intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Nghiên cứu bài học vì cộng đồng học tập trong dạy học Ngữ văn ở Trường trung học cơ sở Nguyễn Trực, Hà Nội

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:12

30
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết này sẽ đánh giá lại toàn diện các mặt sau một năm thực hiện nghiên cứu bài học vì cộng đồng học tập trong dạy học Ngữ văn ở Trường THCS Nguyễn Trực, đồng thời đề xuất các biện pháp để mô hình đổi mới này ngày càng phát triển bền vững. Mời các bạn tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Nghiên cứu bài học vì cộng đồng học tập trong dạy học Ngữ văn ở Trường trung học cơ sở Nguyễn Trực, Hà Nội

  1. 113 NGHIÊN CỨU BÀI HỌC VÌ CỘNG ĐỒNG HỌC TẬP TRONG DẠY HỌC NGỮ VĂN Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ NGUYỄN TRỰC, HÀ NỘI TS. Phạm Thị Thanh Phượng1 TS. Lã Phương Thúy Tóm tắt: “Nghiên cứu bài học vì cộng đồng học tập” là một cách tiếp cận đổi mới nhà trường do giáo sư Manabu Sato (Đại học Gakushuin, Nhật Bản) khởi xướng, dựa trên ba tầm nhìn, ba nguyên lí và ba hệ thống hoạt động. Ứng dụng mô hình đổi mới này, từ tháng 9/2017, Trường THCS Nguyễn Trực (Thanh Oai, Hà Nội) đã bước đầu thử nghiệm ở một số môn học, trong đó có môn Ngữ văn. Bài viết này sẽ đánh giá lại toàn diện các mặt sau một năm thực hiện nghiên cứu bài học vì cộng đồng học tập trong dạy học Ngữ văn ở Trường THCS Nguyễn Trực, đồng thời đề xuất các biện pháp để mô hình đổi mới này ngày càng phát triển bền vững. Từ khóa: Nghiên cứu bài học vì cộng đồng học tập; dạy học Ngữ văn; đổi mới giáo dục. 1. Đặt vấn đề Xuất phát từ khát vọng mang lại những thay đổi có có giá trị sâu sắc, bền vững cho trường học, giáo viên (GV), học sinh (HS) và cộng đồng thông qua “Nghiên cứu bài học vì cộng đồng học tập” (NCBHVCĐHT), các nhà giáo dục Nhật Bản đã đưa phong trào này vượt ra ngoài biên giới nước Nhật để đến với nhiều nước như Hàn Quốc, Mexico, Mỹ, Trung Quốc, Indonesia, Singapore, Đài Loan, v.v. Ở Việt Nam, mô hình đổi mới nhà trường này đã được các chuyên gia Nhật Bản giới thiệu từ tháng 6/2006. Từ đó đến nay, nó đã được nuôi dưỡng và nhân rộng mô hình ở nhiều trường học trên đất nước Việt Nam. Bên cạnh việc tạo ra những chuyển biến tích cực, việc thực hiện NCBHVCĐHT ở bất cứ trường học nào cũng phải đối mặt với nhiều thách thức. Bài viết này sẽ đưa ra một góc nhìn đánh giá toàn diện các 1 Khoa Công nghệ Giáo dục, Trường ĐH Giáo dục, ĐHQGHN; ĐT: 0904660889; Email: phamthanhphuong8383@gmail.com.
