intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Nghiên cứu điều chế gel in situ nano lipid chứa mangiferin

Chia sẻ: ViAugustus2711 ViAugustus2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

43
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mangiferin (MGF) là một polyphenol có nhiều tác dụng dược lý đã được công bố, đặc biệt MGF đã được chứng minh có tác dụng kháng virus virus herpes... Hướng tới việc bào chế chế phẩm dùng điều trị nhiễm virus herpes âm đạo, đề tài đặt ra mục tiêu nghiên cứu điều chế gel in situ nano lipid chứa mangiferin (inMGF-NLC).

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Nghiên cứu điều chế gel in situ nano lipid chứa mangiferin

Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019<br /> <br /> <br /> NGHIÊN CỨU ĐIỀU CHẾ GEL IN SITU NANO LIPID<br /> CHỨA MANGIFERIN<br /> Lê Đình Nguyên*, Nguyễn Đức Hạnh*<br /> <br /> TÓMTẮT<br /> Mở đầu – mục tiêu: Mangiferin (MGF) là một polyphenol có nhiều tác dụng dược lý đã được công bố,<br /> đặc biệt MGF đã được chứng minh có tác dụng kháng virus virus herpes... Hướng tới việc bào chế chế phẩm<br /> dùng điều trị nhiễm virus herpes âm đạo, đề tài đặt ra mục tiêu nghiên cứu điều chế gel in situ nano lipid<br /> chứa mangiferin (inMGF-NLC).<br /> Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Tiểu phân nano lipid chứa mangiferin (MGF-NLC) được<br /> điều chế bằng phương pháp siêu âm nóng với các tá dược lipid lỏng Capryol 90, lipid rắn Apifil, chất diện<br /> hoạt Cremophor® RH40 và chất đồng diện hoạt Lutrol® E-400. Tính chất của tiểu phân MGF-NLC được<br /> đánh giá thông qua các chỉ số kích thước tiểu phân (PS-particle size), dãy phân bố kích thước hạt (PdI-<br /> polydispersity index), khả năng bắt giữ (EE-entrapment efficiency) và khả năng tải hoạt chất (DL-drug<br /> loading). Tỷ lệ poloxamer 407 (Plx 407) phối hợp trong công thức hệ inMGF-NLC được khảo sát lựa chọn<br /> dựa vào nhiệt độ hóa gel in situ phù hợp với điều kiện cơ thể. Tá dược poloxamer 188 (Plx 188) được lựa<br /> chọn đồng phối hợp với Plx 407 để tạo hệ inMGF-NLC có nhiệt độ hóa gel in situ và độ nhớt phù hợp.<br /> Kết quả và bàn luận: PS, PdI, EE và DL của công thức MGF-NLC được xác định lần lượt là 40,27<br /> nm; 0,165; 87,07% và 0,119%. Plx 407 cho khả năng tạo gel in situ ở tỷ lệ 14%, 15% và 16% khi phối hợp<br /> với hệ MGF-NLC. Plx 188 có thể làm thay đổi nhiệt độ tạo gel in situ của Plx ở các tỷ lệ khác nhau. Tỉ lệ<br /> 15% Plx 407 và 20% Plx 188 cho hệ inMGF-NLC có nhiệt độ tạo gel in situ và độ nhớt lần lượt là 36oC và<br /> 329 cP.s.<br /> Kết luận: Hệ gel in situ nano lipid chứa MGF đã được nghiên cứu điều chế thành công. Đây là công bố<br /> đầu tiên về gel in situ nano lipid chứa MGF. Kết quả đề tài là cơ sở quan trọng cho các nghiên cứu tiếp theo<br /> về gel in situ sử dụng đường âm đạo.