Chu Việt Hà và Đtg<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
118(04): 169 - 174<br />
<br />
NGHIÊN CỨU CHẾ TẠO CÁC VẬT LIỆU HIỆN ĐẠI<br />
TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM – ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN<br />
Chu Việt Hà*, Đỗ Thùy Chi, Vũ Thị Kim Liên<br />
Trường Đại học Sư phạm – ĐH Thái Nguyên<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Bài báo này trình bày các kết quả nghiên cứu về chế tạo một số vật liệu mới trong gần mười năm<br />
trở lại đây tại Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên. Các vật liệu được nghiên cứu chế<br />
tạo là các vật liệu nano quang tử và quang học, bao gồm các chấm lượng tử bán dẫn và tinh thể<br />
photonic (tinh thể quang tử). Các chấm lượng tử được nghiên cứu chế tạo chủ yếu dựa trên các<br />
chất bán dẫn CdS và CdSe với phổ huỳnh quang trải rộng trong vùng nhìn thấ y tùy thuộc vào kích<br />
thước chấm. Các chấm lượng tử chế tạo được có hiệu suất lượng tử tương đối cao và độ bền quang<br />
tốt, phù hợp cho ứng dụng đánh dấu sinh học. Tinh thể photonic được chế tạo trên cơ sở các hạt<br />
nano cầu SiO2 với các màu phản xạ có thể điều khiển được trong vùng khả kiến tùy thuộc vào kích<br />
thước của các hạt cầu SiO2. Phương pháp chế tạo chủ yếu được sử dụng là phương pháp hóa ướt<br />
phù hợp với điều kiện phòng thí nghiệm.<br />
Từ khóa: Vật liệu nano quang tử, chấm lượng tử, CdS, CdSe, photonic, hạt cầu SiO2.<br />
<br />
GIỚI THIỆU*<br />
Trong vài thập niên gần đây, việc chế tạo và<br />
nghiên cứu các vật liệu nano mới và các vật<br />
liệu quang tử đang trở thành các mũi nhọn<br />
trong nghiên cứu và phát triển khoa học tại<br />
nhiều nước trên thế giới.<br />
Công nghệ nano đang thu hút được sự quan<br />
tâm đặc biệt của nhiều quốc gia trên thế giới<br />
do khả năng ứng dụng đầy triển vọng của vật<br />
liệu nano vào khoa học và đời sống. So với<br />
chất màu hữu cơ truyền thống và các protein<br />
phát quang tự nhiên, các chấm lượng tử bán<br />
dẫn có đặc tính quang học và điện tử độc đáo:<br />
có thể điều khiển ánh sáng phát xạ nhờ thay<br />
đổi kích thước, phổ phát xạ hẹp và đối xứng,<br />
độ chói cao, thời gian sống phát quang dài và<br />
điểm đặc biệt nhất là độ bền quang cao (gấp<br />
vài trăm lần so với chất màu hữu cơ), ít bị tẩy<br />
quang, và quang phổ hấp thụ rộng dễ kích<br />
thích [1]. Do đó, việc nghiên cứu ứng dụng<br />
các chấm lượng tử bán dẫn phân tán trong<br />
nước dùng cho mục đích đánh dấu sinh học<br />
đã và đang được thực hiện cả trên thế giới<br />
cũng như ở Việt Nam.<br />
Các tinh thể nano bán dẫn không pha tạp<br />
thuộc nhóm II-VI như: CdS, CdSe,… thu hút<br />
*<br />
<br />
được nhiều quan tâm hơn cả do chúng có<br />
vùng cấm thẳng, có phổ hấp thụ nằm trong<br />