  2. KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ: GIÁO DỤC CHO MỌI NGƯỜI 114 PROCEEDINGS OF INTERNATIONAL CONFERENCE EDUCATION FOR ALL mặt của việc ứng dụng mô hình này ở trường học Việt Nam, qua một trường hợp cụ thể: NCBHVCĐHT trong dạy học (DH) Ngữ văn ở trường THCS Nguyễn Trực (Thanh Oai, Hà Nội). 2. Mô hình đổi mới nhà trường “Nghiên cứu bài học vì cộng đồng học tập” Ra đời trong một hoàn cảnh lịch sử cụ thể ở Nhật Bản (những năm đầu thập kỉ 90 của thế kỉ XX), được khởi xướng bởi giáo sư Manabu Sato (Đại học Gakushuin, Nhật Bản), từ ba trường tiểu học thí điểm đầu tiên vào năm 1998, đến nay, mô hình NCBHVCĐHT đã lan rộng ra khắp nước Nhật và nhiều nước trên thế giới, ở tất cả các cấp học, tạo ra một sự biến chuyển tích cực trong các trường học. NCBHVCĐHT là một cách tiếp cận đổi mới nhà trường dựa trên ba tầm nhìn, ba triết lí và ba hệ thống hoạt động. Vận dụng nghiên cứu bài học, với những chỉ dẫn cụ thể về cách thức thực hiện, nó đã xây dựng nên một hệ thống những khả năng học tập của một tập hợp các “cộng đồng” có liên quan mật thiết với nhau. 2.1. Tầm nhìn, triết lí và hệ thống hoạt động của NCBHVCĐHT 2.1.1. Tầm nhìn Tầm nhìn có ý nghĩa quyết định sự thành bại của bất cứ công cuộc đổi mới nào. Đó chính là mục đích sâu xa cần hướng tới để đáp ứng những đòi hỏi, yêu cầu của tương lai. Với sứ mệnh “hiện thực hóa quyền học tập của mỗi HS, cải thiện chất lượng học tập” và “chuẩn bị cho xã hội dân chủ”, NCBHVCĐHT xác định ba tầm nhìn: - Đảm bảo việc tiếp cận các cơ hội học tập chất lượng cao hơn cho mọi HS: GV phải chấp nhận mọi đối tượng HS và phải nhìn nhận, tôn trọng HS như những công dân. Họ cần tạo ra một môi trường nơi mọi HS có thể cảm thấy dễ dàng nói bất cứ điều gì, tìm kiếm sự giúp đỡ và học tập cộng tác cùng nhau để đạt tới chất lượng cao. Muốn thế, GV cần cung cấp cho HS những thách thức trí tuệ và cơ hội cộng tác với các bạn trong lớp cũng như là sự suy ngẫm cá nhân; - Đảm bảo cơ hội học tập chất lượng cho mọi GV có thể phát triển: GV luôn suy ngẫm về việc DH của mình như một thói quen và sửa lại chúng hàng ngày trong một quá trình cải thiện liên tục để cung cấp cho HS nền giáo dục tốt hơn. Để đạt được điều đó, GV luôn cần phải học tập liên tục. Việc học có thể diễn ra trong sự tự suy ngẫm, nghiên cứu, hay trao đổi với các đồng nghiệp khác. Con đường trở thành GV chuyên nghiệp thực sự đòi hỏi một sê-ri các thảo luận chính thức với các đồng nghiệp và các hoạt động dự giờ lẫn nhau; - Đảm bảo sự hiện diện các cơ hội cho phụ huynh và cộng đồng địa phương tham gia vào việc học: lôi cuốn phụ huynh và cộng đồng lớn hơn, biến họ thành
  3. NGHIÊN CỨU BÀI HỌC VÌ CỘNG ĐỒNG HỌC TẬP TRONG DẠY HỌC NGỮ VĂN... 115 các nguồn lực trong quá trình học tập, bằng cách cho họ tham gia với HS trong lớp học theo nhóm, hoặc mời họ đến với tư cách một chuyên gia về một chủ đề nào đó. 2.1.2 Triết lí Triết lí, hay nguyên tắc vận hành, sẽ cho ta biết mình đang theo loại hình đổi mới nào. Đổi mới nhà trường dựa trên NCBHVCĐHT được dựa trên ba triết lí: - Triết lí công: Trường học là nơi công cộng cần phải rộng mở cho những người cả bên trong và bên ngoài trường học. Theo đó, GV cần công khai việc DH của mình ít nhất một lần trong năm, phá vỡ những biên giới trong giáo dục; - Triết lí dân chủ: “Dân chủ” ở đây nghĩa là “một cách sống kết nối với nhau”. Trường học sẽ trở thành nơi mỗi HS, GV, hiệu trưởng và phụ huynh đóng vai trò là những nhân vật chính và hợp tác với nhau, dựa trên mối quan hệ “lắng nghe lẫn nhau”; - Triết lí xuất sắc: Sự xuất sắc ở đây không có nghĩa là mạnh hơn người khác mà chỉ đơn giản là làm tốt nhất với khả năng của mình trong bất cứ hoàn cảnh nào. Mưu cầu sự xuất sắc trong các bài học và việc học, HS sẽ được học tập với chất lượng cao và mọi GV sẽ phát triển thành người chuyên nghiệp. 2.1.3. Hệ thống hoạt động Đổi mới nhà trường theo NCBHVCĐHT được thành lập với ba hệ thống hoạt động gồm: - Học tập cộng tác trong lớp học giữa HS; - Học tập chuyên môn của GV thông qua việc cùng nhau dự giờ và suy ngẫm về bài học; - Sự tham gia của phụ huynh cùng cộng đồng địa phương vào quá trình của bài học. Ba hệ thống này cùng nhau hiện thực hóa cụ thể tầm nhìn và triết lí được đề cập ở trên trong hoạt động hàng ngày của GV, HS và tự bản thân nó trở thành công cụ cần thiết để thiết lập cộng đồng học tập, thông qua hoạt động giao tiếp tương tác. Như vậy NCBHVCĐHT là xây dựng cộng đồng học tập ở nhiều mức độ như cộng đồng GV, cộng đồng HS, cộng đồng phụ huynh và sự giao thoa giữa các cộng đồng này. Trung tâm của nó nằm ở sự đối thoại và phát triển mối quan hệ lắng nghe trong và giữa các cộng đồng này với nhau. 2.2. Tiến trình NCBHVCĐHT 2.2.1. Một số điểm lưu ý - Điểm quan trọng của NCBHVCĐHT là thay đổi trọng tâm của NCBH từ lập kế hoạch sang dự giờ và suy ngẫm.