<br /> Từ khóa: mangiferin, NLC, gel in situ, poloxamer 407, poloxamer 188<br /> ABSTRACT<br /> DEVELOPMENT OF IN SITU GEL FORMULATION CONTAINING<br /> MANGIFERIN-LOADED NANOSTRUCTURED LIPID CARRIERS<br /> Le Dinh Nguyen, Nguyen Duc Hanh<br /> * Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 2- 2019: 272-278<br /> <br /> Background – Objectives: Mangiferin, a polyphenol compound, has been reported to possess several<br /> bioactivities including the herpes simplex virus treatment. In order to develop an effective anti-herpes<br /> simplex virus product for vaginal administration, the in situ gel formulation containing mangiferin-loaded<br /> nanostructured lipid carriers (inMGF-NLC) was developed.<br /> Methods: Mangiferin-loaded nanostructured lipid carriers (MGF-NLC) were prepared by hot<br /> sonication technique employing Capryol 90, Apifil, Cremophor® RH40 and Lutrol® E-400 as liquid lipid,<br /> <br /> *<br /> Khoa Dược, Đại Học Y Dược Thành Phố Hồ Chí Minh<br /> Tác giả liên lạc: TS. Nguyễn Đức Hạnh ĐT: 0913576748 Email: duchanh@ump.edu.vn<br /> <br /> <br /> <br /> 272 Chuyên Đề Dược<br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học<br /> <br /> solid lipid, surfactant and cosurfactant, respectively. The properties of MGF-NLC were characterized by<br /> entrapment efficiency (EE), particle size (PS), drug loading (DL) and polydispersity index (PdI). Plx 407<br /> contents of inMGF-NLC formulations were selected based on sol-gel transition at physiological<br /> temperature. The ratios of Poloxamer 407 (Plx 407) and Poloxamer 188 (Plx 188) were optimized to obtain<br /> the best inMGF-NLC formulations with the suitable sol-gel transition temperature and the viscosity.<br /> Results: The PS, PdI, EE and DL of MGF-NLC were found to be 40.27 nm, 0.165, 87.07% and<br /> 0,119%, respectively. Plx 407 at the ratios of 14%, 15% and 16% could provide sol-gel transition at<br /> physiological temperature. Plx 188 simultaneously added with Plx 407 was proved its ability to adjust the<br /> sol-gel transition temperature of inMGF-NLC. At the optimized ratios of Plx 407 and Plx188, the sol-gel<br /> transition temperature and the viscosity of inMGF-NLC were found to be 36oC and 329 cP.s, respectively.<br /> Conclusions: It was the first time that the development of in situ gel formulation containing MFG-NLC was<br /> reported. The resutls provided useful data for further study on in situ gel for vaginal administration.<br /> Key words: mangiferin, NLC, in situ gel, poloxamer 407, poloxamer 188<br /> ĐẶTVẤNĐỀ ĐỐITƯỢNG-PHƯƠNGPHÁPNGHIÊNCỨU<br /> Mangiferin (MGF) là hoạt chất thuộc Đối tượng, nguyên liệu, hóa chất, thiết bị<br /> nhóm polyphenol được chiết xuất chủ yếu MGF nguyên liệu (độ tinh khiết 98,00 %)<br /> từ lá Xoài (Mangifera indica L.). Nhiều tác do khoa Dược, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí<br /> dụng dược lý của MGF đã được nghiên cứu Minh cung cấp. Capryol 90 và Apifil do công<br /> và chứng minh như tác dụng chống oxy hóa, ty Gattefosse´ (Sant-Priest, France) gửi tặng<br /> kháng ung thư, kháng viêm, hạ lipid huyết, thông qua công ty Sapharchem Co., Ltd (Việt<br /> kháng virus herpes HSV-1, HSV-2(6,7)... Theo Nam). Plx 407, Plx 188, Cremophor RH 40 và<br /> hệ thống phân loại sinh dược học, MGF là Lutrol 400 được cung cấp bởi công ty BASF<br /> hoạt chất thuộc nhóm IV với độ tan trong (Ludwigshafen, Đức).<br /> nước kém và tính thấm thấp nên sinh khả<br /> Phương pháp điều chế MGF-NLC<br /> dụng thấp(1).