vùng ánh sáng nhìn thấy và một phần nằm<br />
trong vùng tử ngoại gần phù hợp với một số<br />
lớn nguồn laser dùng trong kĩ thuật thực<br />
nghiệm. Để làm tăng hiệu suất huỳnh quang<br />
của các tinh thể nano bán dẫn, đồng thời để có<br />
thêm các bước sóng phát xạ khác nhau đối<br />
với cùng một kích thước của tinh thể nano,<br />
các tâm kích hoạt quang học như ion kim loại<br />
chuyển tiếp (Mn) hoặc ion đất hiếm đưa thêm<br />
vào các tinh thể nano bán dẫn [2-5].<br />
Tuy nhiên, do kích thước nhỏ, tỉ lệ bề mặt<br />
trên khối lớn, các trạng thái bề mặt làm giảm<br />
hiệu suất phát xạ của các tinh thể nano. Để<br />
hạn chế ảnh hưởng này, các tinh thể nano có<br />
cấu trúc lõi/vỏ được chế tạo. Cách thường sử<br />
dụng là bọc một lớp vỏ là chất bán dẫn có độ<br />
rộng vùng cấm lớn hơn quanh lõi các tinh thể<br />
nano [5]. Bằng các phương pháp hoá học, các<br />
hệ chấm lượng tử như CdSe, CdS… ở dạng<br />
huyền phù phân tán trong dung dịch có chất<br />
lượng tốt và khả năng phát quang mạnh đã<br />
được chế tạo thành công. Mặc dù vậy, những<br />
nghiên cứu về công nghệ chế tạo và những<br />
ứng dụng của các chấm lượng tử vẫn còn khá<br />
nhiều vấn đề cần được làm sáng tỏ để có thể<br />
có được các hệ chấm lượng tử có chất lượng.<br />
<br />
Email: chuvietha@tnu.edu.vn<br />
<br />
169<br />
<br />
Chu Việt Hà và Đtg<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
Tinh thể photonic là một vật liệu có cấu trúc<br />
tuần hoàn về hằng số điện môi mà nó biểu<br />
hiện tương tác mạnh với ánh sáng do có chu<br />
kỳ tuần hoàn cỡ bước sóng của ánh sáng. Các<br />
photon khi chuyển động trong tinh thể sẽ đi<br />
qua các vùng có chiết suất cao xen kẽ với các<br />
vùng có chiết suất thấp. Đối với một photon,<br />
sự tương phản về chiết suất này giống như<br />
một thế năng tuần hoàn mà một điện tử bị tác<br />
dụng trong tinh thể [6]. Do tính tuần hoàn dẫn<br />
đến trong tinh thể photonic cũng xuất hiện<br />
một vùng cấm quang: tức là có một dải tần số<br />
trong đó các photon không thể truyền qua<br />
được cấu trúc này, trong khi nó lại cho phép<br />
các bước sóng khác truyền qua tự do. Hiện<br />
nay tinh thể photonic đang được đẩy mạnh<br />
nghiên cứu cho những ứng dụng to lớn như<br />
làm các nguồn phát xạ, các vi mạch quang<br />
học, v.v.., các tinh thể photonic được trông<br />
đợi như các cấu trúc chủ yếu cho các thiết bị<br />
quang điện tử trong tương lai.<br />
Với điều kiện của Phòng Thí nghiệm Vật lý<br />
Chất rắn và các hệ đo quang học của phòng<br />
Thí nghiệm Quang học Quang phổ của Trường<br />
Đại học Sư phạm – Đại học Thái Nguyên, các<br />
vật liệu nano quang bao gồm các chấm lượng<br />
tử trên cơ sở các bán dẫn CdSe và CdS, các<br />
