intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Nghiên cứu cấu trúc và sàng lọc dòng nấm men Pichia Pastoris tái tổ hợp đa bản sao biểu hiện nhân tố tăng trưởng từ tiểu cầu (BB-PDGF-BB) mức độ cao

Chia sẻ: Trinhthamhodang Trinhthamhodang | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

75
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nhân tố tăng trưởng từ tiểu cầu PDGF-BB (Platelet derived growth factor) đã được tổ chức FDA-Hoa Kỳ (Food and Drug Administration) phê chuẩn là sản phẩm sử dụng trong điều trị chứng loét chân do đái tháo đường. Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã tạo dòng thành công các chủng nấm men tái tổ hợp mang gen pdgf và sàng lọc được 2 dòng Pichia pastoris tái tổ hợp mang nhiều bản sao gen pdgf. Các dòng tái tổ hợp đa bản sao gen pdgf sau khi sàng lọc đã được kiểm tra và so sánh khả năng biểu hiện PDGF với dòng đơn bản sao. Kết quả cho thấy khả năng biểu hiện PDGF tăng theo số lượng bản sao gen mục tiêu sát nhập vào trong bộ gen. Chủng đa bản sao thu nhận được có khả năng sản xuất lượng PDGF chiếm trên 50% tổng lượng protein tiết ra môi trường.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Nghiên cứu cấu trúc và sàng lọc dòng nấm men Pichia Pastoris tái tổ hợp đa bản sao biểu hiện nhân tố tăng trưởng từ tiểu cầu (BB-PDGF-BB) mức độ cao

TẠP CHÍ SINH HỌC 2014, 36(1se): 77-83<br /> <br /> <br /> <br /> NGHIÊN CỨU CẤU TRÚC VÀ SÀNG LỌC DÒNG NẤM MEN Pichia pastoris<br /> TÁI TỔ HỢP ĐA BẢN SAO BIỂU HIỆN NHÂN TỐ TĂNG TRƯỞNG<br /> TỪ TIỂU CẦU (BB-PDGF-BB) MỨC ĐỘ CAO<br /> <br /> Vương Cát Khánh, Ngô Thị Huyền Trang, Nguyễn Phạm Phương Thanh,<br /> Đặng Thị Phương Thảo*, Trần Linh Thước<br /> Trường Đại học Khoa học tự nhiên tp Hồ Chí Minh, *thaodp@hcmus.edu.vn<br /> <br /> TÓM TẮT: Nhân tố tăng trưởng từ tiểu cầu PDGF-BB (Platelet derived growth factor) đã được tổ chức<br /> FDA-Hoa Kỳ (Food and Drug Administration) phê chuẩn là sản phẩm sử dụng trong điều trị chứng loét<br /> chân do đái tháo đường. Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã tạo dòng thành công các chủng nấm men tái<br /> tổ hợp mang gen pdgf và sàng lọc được 2 dòng Pichia pastoris tái tổ hợp mang nhiều bản sao gen pdgf.<br /> Các dòng tái tổ hợp đa bản sao gen pdgf sau khi sàng lọc đã được kiểm tra và so sánh khả năng biểu hiện<br /> PDGF với dòng đơn bản sao. Kết quả cho thấy khả năng biểu hiện PDGF tăng theo số lượng bản sao gen<br /> mục tiêu sát nhập vào trong bộ gen. Chủng đa bản sao thu nhận được có khả năng sản xuất lượng PDGF<br /> chiếm trên 50% tổng lượng protein tiết ra môi trường.<br /> Từ khóa: Pichia pastoris, dòng đa bản sao, đái tháo đường, PDGF-BB tái tổ hợp.