng điện dạng động<br /> kinh ngoài cơn tăng cùng chiều với nhóm tuổi<br /> của bệnh nhân và số cơn động kinh trước khi đo<br /> EEG; tăng ngược chiều với khoảng thời gian bị<br /> động kinh và thời gian tính từ cơn động kinh<br /> cuối đến lúc đo điện não. Hay nói cách khác: các<br /> phóng điện dạng động kinh ngoài cơn dễ xuất<br /> <br /> Chuyên Đề Nội Khoa II<br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> hiện ở nhóm bệnh nhân lớn tuổi, có nhiều cơn<br /> động kinh, mới bị động kinh gần đây và được đo<br /> điện não sớm.<br /> C. Ajmone Marsan và cộng sự đã tiến hành<br /> một nghiên cứu trên 1824 bản ghi điện não từ<br /> 308 bệnh nhân (trung bình 6 bản EEG/1 bệnh<br /> nhân). Từ nghiên cứu của mình, tác giả đã đưa<br /> ra kết luận: yếu tố tuổi tác, bao gồm cả tuổi lúc<br /> đo điện não và tuổi lúc khởi phát động kinh, có<br /> liên quan đến sự xuất hiện của các phóng điện<br /> dạng động kinh. Các bản ghi điện não có nhiều<br /> khả năng bắt được các phóng điện này ở nhóm<br /> trẻ dưới 10 tuổi và nhiều khả năng bình thường<br /> ở nhóm bệnh nhân lớn hơn 40 tuổi. Thêm vào<br /> đó, khi xét đến các yếu tố như khoảng thời gian<br /> tính từ cơn động kinh cuối đến lúc đo điện não<br /> và số cơn động kinh trước khi đo, tác giả nhận<br /> định: khoảng thời gian tính từ cơn động kinh<br /> cuối đến lúc đo điện não càng ngắn và/hoặc số<br /> cơn động kinh càng nhiều thì tỷ lệ bắt được các<br /> phóng điện dạng động kinh càng cao(6).<br /> Trong một nghiên cứu đa trung tâm tại Đức,<br /> Hungary và Thụy Điển trên 303 bệnh nhân,<br /> Jozsef Janszky và cộng sự thấy rằng: các yếu tố<br /> như tuổi của bệnh nhân, khoảng thời gian bị<br /> động kinh và số cơn động kinh càng nhiều thì tỷ<br /> lệ bắt được các phóng điện dạng động kinh càng<br /> cao (theo phân tích đơn biến). Tuy nhiên, khi<br /> phân tích hồi quy logistic, chỉ có tần suất cơn cao<br /> (p
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2