tinh thể photonic trên cơ sở các hạt nano cầu<br />
SiO2 đã được chế tạo thành công.<br />
Từ năm 2005, các hệ chấm lượng tử<br />
CdS/ZnS, CdS:Mn/ZnS, CdSe/CdS cho mục<br />
đích đánh dấu huỳnh quang đã được nghiên<br />
cứu chế tạo tại khoa Vật lý, trường Đại học<br />
Sư phạm – Đại học Thái nguyên. Nhiều đề tài<br />
liên quan đã được thực hiện như: “Nghiên cứu<br />
chế tạo bằng phương pháp sol – gel và tính<br />
chất quang của các nano tinh thể bán dẫn IIVI chứa các tâm phát xạ” (đề tài NCCB 2006,<br />
quỹ Phát triển Khoa học Châu Á Thái Bình<br />
Dương), “Nghiên cứu phổ phát xạ của của<br />
các chấm lượng tử bán dẫn pha tạp ion kim<br />
loại chuyển tiếp hoặc ion đất hiếm” (Đề tài<br />
cấp bộ, mã số B2006 –TN04 – 12), hay “Chế<br />
tạo và nghiên cứu tính chất quang của các<br />
tinh thể nano bán dẫn cho ứng dụng đánh dấu<br />
sinh học” (đề tài cấp Bộ, mã số B2008-TN0405). Hiện các nghiên cứu liên quan vẫn tiếp<br />
170<br />
<br />
118(04): 169 - 174<br />
<br />
tục được thực hiện thông qua các đề tài cấp<br />
Bộ và cấp Đại học Thái Nguyên.<br />
Tinh thể photonic dựa trên các hạt nano cầu<br />
SiO2 cũng được nghiên cứu chế tạo, với các<br />
đề tại cấp Bộ “Nghiên cứu chế tạo, tính chất<br />
quang của các tinh thể quang tử chứa các<br />
tâm phát xạ” (mã số B2008-TN04-06) và<br />
“Nghiên cứu chế tạo, tính chất quang của tinh<br />
thể photonic kiểu opal 3D và tinh thể<br />
photonic 1D” (mã số B2010-TN03-29). Các<br />
hạt nano cầu SiO2 còn được pha tạp thêm các<br />
ion Er để thu phát xạ trong vùng hồng ngoại<br />
nhằm ứng dụng trong thông tin quang.<br />
Dưới đây là tóm tắt các kết quả nghiên cứu.<br />
Một phần các kết quả đã được công bố trên<br />
các tạp chí khoa học trong và ngoài nước.<br />
NGHIÊN CỨU CHẾ TẠO CÁC CHẤM<br />
LƯỢNG TỬ CdS VÀ CdSe<br />
Các chấm lượng tử CdS và CdSe được nghiên<br />
cứu chế tạo với mục đích đánh dấu huỳnh<br />
quang và đặc biệt hiện nay là ứng dụng đánh<br />
dấu sinh học. Các phương pháp nghiên cứu<br />
chế tạo được hướng đến là các phương pháp<br />
hóa học phù hợp với điều kiện phòng thí<br />
nghiệm với yêu cầu sử dụng các hóa chất<br />
không độc hại.<br />
Một trong các phương pháp hóa ướt được sử<br />
dụng chế tạo các chấm lượng tử là phương<br />
pháp micelle đảo. Đó là quá trình tạo giọt<br />
micelle trong môi trường dầu bởi chất hoạt<br />
động bề mặt có nhân là pha nước có dạng hình<br />
cầu đường kính từ vài nm đến 100 nm, trong<br />
đó chứa các hạt tinh thể nano cần chế tạo.<br />
Các chấm lượng tử CdS và CdS pha tạp Mn<br />
đã được chế tạo thành công với phân bố kích<br />
thước khá hẹp. Các chấm lượng tử này được<br />
chế tạo sử dụng chất bẫy bề mặt MPS trong<br />
methanol hoặc AOT trong cồn [7, 8]. Hình 1<br />
là phổ hấp thụ của các chấm lượng tử CdS với<br />