<br /> <br /> MỞ ĐẦU đổi sau dịch mã. Bên cạnh các ưu điểm trên, hệ<br /> PDGF (Platelet derived growth factor) là thống này có tính bền vững di truyền qua nhiều<br /> một yếu tố phân bào chủ yếu của nguyên bào thế hệ tế bào do vector tái tổ hợp mang gen mục<br /> sợi, tế bào cơ trơn và nhiều tế bào khác, được tiêu có thể được sát nhập vào bộ gen nấm men<br /> sản xuất từ tiểu cầu. PDGF giữ nhiều chức năng theo cơ chế tái tổ hợp tương đồng giữa DNA<br /> trong cơ thể, đặc biệt là chức năng tham gia plasmid và vùng trình tự tương đồng trên bộ gen<br /> điều hòa và thúc đẩy quá trình làm lành vết theo 2 cách: (1) gắn chèn vector vào bộ gen<br /> thương [6]. Protein này tác động đến nhiều tế nấm men hoặc (2) thay thế gen, loại bỏ hoàn<br /> bào liên quan đến quá trình hàn gắn vết thương toàn gen AOX1 trong bộ gen nấm men. Số<br /> như: kích thích sự phân bào và hướng hóa của lượng bản sao của gen mục tiêu sát nhập vào bộ<br /> nguyên bào sợi và tế bào cơ trơn, kích thích đại gen chủng chủ nấm men có thể là một trong các<br /> thực bào sản xuất và tiết những nhân tố tăng yếu tố giúp gia tăng mức độ biểu hiện protein<br /> trưởng quan trọng, kích thích sự sản sinh những mục tiêu. Hơn nữa, protein ngoại lai được tiết ra<br /> phân tử fibronectin, collagen, proteoglycan và ngoài môi trường ở dạng có hoạt tính, vì thế,<br /> hyaluronic acid. Trong giai đoạn tái tạo, PDGF quá trình thu nhận, tinh chế protein dễ dàng hơn<br /> có vai trò kích thích sản xuất và tiết collagenase so với protein được biểu hiện ở dạng nội bào.<br /> bởi nguyên bào sợi cũng như sự co các sợi Ngoài ra so với Saccharomyces cerevisiae<br /> collagen [1]. Với sự gia tăng bệnh đái tháo protein được biểu hiện ở Pichia pastoris không<br /> đường như hiện nay, tỷ lệ bệnh nhân mắc chứng bị đường hóa quá mức và không hình thành liên<br /> loét chân ngày càng tăng. Tuy nhiên, tại Việt kết α-1,3 glycan, liên kết này được cho là gây ra<br /> Nam, nguồn cung cấp PDGF chủ yếu là từ nước đáp ứng miễn dịch khi dùng trong trị liệu [2, 4,<br /> ngoài với giá thành cao. Điều này đặt ra yêu cầu 5].<br /> cấp thiết trong việc nghiên cứu công nghệ sản VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br /> xuất PDGF nhằm phát triển sản phẩm thuốc<br /> Vật liệu plasmid pPICZαA (V195-20,<br /> điều trị có hiệu quả với giá thành hợp lý.<br /> Invitrogen); chủng E. coli DH5α [F-,<br /> Trong số các hệ thống biểu hiện protein 80lacZM15, recA1, endA1, hsdR17(rk-, mk+),<br /> người tái tổ hợp, Pichia pastoris được xem như phoA, supE44, -, thi-1, gyrA96, relA1]<br /> một hệ thống nổi bật với nhiều ưu điểm như dễ (Invitrogen) được cung cấp bởi Bộ môn Công<br /> nuôi cấy, tăng trưởng nhanh, protein được biến nghệ sinh học phân tử và Môi trường, Trường<br /> <br /> <br /> 77<br /> Vuong Cat Khanh et al.<br /> <br /> Đại học Khoa học tự nhiên, Đại học Quốc gia Bộ gen của các thể biến nạp sau khi pha<br /> thành phố Hồ Chí Minh; chủng Pichia pastoris loãng trong khoảng 6.255 ng - 800 ng được<br /> X33 (C180-00, Invitrogen). dùng làm khuôn cho phản ứng PCR với cặp mồi<br /> Tạo dòng tế bào E. coli DH5α mang plasmid 5’AOX1 và 3’AOX1 trong 20 chu kỳ. Kết quả<br /> biểu hiện PDGF-BB (PDGF) khuếch đại được điện di trên gel agarose 1% và<br /> phân tích bằng phần mềm ImageJ nhằm xác<br /> Gen pdgf được thu nhận bằng phương pháp<br /> định số bản sao gen pdgf trong bộ gen nấm men.<br /> PCR sử dụng cặp mồi đặc hiệu FXhoI và RnotI.