intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Nghiên cứu đánh giá sự thuận lợi của phương pháp an thần do người gây mê điều khiển bằng Propofol trong phẫu thuật răng khôn hàm dưới

Chia sẻ: Ni Ni | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

59
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của bài viết nhằm đánh giá sự thuận lợi của phương pháp gây mê điều khiển (ACS = anesthesiologist controlled sedation) sử dụng propofol an thần trong phẫu thuật răng khôn. Đối tượng và phương pháp: thử nghiệm lâm sàng có đối chứng trên 2 nhóm bệnh nhân (BN) tuổi 18 - 60.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Nghiên cứu đánh giá sự thuận lợi của phương pháp an thần do người gây mê điều khiển bằng Propofol trong phẫu thuật răng khôn hàm dưới

t¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 6-2016<br /> <br /> NGHIÊN CỨU ĐÁNH GIÁ SỰ THUẬN LỢI CỦA<br /> PHƯƠNG PHÁP AN THẦN DO NGƯỜI GÂY MÊ ĐIỀU KHIỂN<br /> BẰNG PROPOFOL TRONG PHẪU THUẬT RĂNG KHÔN HÀM DƯỚI<br /> Nguyễn Quang Bình*<br /> TÓM TẮT<br /> Mục tiêu: đánh giá sự thuận lợi của phương pháp gây mê điều khiển (ACS = anesthesiologist<br /> controlled sedation) sử dụng propofol an thần trong phẫu thuật răng khôn. Đối tượng và<br /> phương pháp: thử nghiệm lâm sàng có đối chứng trên 2 nhóm bệnh nhân (BN) tuổi 18 - 60,<br /> xếp loại sức khỏe theo ASA (American Society of Anesthesiologists) I - II: nhóm gây tê đơn<br /> thuần (GTĐT) (n = 54) và nhóm ACS (n = 54). Kết quả: nhóm ACS và nhóm GTĐT: mức độ khó<br /> của phẫu thuật 8,72 ± 2,12 điểm và 8,48 ± 1,83 điểm (p > 0,05); thời gian phẫu thuật 22,85 ±<br /> 4,50 phút so với 23,35 ± 4,02 phút (p > 0,05); BN hợp tác tốt 90,74% so với 25,93% (p < 0,01);<br /> BN không cử động trong mổ 98,15% so với 51,85% (p < 0,01) và mức độ cử động 1,02 ± 0,14<br /> điểm so với 1,61 ± 0,74 điểm (p < 0,05); mức độ hài lòng 8,39 ± 1,07 điểm so với 6,74 ± 1,63<br /> điểm (p < 0,01); mức độ hài lòng của phẫu thuật viên 8,11 ± 0,72 điểm so với 6,85 ± 0,94 điểm<br /> (p < 0,01). Kết luận: phương pháp ACS bằng propofol có sự hợp tác với phẫu thuật tốt hơn,<br /> mức độ cử động trong phẫu thuật ít hơn, mức độ hài lòng của BN và phẫu thuật viên cao hơn<br /> so với phương pháp GTĐT.<br /> * Từ khóa: Phẫu thuật răng khôn; An thần; Gây mê điều khiển; Gây tê đơn thuần; Propofol.<br /> <br /> Evaluation of Advantages of Anesthesiologist Controlled Sedation<br /> by Using Propofol in Wisdom Teeth Surgery<br /> Summary<br /> Objectives: To evaluate the advantages of ACS by using propofol in wisdom teeth surgery.