nồng độ chất bẫy khác nhau. Sự dịch nhiều về<br />
phía sóng ngắn của đỉnh hấp thụ của các<br />
chấm lượng tử CdS cho thấy có sự mở rộng<br />
vùng cấm hiệu dụng trong các chấm lượng tử<br />
so với bán dẫn CdS khối, thể hiện hiệu ứng<br />
giam giữ lượng tử mạnh, đồng thời có thể<br />
thấy nồng độ chất bẫy càng lớn thì kích thước<br />
<br />
Chu Việt Hà và Đtg<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
chấm lượng tử càng nhỏ, như vậy có thể điều<br />
khiển được kích thước của các chấm lượng tử<br />
qua việc thay đổi tỷ lệ chất bẫy.<br />
<br />
§ é hÊp thô (®. v. t. y. )<br />
<br />
4<br />
<br />
W<br />
W<br />
W<br />
W<br />
<br />
=<br />
=<br />
=<br />
=<br />
<br />
30<br />
<br />
C- êng ®é huúnh quang (®.v.t.y.)<br />
<br />
(1)<br />
(2)<br />
(3)<br />
(4)<br />
<br />
118(04): 169 - 174<br />
<br />
2,5<br />
5<br />
7,5<br />
10<br />
<br />
3<br />
2<br />
<br />
25<br />
<br />
585<br />
Cd0.6 Mn0.4 S/ZnS<br />
<br />
20<br />
<br />
434<br />
15<br />
<br />
10<br />
<br />
5<br />
<br />
0<br />
350<br />
<br />
400<br />
<br />
450<br />
<br />
500<br />
<br />
550<br />
<br />
600<br />
<br />
650<br />
<br />
B- í c sãng (nm)<br />
<br />
1<br />
<br />
Hình 3. Phổ huỳnh quang của các chấm lượng tử<br />
CdS/ZnS pha tạp Mn<br />
<br />
Eg CdSkhèi = 2,482 eV<br />
(500 nm)<br />
<br />
250 300 350 400 450 500 550 600<br />
<br />
B- í c sãng (nm)<br />
<br />
Hình 1. Phổ hấp thụ của các chấm lượng tử CdS<br />
với nồng độ chất bẫy khác nhau<br />
<br />
Hình 4 là ảnh huỳnh quang của các chấm<br />
lượng tử CdSe/CdS dưới ánh sáng của đèn tử<br />
ngoại [10].<br />
<br />
7000<br />
<br />
W=5<br />
<br />
(1) - CdS<br />
(2) - CdS/ZnS<br />
<br />
416<br />
<br />
6000<br />
<br />
Hình 4. Ảnh dung dịch chứa chấm lượng tử<br />
CdSe/CdS với các kích thước khác nhau dưới ánh<br />
sáng của đèn tử ngoại<br />
<br />
610<br />
<br />
5000<br />
4000<br />
3000<br />
<br />
2<br />
1<br />
<br />
2000<br />
1000<br />
350<br />
<br />
400<br />
<br />
450<br />
<br />
500<br />
<br />
550<br />
<br />
600<br />
<br />
650<br />
<br />
B- í c sãng (nm)<br />
<br />
Hình 2. Phổ huỳnh quang của các chấm lượng tử<br />
CdS và CdS/ZnS<br />
<br />
Các ch ấm lượng tử CdS/ZnS pha tạp Mn<br />
cũng được nghiên cứu chế tạo thành công<br />
với phát xạ đặc trưng của ion Mn ở 585 nm<br />
(hình 3) [7].<br />
Để đưa các chấm lượng tử hướng tới ứng<br />
dụng đánh dấu sinh học, nhóm nghiên cứu đã<br />
chế tạo các chấm lượng tử CdSe phân tán<br />
trong môi trường nước sử dụng hóa chất<br />
không độc hại là chất bẫy citrate. Các chấm<br />
lượng tử chế tạo theo phương pháp này có<br />
thể ứng dụng đánh dấu trực tiếp lên các đối<br />
tượng sinh học.<br />
<br />
Các chấm lượng tử này có độ rộng phổ phát<br />