<br /> Số bản sao gen pdgf trong bộ gen nấm men<br /> Sản phẩm PCR (357 bp, mã hóa cho chuỗi<br /> được tính thông qua tỷ lệ sản phẩm khuếch đại<br /> polypeptide dài 119 acid amin với khối lượng<br /> chứa gen pdgf so với sản phẩm khuếch đại gen<br /> phân tử là 17 KDa) sau khi tinh sạch được xử lý<br /> AOX1, một gen nội sinh của nấm men. Các kết<br /> với enzyme XhoI và NotI, sau đó nối vào vector<br /> quả phân tích được xử lý bằng phầm mềm<br /> pPICZαA cũng đã được cắt mở vòng bằng 2<br /> ImageJ (http://imagej.nih.gov/ij/download.html)<br /> enzyme trên. Plasmid tái tổ hợp pPICZαA/pdgf<br /> được biến nạp vào tế bào E. coli DH5α bằng Đánh giá khả năng tăng trưởng và biểu hiện<br /> phương pháp hóa biến nạp, sử dụng yếu tố chọn của các thể biến nạp chứa nhiều bản sao<br /> lọc là khả năng kháng kháng sinh zeocine. Một khuẩn lạc đơn X33, X33 chứa<br /> pPICZαA và các thể biến nạp mang gen pdgf<br /> Plasmid tái tổ hợp pPICZαA/pdgf được<br /> được hoạt hóa trong môi trường BMGY lỏng<br /> kiểm tra sự chèn gen pdgf bằng kỹ thuật PCR<br /> (có thành phần gồm cao nấm men 1%, peptone<br /> với cặp mồi FXhoI và 3’AOX, enzyme cắt giới<br /> 2%, YNB 1,34%, 10% citrate buffer 1 M pH<br /> hạn XhoI và NotI, giải trình tự.<br /> 4,0; biotin 4×10-5%, glycerol 1% [7]), nuôi cấy<br /> Tạo dòng tế bào Pichia pastoris X33 mang gen lắc qua đêm 250 vòng/phút, ở 300C đến khi<br /> mã hóa PDGF OD600 của dịch nuôi cấy đạt 2-6. Sau đó sinh<br /> Plasmid tái tổ hợp pPICZαA/pdgf được thu khối được chuyển vào môi trường BMMY (có<br /> nhận từ chủng E. coli DH5α bằng phương pháp thành phần như môi trường BMGY nhưng<br /> SDS kiềm, sau đó xử lý bằng enzyme SacI để glycerol được thay thế bằng methanol có nồng<br /> cắt mở vòng, điện biến nạp vào tế bào Pichia độ cuối là 0,5% (v/v)) và tiếp tục nuôi cấy lắc.<br /> pastoris (P. pastoris) X33 và được nuôi cấy trên Sau mỗi 24 giờ, bổ sung methanol đạt nồng độ<br /> môi trường YPD (có thành phần gồm cao nấm cuối 0,5%, đồng thời dịch nuôi cấy được thu<br /> men 1%, peptone 2%, dextrose 2%, agar 2% nhận, đo OD600 để đánh giá khả năng tăng<br /> [7]) có nhân tố chọn lọc là zeocine 100 g/ml, ở trưởng. Quá trình cảm ứng biểu hiện các thể<br /> 25oC, 3-5 ngày. biến nạp trên môi trường BMMY pH 4,0 được<br /> Kiểm tra kiểu hình, kiểu gen của các thể biến thực hiện tương tự như trên, 72 giờ sau cảm<br /> nạp ứng, dịch nuôi cấy được ly tâm 13000<br /> vòng/phút, trong 5 phút, sau đó loại sinh khối,<br /> Kiểm tra kiểu hình: các thể biến nạp được cấy<br /> thu nhận dịch môi trường. Sự biểu hiện protein<br /> đồng thời lên hai môi trường MM (môi trường tối<br /> PDGF được kiểm tra bằng phương pháp điện di<br /> thiểu chứa methanol có thành phần YNB 1,34%,<br /> trên gel SDS-PAGE, phân tích bằng phần mềm<br /> biotin 4.10-5%, methanol 0,5%) và MD (môi<br /> Quantity One ((Biorad, http://www.bio-<br /> trường tối thiểu có chứa dextrose có thành phần<br /> rad.com/en-us/product/quantity-one-1-d-<br /> YNB 1,34%, biotin 4×10-5%, glucose 2%), sau đó<br /> analysis-software) và lai Western<br /> đem ủ ở 25oC trong 3-4 ngày và quan sát.