  4. KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ: GIÁO DỤC CHO MỌI NGƯỜI 116 PROCEEDINGS OF INTERNATIONAL CONFERENCE EDUCATION FOR ALL - Quy mô: toàn trường hoặc theo khối lớp thay vì chỉ trong tổ bộ môn. - Cách thức: dự trực tiếp hoặc xem video. - Tần xuất: 80 - 100 lần/năm cho cả nhà trường (mỗi GV công khai bài học ít nhất 1 lần/năm), trong đó 1 - 3 lần công khai cho công chúng. 2.2.2. Các bước tiến hành * Giai đoạn 1: Thảo luận không chính thức về thiết kế bài học Việc lựa chọn bài học và lập kế hoạch là quyết định của cá nhân GV, các ý kiến đóng góp của đồng nghiệp (cùng hoặc khác chuyên môn) chỉ mang tính chất là những gợi ý để tham khảo. Trong thiết kế bài học, cần chú ý ba điểm: - Giải thích rõ những gì HS cần đạt được trong bài học. - Cung cấp tài liệu hay nhiệm vụ có ý nghĩa cho HS học tập và sáng tạo, tạo ra việc học bao gồm “nhiệm vụ- khám phá- thể hiện” liên tiếp trong quá trình học tập. - Tạo ra hoạt động học tập bao gồm đối thoại và cộng tác. * Giai đoạn 2: Công khai bài học trên lớp (tiến hành dạy minh họa) GV dự giờ nên quan sát ở phía trước của hai bên lớp học để có thể nhìn kĩ biểu hiện nét mặt cả tất cả HS. * Giai đoạn 3: Suy ngẫm và chia sẻ sau dự giờ Đây là hoạt động trọng tâm của NCBHVCĐHT. Người dự không cần tập trung vào việc GV đứng lớp dạy như thế nào mà quan trọng hơn là tập trung vào thực tế học tập của HS qua việc quan sát và thảo luận kĩ các tình huống cụ thể trong lớp học: - Mô tả lại những tình huống thực tế đã quan sát được với những tên cụ thể của HS. Chú ý các vấn đề: HS trầm với những hành động phi ngôn từ, sự tham gia của HS có thành tích thấp hơn, mức độ/nhiệm vụ học tập, hiệu quả của việc học…. - Chia sẻ điều đã học được từ thực tế ấy và các nguyên nhân. - Đưa ra những gợi ý để “cải thiện” cách dạy của GV đứng lớp. * Giai đoạn 4: Cải thiện và lưu trữ GV đứng lớp xem lại bài học công khai đã được tiến hành và cải thiện thiết kế bài học dựa trên những chia sẻ, đóng góp và gợi ý từ đồng nghiệp (người dự). Kết quả của việc cải thiện này được ghi lại dưới dạng ghi chú cá nhân trong khi các thành viên của bộ phận phụ trách về phát triển chuyên môn và NCBH thực hiện việc lưu trữ dữ liệu.