<br /> Subjects and methods: Control clinical trial method was carried out on 108 patients aged 18 - 60,<br /> ASA I - II, pure anesthesia group (n = 54) and ACS group (n = 54). Results: The difficult<br /> level of the surgery 8.72 ± 2.12 vs 8.48 ± 1.83 points (p > 0.05); surgical duration 22.85 ± 4.50 vs<br /> 23.35 ± 4.02 minutes (p > 0.05); patients with good cooperation 90.74% vs 25.93% (p < 0.01);<br /> the patient could not move during surgery 98.15% vs 51.85% (p < 0.01) and the degree of<br /> movement 1.02 ± 0.14 vs 1.61 ± 0.74 points (p < 0.05); satisfaction level 8.39 ± 1.07 vs 6.74 ±<br /> 1.63 points (p < 0.01); satisfaction level of surgeons 8.11 ± 0.72 vs 6.85 ± 0.94 points (p < 0.01)<br /> in group of ACS and pure anesthesia, respectively. Conclusion: The ACS method by using<br /> propofol has better surgical cooperation, less movement degree in surgery, higher satisfaction<br /> level of both patients and surgeons than pure anesthesia methods.<br /> * Key words: Wisdom teeth surgery; Sedation; Anesthesiologist controlled sedation; Pure<br /> anesthesia; Propofol.<br /> * Bệnh viện Răng Hàm mặt Trung ương<br /> Người phản hồi (Corresponding): Nguyễn Quang Bình (nguyenbinh3010@gmail.com)<br /> Ngày nhận bài: 04/04/2016; Ngày phản biện đánh giá bài báo: 24/05/2016<br /> Ngày bài báo được đăng: 28/06/2016<br /> <br /> 211<br /> <br /> T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 6-2016<br /> ĐẶT VẤN ĐỀ<br /> Nhu cầu chăm sóc sức khỏe răng miệng<br /> cần phải tiến tới sự hoàn thiện, giúp BN dễ<br /> dàng chấp nhận, không bị lo lắng, sợ hãi<br /> khi phải can thiệp trong miệng. Khoang<br /> niêm mạc miệng có nhiều thần kinh cảm<br /> giác tinh tế nên khi can thiệp bằng thuốc<br /> gây tê tại chỗ đơn thuần BN dễ bị kích<br /> thích khó chịu. ACS là phương pháp an thần<br /> do người gây mê điều khiển: sử dụng tiêm<br /> liều nhỏ an thần bằng propofol trước khi<br /> gây tê tại chỗ để phẫu thuật và duy trì<br /> những liều tiếp theo trong suốt quá trình<br /> phẫu thuật tùy theo đáp ứng của BN. Mục<br /> đích của phương pháp này là kiểm soát<br /> mức độ an thần của BN, giúp BN đạt mức<br /> an thần tỉnh và không bị an thần quá mức,<br /> hợp tác tốt, tạo điều kiện cho quá trình<br /> phẫu thuật diễn ra thuận lợi. Tuy nhiên,<br /> ở Việt Nam sử dụng phương pháp ACS<br /> an thần bằng propofol trong can thiệp nha<br /> khoa còn là vấn đề mới. Chúng tôi tiến<br /> hành nghiên cứu này nhằm: Đánh giá sự<br /> thuận lợi và hạn chế của phương pháp ACS<br /> bằng propofol.<br /> ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP<br /> NGHIÊN CỨU<br /> 1. Đối tượng nghiên cứu.<br /> - BN có chỉ định phẫu thuật răng khôn<br /> hàm dưới (răng số 38 hoặc 48), tuổi từ<br /> 18 - 60, tình trạng toàn thân theo ASA I, II.