<br /> Kiểm tra kiểu gen: bộ gen của các thể biến KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN<br /> nạp được tách chiết và kiểm tra kiểu gen bằng<br /> phản ứng PCR với cặp mồi 5’AOX1 và Tạo dòng tế bào E. coli DH5α mang plasmid<br /> 3’AOX1. biểu hiện PDGF<br /> Xác định số bản sao của vector mang gen Plasmid tái tổ hợp pPICZαA/pdgf sau khi tạo<br /> trong bộ gen của P. pastoris bằng phương thành được biến nạp vào tế bào E. coli DH5α.<br /> pháp PCR bán định lượng Các thể biến nạp sau khi sàng lọc trên môi<br /> <br /> <br /> 78<br /> TẠP CHÍ SINH HỌC 2014, 36(1se): 77-83<br /> <br /> trường kháng sinh zeocine được tiếp tục kiểm tra vạch có kích thước vào khoảng 870 bp trên bản<br /> bằng phương pháp PCR khuẩn lạc sử dụng cặp điện di) được tiếp tục tách chiết thu nhận plasmid<br /> mồi 5’AOX1 và 3’AOX1. Các thể biến nạp cho tái tổ hợp bằng phương pháp SDS-kiềm (kết quả<br /> kết quả PCR khuẩn lạc dương tính (xuất hiện 1 không được trình bày ở đây).<br /> <br /> a b<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Hình 1. Sàng lọc vector tái tổ hợp mang gen pdgf<br /> a. Sàng lọc vector tái tổ hợp bằng phản ứng PCR; a1. Vị trí mồi AOX1 trên bộ gen nấm men tái tổ<br /> hợp; a2. Kiểm tra vector tái tổ hợp bằng PCR; b. Kiểm tra vector tái tổ hợp mang gen pdgf bằng<br /> phương pháp cắt giới hạn; b1. Vị trí enzyme cắt giới hạn trong vector; b2. Xử lý vector tái tổ hợp<br /> bằng enzyme cắt giới hạn.<br /> <br /> Nhằm phát hiện gen pdgf trên plasmid Điều này cho phép kết luận chúng tôi đã tạo<br /> pPICZαA/pdgf, plasmid tái tổ hợp được phân dòng hóa thành công gen pdgf vào vector biểu<br /> tích bằng phương pháp sử dụng cặp mồi đặc hiện pPICZαA trong tế bào E. coli DH5α.<br /> hiệu FXhoI (mồi xuôi) trên gen và 3’AOX1 (mồi Tạo dòng tế bào P. pastoris X33 mang gen mã<br /> ngược) trên plasmid. Những plasmid pPICZαA hóa PDGF<br /> có chèn gen pdgf sẽ cho vạch DNA với kích<br /> thước khoảng 540 bp, tương ứng với với kích Plasmid pPICZα/pdgf được đưa về dạng<br /> thước vạch gen pdgf cộng với một đoạn DNA thẳng bằng cách xử lý với enzyme SacI và điện<br /> trên plasmid pPICZαA. Trong khi đó, với khuôn biến nạp vào tế bào chủ P. pastoris X33. Các<br /> là plasmid pPICZαA không mang gen pdgf nên thể biến nạp sau khi sàng lọc dựa trên khả năng<br /> không có sản phẩm PCR (hình 1a). kháng kháng sinh zeocine được kiểm tra kiểu<br /> hình và kiểu gen.<br /> Kết quả cắt kiểm tra plasmid tái tổ hợp<br /> pPICZαA/pdgf bằng enzyme XhoI và NotI cho 2 MM MD<br /> vạch đúng như dự kiến: một vạch có kích thước<br /> tương ứng với kích thước của plasmid<br /> pPICZαA, và một vạch có kích thước tương ứng<br /> với gen pdgf (hình 1b).<br /> Đồng thời, kết quả giải trình tự gen pdgf trên<br /> plasmid pPICZαA/pdgf bằng cặp mồi 5’AOX1<br /> và 3’AOX1 sau khi so sánh với trình tự lý<br /> thuyết do chúng tôi thiết kế và cải biên cho gen<br /> pdgf biểu hiện trong nấm men bằng phần mềm<br /> Jellyfish (http://www.cbcb.umd.edu/ Hình 2. Kết quả kiểm tra kiểu hình nấm men<br /> software/jellyfish/) cho độ tương đồng 100%. mang gen pdgf<br /> <br /> <br /> 79<br /> Vuong Cat Khanh et al.