  5. NGHIÊN CỨU BÀI HỌC VÌ CỘNG ĐỒNG HỌC TẬP TRONG DẠY HỌC NGỮ VĂN... 117 2.3. Đổi mới bài học với học tập cộng tác Đổi mới nhà trường dựa trên NCBHVCĐHT phải xây dựng bài học tập trung vào học tập cộng tác. Tức việc “học tập lẫn nhau” cần được thiết lập thay cho việc “thảo luận lẫn nhau”. Nhóm HS có trải nghiệm học tập là nhóm trong đó việc trao đổi ý kiến diễn ra một cách chân thành và mỗi HS lắng nghe ý kiến hay lời nói của bạn mình, sau đó suy nghĩ sâu về những ý kiến đó. Như vậy, hoạt động học tập bắt đầu từ việc lắng nghe và thông qua đối thoại. Một số kĩ thuật hữu ích được gợi ý là tạo nhóm đôi, nhóm bốn (lí tưởng là có tỉ lệ nam nữ bằng nhau và ngồi xen kẽ nhau) và bố trí lớp học hình chữ U. Để tạo nên sự đối thoại và cộng tác học tập, cấu trúc cơ bản của một bài học là: * Giới thiệu bài học sáng tạo * Học tập chia sẻ (mức độ SGK): cố gắng cải thiện việc học của HS học chậm, giúp cho tất cả HS đều hiểu những kiến thức cơ bản thông qua việc trao đổi, học hỏi, hỗ trợ lẫn nhau giữa các HS trong nhóm. * Học tập bước nhảy (mức độ cao hơn SGK): cố gắng cải thiện chất lượng học tập, sử dụng, áp dụng, mở rộng và đào sâu những gì đã học được ở phần trước đó. Trong phần này, việc thiết kế những nhiệm vụ thách thức giữ vai trò then chốt. * Tổng kết Đổi mới bài học với học tập cộng tác sẽ xây dựng nên một “cộng đồng học tập” ở cấp độ lớp học. 3. Xây dựng cộng đồng học tập trong DH Ngữ văn qua NCBH tại trường THCS Nguyễn Trực - Hà Nội 3.1. Thực tế triển khai Với mục tiêu xây dựng cộng đồng học tập qua mô hình NCBH tại trường THCS Nguyễn Trực - Hà Nội, nhóm nghiên cứu đã tiến hành thực hiện các giai đoạn của mô hình này tại tổ Xã hội, Trường THCS Nguyễn Trực. Quy trình thực hiện như sau: Giai đoạn 1: Tập huấn về mô hình NCBH cho GV Trường THCS Nguyễn Trực Nhóm nghiên cứu gồm các giảng viên, chuyên gia giáo dục của Trường ĐH Giáo dục và hai giáo sư, nhà nghiên cứu người Nhật đến từ ĐH Hiroshima đã tiến hành tập huấn cho GV toàn Trường THCS Nguyễn Trực nói chung, GV tổ Xã hội nói riêng. Thông qua các buổi tập huấn, các thành viên của tổ Xã hội, bao gồm các
  6. KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ: GIÁO DỤC CHO MỌI NGƯỜI 118 PROCEEDINGS OF INTERNATIONAL CONFERENCE EDUCATION FOR ALL GV Ngữ văn, Lịch sử, Địa lý, GDCD đã được trang bị đầy đủ kiến thức về khái niệm, đặc điểm, cách thức tiến hành mô hình NCBH và một số ví dụ minh hoạ về quá trình triển khai hình thức này tại Nhật Bản. Giai đoạn 2: Thiết kế bài học minh hoạ Các GV Ngữ văn đã được chia thành các nhóm nghiên cứu và tiến hành thảo luận về một đề tài nghiên cứu bài học cụ thể để xây dựng bài học minh hoạ. Các câu hỏi thảo luận trong hoạt động này như sau: - Mục tiêu học tập của bài học nghiên cứu là gì? - Bài học nghiên cứu thuộc kiểu bài nào (Bài học hình thành kiến thức mới, Bài học thực hành, Bài ôn tập...)? - Cách mở đầu bài học như thế nào? - Phân tích cấu trúc nội dung bài học? - Thiết kế các hoạt động học tập tương ứng với nội dung? - Thiết kế các hoạt động dạy học tương ứng với hoạt động học tập của HS? - Bài học sử dụng các phương tiện và học liệu dạy học nào? - GV có các biện pháp nào để tương tác, hỗ trợ HS? - Dự kiến cách kết thúc bài học? - Dự kiến những thuận lợi, khó khăn của HS khi tham gia các hoạt động học tập? - GV sẽ đánh giá kết quả học tập của bài học bằng cách nào? Sau khi kết thúc việc thảo luận, một thành viên trong nhóm sẽ nhận nhiệm vụ dạy bài học nghiên cứu theo kịch bản dạy học đã thống nhất trong nhóm. Các thành viên còn lại sẽ phối hợp, hỗ trợ GV này hoàn thành giáo án, phương tiện, học liệu... của bài giảng nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho GV và bài học nghiên cứu được diễn ra đúng yêu cầu và mục tiêu của nhóm. Giai đoạn 3: Dạy mẫu và dự giờ, quan