xạ hẹp (hình 5), độ bền quang cao và không<br />
bị phân hủy quang sau thời gian chế tạo nhiều<br />
tháng (hình 6); và hiệu suất lượng tử của các<br />
chấm lượng tử này khá tốt, cỡ 30%, thích hợp<br />
đánh dấu sinh học.<br />
1 2<br />
<br />
1.0<br />
<br />
Normalized intensity<br />
<br />
C- êng ®é huúnh quang (®. v. t. y.)<br />
<br />
Phần phát xạ phía sóng dài do tái hợp bề<br />
mặt trong phổ huỳnh quang của các chấm<br />
lượng tử CdS được hạn chế nhờ b ọc l ớp vỏ<br />
ZnS (hình 2), cường độ huỳnh quang và<br />
hiệu suất lượng tử tăng đáng kể khi mẫu<br />
được làm sạch [9].<br />
<br />
34 5<br />
<br />
6<br />
<br />
0.6<br />
<br />
1. 44 nm<br />
2. 41 nm<br />
3. 39 nm<br />
4. 34 nm<br />
5. 40 nm<br />
6. 30 nm<br />
<br />
0.4<br />
<br />
λexc = 480 nm<br />
<br />
0.8<br />
<br />
0.2<br />
0.0<br />
500<br />
<br />
550<br />
<br />
600<br />
<br />
650<br />
<br />
700<br />
<br />
750<br />
<br />
Wavelength (nm)<br />
<br />
Hình 5. Độ rộng phổ huỳnh quang của các chấm<br />
lượng tử CdSe/CdS với kích thước khác nhau<br />
<br />
171<br />
<br />
Chu Việt Hà và Đtg<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
4<br />
<br />
104X 60<br />
<br />
PL Intensity (counts)<br />
<br />
50<br />
<br />
(1) fresh<br />
(2) 1 day<br />
(3) 7 days<br />
(4) 3 months<br />
(5) 12 months<br />
(6) 14 months<br />
<br />
5<br />
<br />
40<br />
<br />
118(04): 169 - 174<br />
<br />
pha tạp Er bằng phương pháp xúc tác axit.<br />
Kết quả là các hạt cầu silica pha tạp ion Er<br />
với kích thước khá đồng đều (hình 7). [11].<br />
<br />
6<br />
<br />
30<br />
20<br />
3<br />
2<br />
<br />
10<br />
<br />
1<br />
<br />
0<br />
520<br />
<br />
560<br />
<br />
600<br />
<br />
640<br />
<br />
680<br />
<br />
Wavelength (nm)<br />
<br />
Hình 6. Phổ huỳnh quang của các chấm lượng tử<br />
CdSe/CdS theo thời gian sau khi chế tạo<br />
<br />
Các chấm lượng tử CdSe cũng được nghiên<br />
cứu bọc thêm một lớp hợp sinh cho đánh dấu<br />
sinh học. Cường độ huỳnh quang của các chấm<br />
lượng tử này tăng lên khi được bọc lớp<br />
polymer PEG hoặc BSA và hiệu suất lượng tử<br />
cũng tăng lên đáng kể: 35% khi bọc BSA và<br />
50% khi bọc PEG [10]. Các chấm thể hiện sự<br />
ổn định quang hóa cao trong một thời gian dài.<br />
NGHIÊN CỨU CHẾ TẠO TINH THỂ<br />
PHOTONIC DỰA TRÊN CÁC HẠT NANO<br />
CẦU SIO2<br />
Các tinh thể photonic (tinh thể quang tử) được<br />
chế tạo từ các hạt nano cầu SiO2 bằng phương<br />
pháp tự tập hợp. Các hạt nano SiO2 dạng keo<br />
được chế tạo bằng phương pháp sol-gel trong<br />
môi trường lỏng qua các phản ứng thủy phân<br />
và ngưng tụ sử dụng các tiền chất TEOS<br />
(CH3COOH:H2O), ethanol và các xúc tác axit<br />
hoặc bazơ. Các hạt cầu SiO2 được chế tạo với<br />