<br /> <br /> Khi DNA plasmid được sát nhập vào bộ gen được tách chiết và thực hiện phản ứng PCR<br /> của tế bào chủ P. pastoris trong quá trình tái tổ kiểm tra kiểu gen bằng cặp mồi 5’AOX1 và<br /> hợp tương đồng, gen AOX1 (mã hóa cho 3’AOX1. Sản phẩm PCR từ các chủng Mut+ khi<br /> enzyme alcohol oxidase, enzyme chính quy điện di sẽ thu được 2 vạch. Một vạch có kích<br /> định khả năng sử dụng methanol của P. thước 875 bp tương đương kích thước tổng của<br /> pastoris) có thể giữ lại hoặc bị loại bỏ, vì vậy gen pdgf và vùng gen AOX1 nằm trên plasmid.<br /> kiểu hình của thể biến nạp sẽ thay đổi. Nếu gen Vạch còn lại có kích thước khoảng 2,2 kb,<br /> AOX1 không bị mất đi, kiểu hình các thể biến tương ứng với gen AOX1 có sẵn trong bộ gen<br /> nạp thu được là Mut+, có khả năng tăng trưởng của X33. Ở các chủng MutS thì không có vạch<br /> tốt trên môi trường methanol. Nếu gen AOX1 bị 2,2 kb này.<br /> loại bỏ, thể biến nạp sẽ có kiểu hình MutS sinh Kết quả PCR cho thấy ở tất các các dòng<br /> trưởng kém trên môi trường có methanol. đều xuất hiện 2 vạch trên bản điện di (hình 3),<br /> Kết quả so sánh sự phát triển của thể biến điều này chứng tỏ tất cả các thể biến nạp đều có<br /> nạp trên hai môi trường MD và MM, cho thấy kiểu hình Mut+, phù hợp với kết quả kiểm tra<br /> tất cả các thể biến nạp đều tăng trưởng tốt trên kiểu hình. Các dòng này tiếp tục được phân tích<br /> cả hai môi trường (hình 2). Do đó, tất cả các thể nhằm xác định số lượng pPICZα/pdgf được sát<br /> biến nạp đều có kiểu hình Mut+ (còn giữ lại gen nhập vào bộ gen bằng phương pháp PCR bán<br /> AOX1 trong bộ gen). định lượng.<br /> Để xác nhận kết quả kiểm tra kiểu hình Xác định số lượng bản sao của gen pdgf trong<br /> (hình 2), DNA bộ gen của các thể biến nạp bộ gen các thể biến nạp<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Hình 3. PCR kiểm tra kiểu gen các thể biến nạp. (a) Vị trí bám của mồi AOX1<br /> và các kết quả PCR dự kiến tương ứng với kiểu hình Mut+ và Muts;<br /> (b) Kết quả PCR kiểm tra kiểu gen các thể nấm men mang gen pdgf<br /> <br /> Đối với các thể biến nạp nấm men kiểu hình nhiều bản sao của gen pdgf thì tỷ lệ sản phẩm<br /> Mut+, khi thực hiện phản ứng với mồi AOX1 khuếch đại càng tăng so với gen AOX1 nội sinh.<br /> (hình 3) bên cạnh sản phẩm PCR là gen AOX1 có Bằng cách tính tỉ lệ sản phẩm khuếch đại, chúng<br /> kích thước 2,2 kb, phản ứng còn cho sản phẩm tôi xác định tương đối số lượng bản sao pdgf<br /> DNA dung hợp chứa gen mục tiêu pdgf dài trong thể nấm men biến nạp (hình 4). Kết quả<br /> khoảng 875 bp có nguồn gốc từ plasmid tái tổ cho thấy, trong 20 thể nấm men mang gen pdgf<br /> hợp và được sát nhập vào bộ gen của tế bào nấm thu được, có 2 chủng mang nhiều bản sao gen<br /> men trong quá trình biến nạp. Số lượng các bản pdgf hơn so với các chủng còn lại (1 chủng mang<br /> sao DNA chèn vào bộ gen là hoàn toàn ngẫu 16 bản sao và 1 chủng mang 4 bản sao gen pdgf<br /> nhiên. Nếu bộ gen thể nấm men biến nạp chứa 1 so với các chủng còn lại chỉ mang 1 bản sao của<br /> bản sao DNA dung hợp, lượng sản phẩm DNA gen pdgf). Chúng tôi tiến hành ghi nhận kết quả<br /> 875 bp chứa gen pdgf sẽ tương tương với lượng và khảo sát khả năng tăng trưởng cũng như khả<br /> sản phẩm khuếch đại từ gen AOX1 nội sinh (2,2 năng sinh tổng hợp PDGF của các chủng nấm<br /> kb). Bộ gen thể biến nạp nấm men chứa càng men này.