sát lớp học GV được chọn sẽ tiến hành dạy bài học nghiên cứu theo kịch bản thống nhất trong nhóm. Các thành viên còn lại trong nhóm và các chuyên gia đến từ ĐH Giáo dục đóng vai trò là người dự giờ, quan sát lớp học, thu thập thông tin về bài học. Những người dự giờ sẽ ngồi phía trên hoặc xung quanh lớp học để quan sát HS trong lớp. Các phương tiện như máy ảnh, máy quay phim được chuẩn bị sẵn sàng để ghi lại các hình ảnh trong lớp học. Việc dự giờ của GV cần tập trung quan sát việc học tập của HS, hành vi, thái độ, sự quan tâm đến bài học, sự hứng thú, hợp tác với GV... thông qua đó để để làm rõ mối liên hệ giữa việc học tập của HS với
  7. NGHIÊN CỨU BÀI HỌC VÌ CỘNG ĐỒNG HỌC TẬP TRONG DẠY HỌC NGỮ VĂN... 119 các tác động sư phạm của GV. Qua hoạt động này, đồng thời GV sẽ được rèn luyện, phát triển, nâng cao năng lực chuyên môn khi thực hành các kĩ năng dạy học như Kĩ năng tổ chức hoạt động cho HS, Kĩ năng quan sát HS và hành vi học tập, Kĩ năng thu thập - phân tích dữ liệu thông tin... Giai đoạn 4: Thảo luận, chia sẻ về bài học nghiên cứu Sau khi kết thúc bài học, các thành viên trong nhóm nghiên cứu cùng các chuyên gia sẽ cùng thảo luận về bài học đã thực hiện. Người dạy sẽ chia sẻ và tự nhận xét và đánh giá về phần thực hiện bài học của mình như: đã làm tốt những gì, còn vấn đề gì chưa thực hiện được, phát hiện ra vấn đề gì cần khắc phục, sẽ chỉnh sửa ở bài học tiếp theo như thế nào... Sau đó, các thành viên trong nhóm sẽ chia sẻ, trao đổi các ý kiến về những gì đã quan sát được. Trọng tâm của quá trình thảo luận là bài học và HS chứ không phải GV, không đánh giá, xếp loại hay chỉ trích cả GV và HS. - Đối với bài học, nội dung thảo luận nên tập trung vào các vấn đề như: Nội dung bài học đã phù hợp với HS chưa? Cách triển khai bài học đã quan tâm tới từng HS hay chưa? Nội dung nào dễ gây nhầm lẫn, khó hiểu đối với HS? Các câu hỏi, bài tập đã kích thích khả năng tư duy, sáng tạo của HS chưa? Bài học đã giúp HS đạt được mục tiêu học tập chưa? Tác động của bài học đến HS như thế nào? - Đối với HS hay quá trình học tập của HS, nội dung thảo luận nên chú ý tới những nội dung sau: HS gặp những thuận lợi, khó khăn gì trong khi học? GV đã có những biện pháp tác động nào tới HS? Mức độ hứng thú, tham gia của HS đối với bài học như thế nào? Mối quan hệ giữa HS và GV trong giờ học diễn ra như thế nào?... Một điều cần lưu ý trong giai đoạn này là các chuyên gia và các thành viên trong nhóm cần phải tham gia thảo luận một cách tích cực, thẳng thắn nhưng trên tinh thần xây dựng, góp ý cho nhau để cùng hoàn thiện bài học tốt và phù hợp hơn. Giai đoạn 5: Điều chỉnh, thiết kế bài học và áp dụng Sau khi dạy minh hoạ và thảo luận, các thành viên trong nhóm nghiên cứu sẽ rút ra kinh nghiệm cho bản thân đồng thời đóng góp ý kiến để sửa chữa giáo án nếu cần thiết và tiến hành dạy lại cho đối tượng khác để tiếp tục thử nghiệm những ý kiến mới của nhóm nghiên cứu sau khi thảo luận. Nếu sau khi áp dụng mà nảy sinh những vấn đề mới thì nhóm nghiên cứu có thể tiếp tục thảo luận nghiên cứu về bài học ở lần tiếp theo nhằm hoàn thiện bài học một cách khả thi nhất. Như vậy, thông qua việc nghiên cứu, thiết kế bài học, dạy minh hoạ và thảo luận, điều chỉnh bài học nghiên cứu, mỗi GV sẽ tự trang bị và rèn luyện cho mình những kĩ năng cần thiết trong quá trình dạy học nói riêng cũng như phát triển năng