kích thước từ 100 đến ~ 600 nm, phân tán<br />
trong cồn ethanol. Khi sử dụng xúc tác bazơ<br />
(NH4OH), các hạt SiO2 thu được có kích<br />
thước khá đồng đều, nhưng không thể pha tạp<br />
các ion đất hiếm vào trong các hạt silica vì<br />
các ion đất hiếm khi gặp môi trường bazơ sẽ<br />
tạo thành các hyroxit không tan. Khi sử dụng<br />
xúc tác axit (axit acetic), các ion đất hiếm rất<br />
dễ dàng được pha tạp vào các hạt cầu SiO2,<br />
nhưng kích thước của các hạt cầu silica thu<br />
được lại không đồng đều.<br />
Để khắc phục, các hạt này được chế tạo dưới<br />
dạng lõi/vỏ. Lõi cầu SiO2 được chế tạo với<br />
xúc tác bazơ. Sau đó phủ một lớp vỏ SiO2 có<br />
172<br />
<br />
Hình 7. Ảnh SEM của các hạt cầu silica chế tạo<br />
kết hợp xúc tác bazơ với xúc tác axit. Ảnh nhỏ<br />
phía trên là các hạt lõi silica khi chưa phủ lớp vỏ<br />
có pha tạp Er3+ [11]<br />
<br />
Các tinh thể photonic kiểu opal sau đó được<br />
chế tạo bằng phương pháp tự tập hợp các hạt<br />
cầu silica trên đế silic, sử dụng sự chênh lệch<br />
nhiệt độ. Đế Si sẽ hút các hạt SiO2và quá<br />
trình hướng nhiệt sẽ làm khô dung môi, giúp<br />
các hạt gần mặt khum không bay hơi sẽ bám<br />
vào đế, tạo nên một sự xếp chặt các hạt cầu<br />
SiO2 trên mặt đế [12].<br />
<br />
Hình 8. Ảnh SEM chụp bề mặt một mẫu tinh thể<br />
photonic kiểu opal<br />
<br />
Hình 8 là ảnh SEM chụp bề mặt của một mẫu<br />
tinh thể opal nhân tạo được làm từ các hạt cầu<br />
có kích thước 300nm. Các hạt cầu được xắp<br />
xếp theo một cấu trúc trật tự và đều đặn trên<br />
đế Si, theo dạng một mạng lục giác. Tuy<br />
nhiên có thể nhận thấy có các vị trí xuất hiện<br />
sai hỏng mạng. Đây là vấn đề cần phải nghiên<br />
cứu tiếp để tạo được mẫu tinh thể hoàn hảo<br />
trên diện rộng.<br />
Các mẫu tinh thể photonic được chụp dưới<br />
kính hiển vi quang học cho thấy có cấu trúc<br />
trật tự, phản xạ ánh sáng theo định luật Bragg<br />
[12]. Tùy thuộc vào góc của ánh sáng tới, tinh<br />
<br />
Chu Việt Hà và Đtg<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
thể photonic cho màu phản xạ khác nhau dẫn<br />
đến có thể ứng dụng trong thông tin truyền<br />
quang. Hình 9 là ảnh hiển vi quang học của<br />
một mẫu tinh thể photonic với góc phản xạ<br />
400 (phản xạ ánh sáng xanh). Ảnh cho thấy<br />
màu xanh lá cây phản xạ từ toàn bộ bề mặt<br />
mẫu là khá đồng đều.<br />
<br />
Hình 9. Ảnh kính hiển vi quang học của một mẫu<br />
tinh thể photonic, chiều ngang ảnh là 8000 µm<br />
<br />
KẾT LUẬN<br />
Các vật liệu hiện đại nano quang và quang tử<br />
bao gồm các chấm lượng tử và tinh thể<br />
photonic được chúng tôi nghiên cứu chế tạo<br />
với sự ổn định quang và chất lượng quang<br />
khá tốt. Việc nghiên cứu hoàn thiện các hệ vật<br />