<br /> <br /> <br /> <br /> 80<br /> TẠP CHÍ SINH HỌC 2014, 36(1se): 77-83<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Hình 4. PCR bán định lượng xác định số lượng bản sao của các thể biến nạp<br /> a. Vị trí mồi AOX1 trên bộ gen Mut+; b. Kết quả điện di sản phẩm PCR bán định lượng; c. Số lượng bản sao<br /> tương đối của các thể biến nạp<br /> <br /> thể biến nạp. Kết quả khảo sát tăng trưởng cho<br /> thấy khả năng tăng trưởng của các thể biến nạp<br /> không khác biệt nhiều so với chủng X33 hoang<br /> dại, giá trị OD600 cao nhất đều đạt khoảng 10-15<br /> sau 48 giờ cảm ứng (hình 5). Điều này chứng tỏ<br /> các thể biến nạp đa bản sao thu nhận được<br /> không bị giảm sức sống do hiện tượng sát nhập<br /> gen gây ra.<br /> Hình 5. Đường cong tăng trưởng của chủng Kiểm tra khả năng biểu hiện PDGF của các<br /> X33 hoang dại và các thể biến nạp thể biến nạp<br /> Đánh giá khả năng tăng trưởng của các thể Để đánh giá sự ảnh hưởng của số lượng bản sao<br /> biến nạp nấm men đa bản sao pdgf gen sát nhập đến khả năng biểu hiện protein<br /> mục tiêu, chúng tôi tiến hành cảm ứng biểu hiện<br /> Việc chứa nhiều bản sao của vector trong bộ PDGF từ các thể biến nạp thu nhận được.<br /> gen có thể sẽ ảnh hưởng tới sức sống của các<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Hình 6. Khả năng biểu hiện PDGF của các thể biến nạp<br /> a. SDS-PAGE điều kiện biến tính; b. PAGEđiều kiện không biến tính; c. %PDGF/tổng protein tiết.<br /> <br /> Kết quả kiểm tra protein bằng SDS-PAGE men P. pastoris không chèn gen pdgf không<br /> cho thấy, dịch nuôi cấy của các thể biến nạp sản xuất được protein này. Phân tích bằng phần<br /> (hình 6) xuất hiện 1 vạch protein có kích thước mềm Quantity One chúng tôi nhận thấy vạch<br /> trong khoảng 17 kDa trong điều kiện biến tính protein này đậm và nhiều hơn hẳn ở thể biến<br /> tương ứng với kích thước PDGF monomer và nạp đa bản sao (thể 1 và 4) và nhiều nhất ở thể<br /> 31 kDa trong điều kiện không biến tính tương biến nạp 1, chiếm 44,5% so với tổng lượng<br /> ứng với PDGF cấu hình dimer, trong khi nấm protein tiết của tế bào (hình 6c). Kết quả này<br /> <br /> <br /> 81<br /> Vuong Cat Khanh et al.<br /> <br /> cũng phù hợp với dự đoán từ kết quả kiểm tra Wang (2008) [9] đây có thể là trạng thái dimer<br /> số lượng bản sao pPICZαA/pdgf trước đó. Dòng của protein PDGF. Điều này cho thấy khả năng<br /> tái tổ hợp 1 với số lượng bản sao pdgf sát nhập thu nhận protein PDGF ở trạng thái dimer<br /> nhiều nhất (16 bản sao) có khả năng biểu hiện (là trạng thái có hoạt tính sinh học) từ các chủng<br /> protein mục tiêu mức độ cao nhất. Thú vị hơn nẩm men tái tổ hợp. Dòng tái tổ hợp 