<br /> - Địa điểm nghiên cứu: phòng mổ phẫu<br /> thuật ngoại trú, Bệnh viện Răng Hàm Mặt<br /> Trung ương.<br /> 2. Phương pháp nghiên cứu.<br /> * Thiết kế nghiên cứu: thử nghiệm lâm<br /> sàng, mù đơn, có đối chứng.<br /> 212<br /> <br /> BN được chia làm hai nhóm:<br /> - Nhóm 1 (GTĐT): 54 BN.<br /> - Nhóm 2 (ACS): 54 BN.<br /> * Phương pháp tiến hành:<br /> - Chuẩn bị BN, dụng cụ, phương tiện:<br /> theo quy trình chuẩn.<br /> - Phương pháp vô cảm:<br /> + Nhóm 1 (GTĐT): gây tê tại chỗ đơn<br /> thuần tại vị trí lỗ gai spix, nơi dây thần kinh<br /> huyệt răng dưới đi qua, bằng cách tiêm<br /> trực tiếp lidocain 2% có pha epinephrin<br /> 1/100.000 với liều đầu 2 mg/kg; thêm liều<br /> lidocain tùy theo đáp ứng của BN trong<br /> quá trình phẫu thuật (tổng liều lidocain<br /> không quá 6 mg/kg).<br /> + Nhóm 2 (ACS): tiêm tĩnh mạch propofol<br /> liều đầu 20 mg trước 1 phút khi gây tê tại<br /> chỗ và sau đó tiến hành như nhóm 1. Duy<br /> trì tiêm từng liều ngắt quãng bolus 20 mg<br /> propofol theo đáp ứng của BN.<br /> * Các chỉ tiêu đánh giá:<br /> - Thời điểm đánh giá T0: 5 phút truớc an<br /> thần; T1: 1 phút sau an thần; T2: 5 phút,<br /> T3: 10 phút, T4: 15 phút phẫu thuật; T5: kết<br /> thúc phẫu thuật; TX: khi xuất viện.<br /> - Mức độ khó phẫu thuật răng khôn theo<br /> Pedensen: khó ít (1 - 5 điểm), khó vừa<br /> (6 - 10 điểm), rất khó (11 - 15 điểm) [7].<br /> - Thời gian phẫu thuật (phút): bắt đầu<br /> rạch niêm mạc đến khi khâu đóng.<br /> - Đánh giá về sự hợp tác theo Rodrigo<br /> trong phẫu thuật [8].<br /> - Đánh giá mức độ cử động theo Ellis<br /> trong phẫu thuật [4].<br /> - Đánh giá về mức độ hài lòng của BN<br /> và phẫu thuật viên theo thang điểm VAS<br /> <br /> t¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 6-2016<br /> (hỏi trước khi xuất viện): 0 - 3: không hài<br /> lòng; 4 - 5: hài lòng ít; 6 - 7: hài lòng; 8 - 10:<br /> rất hài lòng.<br /> * Đạo đức nghiên cứu: tuân thủ các<br /> nguyên tắc trong tuyên bố Helsinki (1975)<br /> <br /> được Hội nghị Y tế Thế giới 29 (Tokyo)<br /> (1986) thông qua.<br /> * Phương pháp xử lý số liệu: theo phần<br /> mềm thống kê SPSS 15.0; có ý nghĩa thống<br /> kê khi p < 0,05.<br /> <br /> KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN<br /> Bảng 1: Đặc điểm chung.<br /> Chỉ tiêu<br /> Tuổi trung bình (năm) (X ± SD)<br /> Giới: Nam (%)<br /> Nữ (%)<br /> Cân nặng trung bình (kg) (X ± SD)<br /> ASA: Loại I (%)<br /> Loại II (%)<br /> <br /> Nhóm GTĐT (n = 54)<br /> <br /> Nhóm ACS (n = 54)<br /> <br /> p<br /> <br /> 28,81 ± 8,51<br /> <br /> 28,30 ± 8,15<br /> <br /> > 0,05<br /> <br /> 72,22<br /> 27,78<br /> <br /> 70,37<br /> 29,63<br /> <br /> > 0,05<br /> <br /> 56,56 ± 8,11<br /> <br /> 54,74 ± 7,68<br /> <br /> > 0,05<br /> <br /> 88,98<br /> 11,11<br /> <br /> 83,33<br /> 16,67<br /> <br /> > 0,05<br /> <br /> Hai nhóm BN tương đối tương đồng về tuổi, giới, cân nặng và tình trạng sức khỏe<br /> trước vô cảm.