  8. KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ: GIÁO DỤC CHO MỌI NGƯỜI 120 PROCEEDINGS OF INTERNATIONAL CONFERENCE EDUCATION FOR ALL lực nghề nghiệp nói chung. Đây cũng là mục đích quan trọng mà nghiên cứu bài học hướng tới, nhằm xây dựng một cộng đồng học tập mà ở đó GV luôn được phát huy tinh thần tự học và học hỏi lẫn nhau. Trong quá trình triển khai thực tế tại Trường THCS Nguyễn Trực, nhóm nghiên cứu tại ĐH Giáo dục và các thầy cô giáo ở bộ môn Ngữ văn đã tiến hành thiết kế một số bài học và dạy minh hoạ một số văn bản như: Hồi hương ngẫu thư (Hạ Tri Chương), Chiếc lược ngà (Nguyễn Quang Sáng), Nước Đại Việt ta (trích Bình Ngô đại cáo - Nguyễn Trãi)... trong năm học 2017 - 2018. Sau quá trình triển khai mô hình này tại THCS Nguyễn Trực trong thời gian 1 năm, chúng tôi đã tiến hành phỏng vấn 10 GV bộ môn Ngữ văn thuộc tổ Khoa học xã hội tại trường. Nội dung phỏng vấn tập trung vào một số vấn đề sau: - Mức độ hiểu biết của các thầy cô về quy trình thực hiện mô hình NCBH tại Trường THCS Nguyễn Trực. - Những thuận lợi và khó khăn của các thầy cô trong quá trình triển khai dạy và học theo mô hình NCBH tại trường THCS Nguyễn Trực. - Đề xuất của thầy cô để việc thực hiện mô hình NCBH tại trường THCS Nguyễn Trực đạt hiệu quả tốt hơn. Kết quả phỏng vấn cho thấy phần lớn GV (8/10 GV) đã am hiểu và nắm bắt đầy đủ quy trình thực hiện mô hình NCBH tại Trường THCS Nguyễn Trực. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực tế, mặc dù nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ nhiều mặt từ Ban giám hiệu và các đồng nghiệp nhưng các thầy cô vẫn còn gặp nhiều khó khăn trong việc tổ chức các hoạt động học tập cho HS theo đúng mô hình NCBH. Như vậy, qua việc dự giờ các giờ học cũng như phỏng vấn một số thầy cô giáo trực tiếp tham gia dạy minh hoạ, các thầy cô thuộc nhóm nghiên cứu và một số HS, chúng tôi nhận thấy một số vấn đề như sau: Thứ nhất, về GV tham gia nhóm nghiên cứu và dạy minh hoạ. Do trường THCS Nguyễn Trực thuộc huyện Thanh Oai, TP Hà Nội, là một khu vực thuần nông, chưa có nhiều điều kiện thuận lợi về cơ sở vật chất cũng như trang thiết bị dạy học nên phần lớn GV ở đây còn khá hạn chế khi tiếp xúc với các phương tiện cũng như phương pháp dạy học hiện đại. Mặc dù các thầy cô ở bộ môn Ngữ văn nói riêng, tổ Xã hội nói chung đã được các GS người Nhật tập huấn rất kĩ càng về mô hình NCBH tại Nhật nhưng do tâm lí ngại thay đổi, thói quen cố hữu trong việc dạy và học nên trong những giờ họp nhóm nghiên cứu buổi đầu các thầy cô còn khá e dè trong việc thảo luận, chia sẻ ý kiến để xây dựng bài học minh hoạ. Những giờ dạy minh hoạ đầu tiên chủ yếu vẫn diễn ra theo phương pháp truyền thống, đặt nặng kiến thức, thầy đọc - trò chép. GV mới chỉ
  9. NGHIÊN CỨU BÀI HỌC VÌ CỘNG ĐỒNG HỌC TẬP TRONG DẠY HỌC NGỮ VĂN... 121 quan tâm tới một số HS nổi bật trong lớp, ít nhận xét câu trả lời của HS và không bao quát được việc HS có ghi chép được bài hay không, gần như không tổ chức các hoạt động cho HS làm việc. Tuy nhiên, sau những buổi thảo luận, đóng góp ý kiến của các chuyên gia cũng như các thành viên trong nhóm, các giờ học sau đã đi đúng mục tiêu của NCBH hơn. GV đã tổ chức nhiều hoạt động để HS tự lĩnh hội kiến thức, quan tâm, tương tác nhiều hơn tới HS và chú ý tới việc hình thành, phát triển năng lực - phẩm chất cho HS. Bản thân mỗi GV dạy minh hoạ cũng thấy tự tin, thoải mái hơn khi tiếp xúc với HS, sẵn sàng giải đáp, tháo gỡ những vướng mắc của HS. GV đã tránh được tình trạng chỉ quan tâm tới một số HS khá, nổi trội trong giờ học mà quan tâm nhiều hơn tới những HS cá biệt, còn gặp khó khăn trong giờ học. Bên cạnh đó, thông qua việc thảo luận để xây dựng kế hoạch bài giảng chung cũng như thảo luận cùng nhóm chuyên gia sau giờ học, các GV đã được nâng cao về kĩ năng sử dụng công nghệ thông tin trong dạy học, biết cách ứng dụng công nghệ một cách phù hợp, hiệu quả với mục tiêu bài học. Điều đó không chỉ góp phần phát triển năng lực nghề nghiệp cho mỗi GV mà còn hình thành ở họ tinh thần tự học, ý thức học hỏi lẫn nhau trong quá trình phát triển chuyên môn cũng như hoàn thiện bản thân. Thứ hai, về phía HS tham gia thực hành mô hình NCBH tại