1 được<br /> nữa, khi chúng tôi tiến hành điện di protein thu tiếp tục sử dụng để phân tích khả năng biểu hiện<br /> được từ nấm men trên gel polyacrylamide protein PDGF theo thời gian. Dịch cảm ứng<br /> không bổ sung tác nhân biến tính (hình 6b), được thu nhận sau 24, 48 và 72 giờ, sau đó<br /> chúng tôi nhận thấy protein tiết thu được ở các điện di SDS-PAGE và lai western với kháng thể<br /> chủng nấm men có kích thước khoảng 31 kDa. đặc hiệu kháng PDGF (AB20NA, R&D)<br /> Theo các nghiên cứu của Raines (1982) [8] và (hình 7).<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Hình 7. Khả năng biểu hiện PDGF theo thời gian của thể biến nạp 1<br /> a. SDS-PAGE; b. lai Western với kháng thể kháng PDGF; c. % PDGF trên tổng protein tiết.<br /> <br /> Kết quả trên bản phim cho thấy, dịch nuôi tiết PDGF cao, chiếm 55,6% tổng lượng protein<br /> cấy của các thể biến nạp 1 sau 24 giờ, 48 giờ và tiết. Các kết quả này là tiền đề cho các nghiên<br /> 72 giờ cảm ứng đều xuất hiện một băng sáng cứu phát triển sản phẩm protein PDGF tái tổ<br /> duy nhất tương ứng với vị trí của băng protein hợp tiếp theo.<br /> kích thước khoảng 31 kDa trên hình PAGE.<br /> Điều này giúp khẳng định vạch 31 kDa quan sát TÀI LIỆU THAM KHẢO<br /> trên bản điện di chính là protein PDGF dạng<br /> dimer. 1. Berlanga-Acosta J., Gavilondo-Cowley J.,<br /> Barco-Herrera D. G., Martín Machado J.,<br /> Phân tích các vạch protein mục tiêu bằng<br /> Guillen-Nieto G., 2011. Epidermal growth<br /> phần mềm Quantity One, chúng tôi nhận thấy<br /> factor (EGF) and platelet-derived growth<br /> trong 72 giờ nuôi cấy, hiệu quả biểu hiện và tiết<br /> factor (PDGF) as tissue healing agents:<br /> PDGF của thể biến nạp 1 ngày càng tăng. Tại<br /> clarifying concerns about their possible role<br /> thời điểm 72 giờ, protein PDGF được tiết ra<br /> in malignant transformation and tumor<br /> chiếm tới 55,6% so với tổng protein tiết của tế<br /> progression. Journal of Carcinogenesis &<br /> bào.<br /> Mutagenesis, 1:115. doi:10.4172/2157-<br /> KẾT LUẬN 2518.1000115<br /> Với các kết quả thu được, chúng tôi kết luận 2. Darby R. A., Cartwright S. P., Dilworth M.<br /> đã thu nhận được 2 dòng nấm men tái tổ hợp đa V., Bill R. M., 2012. Which yeast species<br /> bản sao gen pdgf. Các dòng nấm men mang shall I choose? Saccharomyces cerevisiae<br /> nhiều gen chèn này có khả năng sinh trưởng versus Pichia pastoris (review). Springer,<br /> bình thường như chủng chủ nấm men X33 ban 866: 11-23.<br /> đầu và có khả năng biểu hiện protein PDGF. 3. Embil J. M., Papp K., Sibbald G.,<br /> Trong đó, dòng Pichia pastoris X33: pdgf mang Tousignant J., Smiell J. M., Wong B., Lau<br /> 16 bản sao gen pdgf có khả năng biểu hiện và C. Y., 2000. Recombinant human platelet-<br /> <br /> <br /> 82<br /> TẠP CHÍ SINH HỌC 2014, 36(1se): 77-83<br /> <br /> derived growth factor-BB (becaplermin) for terminally sialylated glycoproteins. Science,<br /> healing chronic lower extremity diabetic 313: 1441-1443.<br /> ulcers: an open-label clinical evaluation of 6. Heldin C. H., Westermark B., 1999.