<br /> Bảng 2: Mức khó phẫu thuật.<br /> Nhóm GTĐT (n = 54)<br /> Mức khó phẫu thuật<br /> <br /> Nhóm ACS (n = 54)<br /> <br /> n<br /> <br /> %<br /> <br /> n<br /> <br /> %<br /> <br /> Khó ít<br /> <br /> 6<br /> <br /> 11,11<br /> <br /> 5<br /> <br /> 9,26<br /> <br /> Khó vừa<br /> <br /> 39<br /> <br /> 72,22<br /> <br /> 38<br /> <br /> 70,37<br /> <br /> Rất khó<br /> <br /> 9<br /> <br /> 16,67<br /> <br /> 11<br /> <br /> 20,37<br /> <br /> Điểm trung bình X ± SD<br /> <br /> 8,48 ± 1,83<br /> <br /> Kết quả cho thấy về mức khó trung<br /> bình trong phẫu thuật răng khôn ở nhóm<br /> GTĐT và ACS khác biệt không có ý nghĩa<br /> thống kê (p > 0,05), theo tiêu chuẩn của<br /> Pedersen và Mai Đình Hưng ở mức độ khó<br /> vừa [7]. Như vậy, về mức độ khó phẫu<br /> thuật răng khôn ở 2 nhóm nghiên cứu<br /> tương đồng nhau. Tỷ lệ BN có mức khó<br /> ít, khó vừa và rất khó trong phẫu thuật<br /> ở nhóm GTĐT và ACS khác biệt không<br /> có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Ở 2 nhóm,<br /> <br /> 8,72 ± 2,12<br /> <br /> p<br /> <br /> > 0,05<br /> > 0,05<br /> <br /> số BN có mức khó vừa chiếm tỷ lệ cao<br /> hơn mức khó ít và rất khó.<br /> Kết quả của chúng tôi tương tự một số<br /> nghiên cứu khác tại Việt Nam. Lê Ngọc<br /> Thanh (2005) nghiên cứu 83 BN thấy<br /> điểm khó trung bình răng khôn hàm dưới<br /> là 7,93 ± 2,53 điểm và tỷ lệ BN khó ít<br /> 10,8%, khó vừa 62,7% và rất khó 26,5%<br /> [3]. Phạm Như Hải (1999) cho rằng điểm<br /> khó trung bình của răng khôn hàm dưới<br /> 9,40 ± 1,80 điểm và tỷ lệ BN khó ít 6%,<br /> khó vừa 64% và rất khó 30% [1].<br /> 213<br /> <br /> T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 6-2016<br /> Bảng 3: Thời gian phẫu thuật.<br /> Thời gian phẫu thuật (phút)<br /> <br /> Nhóm BN<br /> <br /> X ± SD<br /> <br /> Min - Max<br /> <br /> Nhóm GTĐT (n = 54)<br /> <br /> 23,35 ± 4,02<br /> <br /> 14 - 33<br /> <br /> Nhóm ACS (n = 54)<br /> <br /> 22,85 ± 4,50<br /> <br /> 12 - 35<br /> <br /> p<br /> <br /> > 0,05<br /> <br /> Thời gian phẫu thuật ở nhóm GTĐT và ACS khác biệt không có ý nghĩa thống kê<br /> (p > 0,05). Lê Ngọc Thanh (2005) phẫu thuật răng khôn hàm dưới bằng GTĐT cho 83 BN<br /> thấy thời gian phẫu thuật trung bình 27,68 ± 12,7 phút [3]. Kết quả của chúng tôi tương<br /> tự như Zacharias (1998) khi nghiên cứu 19 BN phẫu thuật răng khôn: thời gian phẫu thuật<br /> 19,4 (16,6 - 22,2) phút [10]. Như vậy, phương pháp ACS bằng propofol giúp cho quá trình<br /> hợp tác giữa phẫu thuật viên và BN diễn ra thuận lợi và giảm thời gian phẫu thuật.