Trường THCS Nguyễn Trực. Theo quan sát của chúng tôi, trong những giờ dạy minh hoạ đầu tiên (Văn bản Chiếc lược ngà - Nguyễn Quang Sáng), vẫn còn một số HS không chú ý, quan tâm vào bài học. GV lại chủ yếu sử dụng phương pháp thuyết trình, ít nhận xét câu trả lời của HS nên HS còn khá nhút nhát, e dè trong việc thể hiện ý kiến cá nhân của mình. Hơn nữa, khi gọi HS trả lời câu hỏi, GV thường chỉ định đột ngột, không quan sát thái độ, mong muốn của HS nên đôi khi khiến HS không bình tĩnh, chủ động trong giờ học. Trong giờ học văn bản Nước Đại Việt ta (Nguyễn Trãi), khi GV đổi cách trình bày bảng theo phương pháp vẽ sơ đồ khiến HS gặp khó khăn trong việc ghi bài. Ngoài ra, trong mỗi giờ học, khi GV tổ chức làm việc nhóm thường ít chú ý tới sự tương tác với HS nên HS còn khá lúng túng trong việc tổ chức thảo luận nhóm, cách thuyết trình kết quả làm việc của nhóm. Tuy nhiên, ở những giờ học tiếp theo, sự tương tác giữa người học đã được cải thiện hơn. HS tự tin hơn trong việc thể hiện ý kiến, quan điểm cá nhân của mình. Trong các lần làm việc nhóm, HS được chủ động tổ chức cách làm việc và cách báo cáo kết quả nhóm. Do vậy, HS đã có sự thay đổi tích cực, chủ động hơn trong giờ học. Theo kết quả quan sát, phỏng vấn HS trong và sau giờ học, chúng tôi nhận thấy phần lớn HS có hứng thú, cảm thấy được GV quan tâm, tháo gỡ những khó khăn trong giờ học. Kết quả thực hiện mô hình NCBH tại Trường THCS Nguyễn Trực - Hà Nội cho thấy mô hình này đã đạt được một số kết quả nhất định trong việc cải tiến việc học của HS cũng như phát triển năng lực nghề nghiệp GV. Thông qua đó hướng tới mục tiêu xây dựng cộng đồng học tập tại Trường THCS Nguyễn Trực nói riêng và hướng tới nhân
  10. KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ: GIÁO DỤC CHO MỌI NGƯỜI 122 PROCEEDINGS OF INTERNATIONAL CONFERENCE EDUCATION FOR ALL rộng ra các trường trong khu vực Hà Nội nói chung. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, trong quá trình triển khai chúng tôi nhận thấy vẫn còn tồn tại một số khó khăn như tâm lí ngại thay đổi, thói quen cố hữu của GV trong việc tổ chức giờ học cũng như các hoạt động sinh hoạt chuyên môn tại tổ bộ môn. Hơn nữa, để việc thực hiện mô hình NCBH đạt được hiệu quả tốt nhất cũng cần có trang thiết bị, cơ sở vật chất đầy đủ như máy chiếu, máy ảnh, máy quay phim...Do vậy, ở các trường phổ thông thuộc khu vực ngoại ô, nông thôn vẫn còn khá khó khăn trong việc đáp ứng các trang thiết bị này. Trong phạm vi bài báo, trên cơ sở nghiên cứu cơ sở lí luận và thực tiễn của mô hình NCBH, chúng tôi đề xuất một số biện pháp để mô hình này ngày càng phát triển bền vững và đạt hiệu quả tốt nhất trong quá trình triển khai tại các trường phổ thông ở Việt Nam. 3.2. Một số biện pháp đề xuất NCBHVCĐHT nhằm xây dựng những CĐHT ở nhiều cấp độ khác nhau. Trong khuôn khổ nghiên cứu này, chúng tôi chỉ tập trung đưa ra một số biện pháp để phát triển hiệu quả hơn nữa hoạt động của CĐHT cấp độ lớp học và cấp độ toàn trường trong DH Ngữ văn ở Trường THCS Nguyễn Trực. * Ở cấp độ lớp học: Mặc dù các GV đã cố gắng áp dụng một số kĩ thuật DH hiện đại để tăng cường sự tích cực học tập của HS (nhóm nhỏ, tổ chức lớp học hình chữ U), nhưng vẫn cần nhiều hơn nữa sự thuần thục trong triển khai và đặc biệt cần sự sâu sắc, tinh tế hơn nữa để thực sự phát triển hoạt động học tập cộng tác của HS. Muốn thế, GV cần chú ý một số kĩ năng sau: - Cần lựa chọn những thời điểm, thời lượng thích hợp cho hoạt động nhóm cộng tác: GV cần có sự nhạy bén để biết điểm kiến thức nào cần sự thảo luận, trao đổi, hỗ trợ lẫn nhau giữa các HS, và khi nào thì dừng hoạt động nhóm để chuyển sang hoạt động tập thể, tránh thời gian “chết” khi HS đã làm xong nhiệm vụ. - Cần tạo ra những nhiệm vụ mang tính thách thức để kích thích tư suy sáng tạo của HS: đặc trưng của môn Ngữ văn là nghệ thuật ngôn từ, vì vậy những nhiệm vụ giải mã nghĩa văn bản, giải mã ý nghĩa hình tượng, liên hệ với những trải nghiệm cá nhân… cần được chú ý. - Cần kịp thời hỗ trợ, tương tác với những nhóm/cá nhân HS đang gặp khó khăn hoặc có biểu hiện không tích cực: GV phải bao quát lớp học và quan sát kĩ vẻ mặt, những giao tiếp ngôn ngữ và phi ngôn ngữ của HS, nhận ra những đặc điểm “bất thường” để kịp thời xử lý, hỗ trợ, đưa việc “học tập lẫn nhau” trở về đúng quỹ đạo. * Ở cấp độ toàn trường:
  11. NGHIÊN CỨU BÀI HỌC VÌ CỘNG ĐỒNG HỌC TẬP TRONG DẠY HỌC NGỮ VĂN... 123 Khi tiến hành NCBHVCĐHT, các GV Trường THCS Nguyễn Trực có một thuận lợi rất lớn là có sự ủng hộ nhiệt tình của Ban giám hiệu nhà trường. Tuy nhiên, để thực sự tạo nên một cộng đồng GV “chuyên nghiệp”, một số vấn đề cần được thực hiện: - Việc đổi mới bài học theo NCBHVCĐHT và việc dự giờ theo khối cần tiến hành thường xuyên để tạo nên một “văn hóa học tập” trong nhà trường. - Trong thảo luận, cần tập trung hơn nữa vào những tình huống học tập cụ thể của HS với những mô tả chi tiết, thay vì những nhận xét khái quát với những ý cố định trong phiếu dự giờ. - Người chủ trì các buổi thảo luận cần khuyến khích những GV còn e ngại hoặc không phát biểu suy nghĩ của mình, tránh việc nêu ý kiến chỉ tập trung ở một số GV được cho là giàu kinh nghiệm hơn. - Ban giám hiệu nhà trường nên đến thăm các lớp học thường xuyên để nắm bắt và khuyến khích việc NCBHVCĐHT. 4. Kết luận Như chính những học giả về NCBHVCĐHT đã nói, việc vận dụng mô hình này vào đổi mới nhà trường không nên mong đợi kết quả tức thì trong vòng một đến hai năm, bởi làm thay đổi những thói quen đã ăn sâu vào văn hóa nhà trường thực sự không dễ dàng. Nhưng những “chuyển động” tích cực nhìn thấy trong việc dạy học Ngữ văn ở Trường THCS Nguyễn Trực đã cho chúng ta có niềm tin vào triết lí đằng sau NCBHVCĐHT. Chúng ta hi vọng với việc biến tầm nhìn và tinh thần đằng sau NCBHVCĐHT thành hành động, sẽ có nhiều biến chuyển mạnh mẽ từ “cộng đồng người học” ở mọi cấp độ trong các trường học ở Việt Nam. Tài liệu tham khảo [1] Eisuke Saito và cộng sự (2015), Nghiên cứu bài học vì cộng đồng học tập, NXB Đại học Sư phạm Hà Nội. [2] Manabu Sato - Masaaki Sato (2015), Cộng đồng học tập: Mô hình đổi mới toàn diện nhà trường, NXB Đại học Sư phạm Hà Nội. [3] Nguyễn Văn Ninh - Lê Thị Thu (2015), “Sinh hoạt chuyên môn theo hướng “Nghiên cứu bài học”- phương thức để phát triển năng lực dạy học cho giáo viên”, Tạp chí Giáo dục, số 353, tr.26-27&22. [4] Trần Trung - Nguyễn Thị Hà (2015), “Bồi dưỡng năng lực dạy học cho sinh viên ngành giáo dục tiểu học thông qua nghiên cứu bài học”, Tạp chí Giáo dục, số 355, tr.31-33.
  12. 124 LESSON STUDY FOR LEARNING COMMUNITY IN TEACHING PHILOLOGY AT NGUYEN TRUC MIDDLE SCHOOL, HA NOI Pham Thi Thanh Phuong1 La Phuong Thuy Abstract: “Lesson study for learning community” launched by Professor Manabu Sato (Gakushuin University, Japan) is an approach to reform chool, based on three visions, three principles and three operating systems. Applying this innovative model, since September 2017, Nguyen Truc Middle school (Thanh Oai district, Hanoi) has started experimenting in a number of subjects, including Philology. This article will evaluate all aspects of one-year implementation of lesson study for learning community in teaching philology at Nguyen Truc Middle school, and propose measures for sustainable development of this innovative model. Keywords: Lesson study for learning community; teaching philology; education reform 1 Faculty of Educational Technology, University of Education, VNU Hanoi; Tel: 0904660889; Email: phamthanhphuong8383@gmail.com.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0