<br /> efficacy. Wound Repair and Regeneration: Mechanism of action and in vivo role of<br /> Official Publication of the Wound Healing platelet-derived growth factor. Physiol.<br /> Society [and] the European Tissue Repair Rev., 79(4): 1283-316.<br /> Society, 8(3): 162-8<br /> 7. Pichia expression kit, Invitrogen, 2010,<br /> 4. Grinna L. S., Tschopp J. F., 1989. Size Catalog no. K1710-01.<br /> distribution and general structural features<br /> of N-linked oligosaccharides from the 8. Raines E. W., Ross R., 1982. Platelet-<br /> methylotrophic yeast, Pichia pastoris. derived growth factor. J. Bio. Chem.,<br /> Yeast, 5: 107-115. 257(9): 5154-5160.<br /> 5. Hamilton S. R., Davidson R. C., 9. Wang Y., Xue, L., Li Y., Zhu Y., Yang B.,<br /> Sethuraman N., Nett J. H., Jiang Y., Rios S., Wang X., 2009. High-level secretory<br /> Bobrowicz P., Stadheim T. A., Li H., Choi production of recombinant human platelet-<br /> B-K., Hopkins D., Wischnewski H., Roser derived growth factor-BB by<br /> J., Mitchel T., Strawbridge R. R., Hoopes J., Saccharomyces cerevisiae under the non-<br /> Wildt S., Gerngross T. U., 2006. selective conditions. Appl. Biochem.<br /> Humanization of yeast to produce complex Microbiol., 45(2): 154-161.<br /> <br /> A STUDY ON CONSTRUCTING AND SCREENING OF MULTI-COPY<br /> pdgf RECOMBINANT Pichia pastoris CLONES PRODUCING HIGH YIELD OF<br /> PDGF-BB (Platelet derived growth factor BB)<br /> <br /> Vuong Cat Khanh, Ngo Thi Huyen Trang, Nguyen Pham Phuong Thanh,<br /> Dang Thi Phuong Thao, Tran Linh Thuoc<br /> Vietnam National University, Ho Chi Minh city, University of Science<br /> <br /> SUMMARY<br /> <br /> Platelet-derived growth factor-BB has been approved by US Food and Drug Administration-<br /> FDA for the treatment of neuropathic ulcers. Since the number of diabetic patients has increased<br /> rapidly, it is necessary to study the production of PDGF-BB with low cost for treatment. Among the<br /> expression systems used for human recombinant protein expression, Pichia pastoris is the<br /> remarkable one with many advantages. Multiple integrated copies of target gene may give advance<br /> in driving up expression level of target protein. In this study, we succeeded in constructing and<br /> screening two yeast clones, which carry multi-copy of pdgf target gene. The two multi-copy yeast<br /> clones were subjected indetermination of PDGF expression level and compared to single-copy yeast<br /> clones. Our results showed that multi-copy pdgf yeast clones have higher level expression of target<br /> protein. PDGF produced by the multi-copy pdgf yeast clones accounted for over 50% of total<br /> secretory protein, and was folded in dimer form, which is necessary for performing biofunction in<br /> wound healing.<br /> Keywords: Pichia pastoris, multi-copy clone, platelet-derived growth factor BB, yeast.<br /> <br /> <br /> Ngày nhận bài: 15-7-2013<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 83<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2