<br /> Bảng 4: Sự hợp tác của BN trong phẫu thuật.<br /> Sự hợp tác với<br /> phẫu thuật<br /> <br /> Nhóm GTĐT (n = 54)<br /> <br /> Nhóm ACS (n = 54)<br /> <br /> n<br /> <br /> %<br /> <br /> n<br /> <br /> %<br /> <br /> Tốt<br /> <br /> 14<br /> <br /> 25,93<br /> <br /> 49<br /> <br /> 90,74 *<br /> <br /> Trung bình<br /> <br /> 33<br /> <br /> 61,11<br /> <br /> 5<br /> <br /> 9,26<br /> <br /> Kém<br /> <br /> 7<br /> <br /> 12,96<br /> <br /> 0<br /> <br /> 0<br /> <br /> ( *: Khác biệt có ý nghĩa thống kê) ( p < 0,01).<br /> Sự hợp tác của BN trong phẫu thuật ở nhóm ACS tốt hơn nhóm GTĐT (p < 0,01).<br /> Ở nhóm ACS, propofol có tác dụng giúp BN thoải mái, dễ dàng chấp nhận và phẫu<br /> thuật được thuận lợi. Rodrigo và CS (2004) nghiên cứu 52 BN dùng an thần bằng<br /> propofol trong phẫu thuật răng khôn thấy sự hợp tác của BN trong phẫu thuật có mức<br /> tốt 73,08%, trung bình 23,08% và kém 3,84% [8].<br /> Bảng 5: Tỷ lệ và mức độ cử động của BN trong phẫu thuật.<br /> Cử động trong<br /> phẫu thuật<br /> <br /> Nhóm GTĐT (n = 54)<br /> <br /> Nhóm ACS (n = 54)<br /> <br /> p<br /> <br /> n<br /> <br /> %<br /> <br /> n<br /> <br /> %<br /> <br /> Không cử động<br /> <br /> 28<br /> <br /> 51,85<br /> <br /> 53<br /> <br /> 98,15 *<br /> <br /> < 0,01<br /> <br /> Cử động<br /> - Ít<br /> - Trung bình<br /> - Nhiều<br /> - Không mổ được<br /> <br /> 26<br /> 20<br /> 5<br /> 1<br /> 0<br /> <br /> 48,15<br /> 37,04<br /> 9,26<br /> 1,85<br /> 0<br /> <br /> 1<br /> 1<br /> 0<br /> 0<br /> 0<br /> <br /> 1,85 *<br /> 1,85<br /> 0<br /> 0<br /> 0<br /> <br /> < 0,01<br /> <br /> Mức độ cử động (X ± SD)<br /> <br /> 1,61 ± 0,74<br /> <br /> (*: Khác biệt có ý nghĩa thống kê, p < 0,01).<br /> 214<br /> <br /> 1,02 ± 0,14 *<br /> <br /> < 0,01<br /> <br /> t¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 6-2016<br /> Mức độ và tỷ lệ BN cử động trong phẫu<br /> thuật ở nhóm ACS thấp hơn có ý nghĩa<br /> thống kê (p < 0,01) so với nhóm GTĐT.<br /> Ở nhóm GTĐT, BN cử động trong phẫu<br /> thuật chủ yếu do đau, lo sợ nên phải tăng<br /> thêm liều thuốc tê. Ở nhóm ACS, dưới<br /> tác dụng của propofol, BN không cử động<br /> do giảm lo sợ, thoải mái và tăng ngưỡng<br /> chịu đau. Timothy (2004) cho rằng những<br /> BN lo sợ nhiều trước mổ sẽ tăng cử động<br /> trong mổ. Mức lo sợ nhiều là yếu tố dự<br /> báo về nhu cầu an thần tăng và cử động<br /> tăng trong phẫu