<br /> MGF-NLC được điều chế bằng phương<br /> Với khả năng cải thiện độ hấp thu dược<br /> chất, khả năng tải thuốc và làm tăng độ ổn pháp siêu âm nóng. Hòa tan MGF vào pha dầu<br /> định của tiểu phân nano lipid, hệ NLC gồm hỗn hợp lipid lỏng Capryol 90 và lipid<br /> (nanostructured lipid carriers) được chọn làm rắn Apifil nóng chảy. Pha nước (gồm chất diện<br /> giá mang cho hoạt chất MGF(3). Gel in situ là hoạt Cremophor® RH40 và chất đồng diện<br /> dạng bào chế có khả năng kéo dài thời gian hoạt Lutrol® E-400 hòa tan trong 12 ml nước<br /> lưu giữ và thời gian phóng thích dược chất<br /> cất 2 lần ở nhiệt độ 90oC) được cho từ từ vào<br /> trên niêm mạc, làm giảm số lần sử dụng thuốc<br /> pha dầu và khuấy đều bằng máy khuấy từ gia<br /> và làm tăng tuân thủ điều trị. Dạng bào chế<br /> kết hợp giữa gel in situ và nano lipid chứa nhiệt với tốc độ 100 vòng/phút, ở nhiệt độ<br /> MGF hướng tới mục tiêu nâng cao sinh khả 70oC, trong 10 phút. Nhũ tương hình thành<br /> dụng của hoạt chất MGF sử dụng đường âm được đánh siêu âm ở 90oC trong 2 phút. Bổ<br /> đạo hỗ trợ cho việc điều trị virus herpes. Vì sung nước cất lạnh (4oC), điều chỉnh đến thể<br /> vậy, đề tài được thực hiện nhằm mục tiêu tích 50 ml. Khuấy chậm bằng máy khuấy từ<br /> nghiên cứu điều chế gel in situ nano lipid chứa trong 5 phút, ổn định ở nhiệt độ phòng trong<br /> mangiferin (inMGF-NLC) sử dụng Plx 407 và<br /> 24 giờ, hình thành MGF-NLC.<br /> Plx 188 làm tá dược tạo gel.<br /> <br /> <br /> <br /> Chuyên Đề Dược 273<br /> Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019<br /> <br /> Phương pháp xác định kích thước tiểu phân tăng đột ngột được xác định là nhiệt độ hóa<br /> và dãy phân bố kích thước hạt gel in situ. Mỗi công thức được thực hiện lặp<br /> MGF-NLC hình thành được pha loãng 10 lại 3 lần và lấy giá trị trung bình(4).<br /> lần với nước cất. Kích thước tiểu phân (PS) và<br /> Khảo sát tỉ lệ Plx 407 tạo inMGF-NLC<br /> chỉ số đa phân tán (PdI) được xác định bằng<br /> máy Zetasizer Nano ZS với góc đo 173o và Điều chế inMGF-NLC sử dụng Plx 407 với<br /> nhiệt độ 25oC. Ghi nhận kết quả trung bình các tỉ lệ 14%, 15%, 16%, 17%, 18% (kl/kl) theo<br /> của 3 lần đo. phương pháp điều chế inMGF-NLC nêu trên.<br /> Phương pháp xác định khả năng bắt giữ và Xác định tương quan giữa độ nhớt và nhiệt độ<br /> khả năng tải hoạt chất. của các mẫu inMGF-NLC, từ đó xác định nhiệt<br /> Khả năng bắt giữ (EE) và khả năng tải hoạt độ hóa gel in situ của các mẫu inMGF-NLC.<br /> chất (DL) được xác định bằng phương pháp Chọn tỷ lệ Plx 407 cho nhiệt độ hóa gel phù<br /> siêu lọc, sử dụng ống ly tâm với màng lọc 3500 hợp với nhiệt độ cơ thể.<br /> MWCO. Cho khoảng 300 µl hệ MGF-NLC vào Khảo sát tỉ lệ Plx 188 phối hợp tạo inMGF-<br /> lọc ly tâm Amicon Ultra 0,5 mL. Ly tâm tốc<br /> ® NLC<br /> độ 30000 x g, nhiệt độ 20oC trong 15 phút. Phối hợp Plx 188 vào inMGF-NLC (chứa tỷ<br /> Định lượng MGF tự do trong dịch lọc bằng lệ Plx 407 được chọn ở trên) với các tỉ lệ 5%,<br /> phương pháp HPLC. Khả năng bắt giữ và khả 10%, 15% và 20% (kl/kl). Xác định tương quan<br /> năng tải MGF được tính toán bằng phương giữa độ nhớt và nhiệt độ của các mẫu inMGF-<br /> trình sau: NLC, từ đó xác định nhiệt độ hóa gel in situ<br /> của các mẫu inMGF-NLC. Lựa chọn công thức<br /> có nhiệt độ hóa gel trong khoảng 35 – 37oC.