liệu này để có các ứng dụng trực tiếp trong<br />
đánh dấu huỳnh quang và thông tin quang<br />
đang và sẽ được tiếp tục nghiên cứu và đẩy<br />
mạnh hơn nữa.<br />
LỜI CẢM ƠN<br />
Công trình được thực hiện dưới sự hỗ trợ<br />
kinh phí của đề tài NCKH cấp Bộ GD và ĐT,<br />
mã số B2014-TN03-09<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
[1]. Chu Viet Ha, Vu Thi Hong Hanh, Vu Thi<br />
Kim Lien, Pham Thai Cuong, Vu Duc Chinh,<br />
Pham Thu Nga, C. Barthou, P. Benalloul, AJSTD<br />
Vol. 24 Issues 1&2, (2007), 77-84<br />
[2]. A. Ishizumi and Y. Kanemitsu, Adv. Mater.<br />
18, 1083 (2006).<br />
[3]. H. Yang, P. Hollowway, G. Cunningham,<br />
<br />
118(04): 169 - 174<br />
<br />
and K Schanze, J. Chem. Phys. 121 (20), 10233<br />
(2004)<br />
[4]. A. a. Bol et al, J. Chem. Phys. Sol., 64, 247<br />
(2003)<br />
[5]. Danniel, J. and Danniel Gamelin, R. (2005),<br />
Progress in Inorganic Chem., vol. 54, pp. 47-126.<br />
[6]. D. Deng, J. Yu, and Y. Pan, Journal of<br />
Colloidand Interface Science, 2006, Vol. 299, pp.<br />
225-232<br />
[7]. Vu Thi Kim Lien, Chu Viet Ha, Trieu Thi<br />
Thu Thuy, Vu Thi Hong Hanh, Pham Thai Cuong,<br />
Le Tien Ha, Nguyen Xuan Ca, Pham Thu Nga,<br />
Advances in Natural Sciences, Vol. 8, No. 3 & 4,<br />
2007, pp 201 – 208<br />
[8]. Vu Thi Kim Lien, Chu Viet Ha, Le Tien Ha<br />
and Nguyen Nhu Dat, Journal of Physics:<br />
Conference Series (AMSN08), IOP Publishing<br />
187 (2009) 012028<br />
[9]. Chu Viet Ha, Vu Thi Kim Lien, Le Tien Ha,<br />
Pham Thai Cuong, and Nguyen Nhu Dat,<br />
Proceeding of Advancses in Optics photonics<br />
Spectroscopy & Applications V, 2008, pp 456-460<br />
[10]. Viet Ha Chu, Thi Ha Lien Nghiem, Tien Ha<br />
Le, Dinh Lam Vu, Hong Nhung Tran and Thi Kim<br />
Lien Vu, Advances in Natural Sciences:<br />
Nanoscience<br />
and<br />
Nanotechnology,<br />
IOP<br />
Publishing, 3 (2012) 025017<br />
[11]. Do Thuy Chi, Pham Van Hoi, Pham Thu<br />
Nga, Pham Thai Cuong and Bui Huy (2009),<br />
“Synthesis of erbium-doped silica microspheres<br />
by<br />
acid-based<br />
method<br />
for<br />
biologycal<br />
applications”, Tuyển tập các báo cáo Hội nghị Vật<br />
lý Chất rắn và Khoa học Vật liệu toàn quốc lần<br />
thứ 6 (SPMS-2009), Đà Nẵng,Việt Nam, tr.328331<br />
[12]. Pham Thu Nga, Vu Duc Chinh, Pham Thai<br />
Cuong, Nguyen Xuan Nghia, Nguyễn Viết Huy,<br />
Nguyễn Như Đạt, Dao Nguyen Thuan, Chu Viet<br />
Ha, Do Thuy Chi, Le Lan Anh, C. Barthou, P.<br />
Benalloul, M. Romaneli, A. Maitre (2007).<br />
“Experimental study of 3D self – assembled<br />
photonic crystal and colloidal core-shell<br />
semiconductor quantum dots”, Asean Journal on<br />
Science and Technology for development, 24<br />
(1&2), pp. 161-17<br />
<br />
173<br />
<br />