thuật [9]. Maranets (1999)<br /> cho rằng an thần làm giảm lo sợ chủ quan<br /> của BN nên giảm liều thuốc tê [5]. Như vậy,<br /> propofol có hiệu quả an thần làm giảm<br /> căng thẳng thần kinh, lo sợ và cử động<br /> trong phẫu thuật, tạo điều kiện thuận lợi<br /> và nâng cao chất lượng cuộc mổ hơn so<br /> với nhóm không sử dụng an thần. Mức độ<br /> cử động của BN tác động mạnh đến sự<br /> hài lòng của BN và phẫu thuật viên trong<br /> phẫu thuật.<br /> Bảng 6: Mức độ hài lòng của BN và<br /> phẫu thuật viên.<br /> Mức độ<br /> hài lòng<br /> <br /> Nhóm GTĐT<br /> (n = 54)<br /> (X ± SD)<br /> <br /> Nhóm ACS<br /> (n = 54)<br /> (X ± SD)<br /> <br /> p<br /> <br /> Của BN<br /> <br /> 6,74 ± 1,63<br /> <br /> 8,39 ± 1,07 *<br /> <br /> < 0,01<br /> <br /> Của phẫu<br /> thuật viên<br /> <br /> 6,85 ± 0,94<br /> <br /> 8,11 ± 0,72 *<br /> <br /> (*: Khác biệt có ý nghĩa thống kê,<br /> p < 0,01).<br /> Điểm hài lòng của BN và phẫu thuật viên<br /> ở nhóm ACS cao hơn có ý nghĩa thống kê<br /> (p < 0,01) so với nhóm GTĐT.<br /> <br /> Như vậy, dưới tác dụng an thần của<br /> propofol, BN ở nhóm ACS thoải mái, hợp<br /> tác tốt hơn so với nhóm GTĐT. Kết quả<br /> của chúng tôi tương tự kết quả của một<br /> số tác giả khác: Oei - Lim (1998) sử dụng<br /> phương pháp ACS bằng propofol thấy<br /> mức độ hài lòng của BN là 9 điểm (8 - 10)<br /> và phẫu thuật viên là 8 điểm (7 - 10) [6].<br /> Tào Ngọc Sơn (2006) nghiên cứu an thần<br /> propofol cho thấy điểm hài lòng của phẫu<br /> thuật viên ở nhóm ACS cao hơn có ý<br /> nghĩa (p < 0,05) so với GTĐT [2]. Sự hài<br /> lòng của BN và phẫu thuật viên là yếu tố<br /> khách quan đánh giá hiệu quả ưu việt của<br /> phương pháp an thần trong can thiệp nha<br /> khoa so với GTĐT. Tuy nhiên, cần phải<br /> có người gây mê kiểm soát mức độ an<br /> thần, tránh các tai biến có thể xảy ra trong<br /> quá trình phẫu thuật.<br /> KẾT LUẬN<br /> Phương pháp an thần do người gây<br /> mê điều khiển bằng propofol trên BN<br /> phẫu thuật răng khôn hàm dưới có thời<br /> gian phẫu thuật như nhau, mức độ hợp<br /> tác tốt hơn, mức độ cử động ít hơn, BN<br /> và phẫu thuật viên hài lòng cao hơn so<br /> với phương pháp GTĐT.<br /> TÀI LIỆU THAM KHẢO<br /> 1. Phạm Như Hải. Nhận xét tình hình răng<br /> khôn hàm dưới mọc lệch ngầm ở sinh viên lứa<br /> tuổi 18 - 25 và xử trí. Luận văn Thạc sỹ Y học.<br /> Đại học Y Hà Nội. 1999.<br /> 2. Tào Ngọc Sơn. Đánh giá tác dụng an<br /> thần bằng propofol do BN tự điều khiển trong<br /> thủ thuật nội soi đại tràng. Luận văn Thạc sỹ<br /> Y học. Đại học Y Hà Nội. 2006.<br /> <br /> 215<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2