<br /> KẾTQUẢ<br /> Tính chất của hệ MGF-NLC<br /> Hệ MGF-NLC đã được nghiên cứu xác<br /> Phương pháp điều chế inMGF-NLC<br /> định mối liên quan nhân quả giữa tá dược và<br /> Gel in situ nano lipid chứa MGF (inMGF- tính chất của các tiểu phân nano, đồng thời<br /> NLC) được điều chế theo phương pháp lạnh xác định công thức tối ưu (dữ liệu không trình<br /> của Schomolka (1972) và cộng sự. Phối hợp tá bày trong nghiên cứu này). Tính chất của hệ<br /> dược tạo gel in situ và MGF-NLC theo tỉ lệ xác MGF-NLC được xác định thông qua các chỉ số<br /> định, khuấy trộn, giữ ổn định qua đêm ở 4oC. kích thước tiểu phân, chỉ số đa phân tán, khả<br /> Phương pháp xác định nhiệt độ hóa gel của năng bắt giữa và khả năng tải.<br /> inMGF-NLC<br /> Hình 1 cho thấy các tiểu phân hệ MGF-<br /> Nhiệt độ hóa gel của inMGF-NLC được NLC có kích thước trung bình khoảng 40,27<br /> xác định bằng máy đo độ nhớt Brookfield nm và phân bố kích thước đồng nhất với chỉ<br /> Viscometer EQ/01/MP/2015. Lấy khoảng 2 số đa phân tán là 0,165.<br /> ml dịch inMGF-NLC cho vào cống đo độ Chỉ số khả năng bắt giữ (EE) và khả năng<br /> nhớt. Xác định độ nhớt ở các nhiệt độ tăng tải (DL) của hệ MGF-NLC được xác định lần<br /> dần từ 15 C đến 45 C. Nhiệt độ ở đó độ nhớt<br /> o o<br /> lượt là 87,07% và 1,19%.<br /> <br /> <br /> 274 Chuyên Đề Dược<br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học<br /> <br /> cP.s và 3718 cP.s, sau đó độ nhớt có xu hướng<br /> giảm khi nhiệt độ tăng lên. Tỉ lệ 14% có sự<br /> thay đổi về độ nhớt theo nhiệt độ, tuy nhiên<br /> sự biến đổi không nhiều, khả năng tạo gel in<br /> situ thấp. Vì vậy, chọn Plx 407 với tỉ lệ 14%,<br /> 15%, 16% để tiếp tục khảo sát phối hợp với Plx<br /> 188 để cải thiện khả năng tạo gel in situ của<br /> inMGF-NLC.<br /> Khảo sát tỉ lệ Plx 188 phối hợp tạo inMGF-NLC<br /> Hình 1: Kích thước và sự phân bố kích thước tiểu Khảo sát tỉ lệ Plx 188 phối hợp với Plx 40 (14%)<br /> phân MGF-NLC Tương quan giữa độ nhớt và nhiệt độ của<br /> Khảo sát tỉ lệ tạo gel in situ của Plx 407 inMGF-NLC chứa Plx 407 (14%) phối hợp với<br /> Tương quan giữa độ nhớt và nhiệt độ các tỉ lệ khác nhau của Plx 188 được trình bày<br /> của inMGF-NLC với các tỉ lệ khác nhau của trong Hình 3.<br /> Plx 407 được trình bày trong Hình 2. Khi tỉ<br /> lệ Plx 407 càng tăng thì nhiệt độ hóa gel<br /> càng giảm. Với Plx 407 tỉ lệ 17%, 18% thì<br /> nhiệt độ hóa gel nhỏ hơn 25oC nên không<br /> thể chọn để làm gel in situ. Tỉ lệ 15% và 16%<br /> cho thấy có sự biến đổi độ nhớt nhiều nằm<br /> trong khoảng từ 25-32oC. Tỷ lệ 16% Plx 407<br /> cho thấy sự biến đổi rõ ràng về độ nhớt hơn<br /> tỉ lệ 15%.<br /> <br /> Hình 3: Tương quan giữa độ nhớt và nhiệt độ của<br /> inMGF-NLC chứa Plx 407 (14%) phối hợp với các<br /> tỉ lệ khác nhau của Plx 188<br /> Hình 3 cho thấy có sự thay đổi về độ nhớt<br /> của inMGF-NLC với những tỷ lệ Plx 188 khác<br /> nhau. Tăng tỷ lệ Plx 188 sẽ tăng độ nhớt của<br /> hỗn hợp ở 25oC. Tuy nhiên nhiệt độ hóa gel<br /> thay đổi không đáng kể (< 25oC), vì vậy việc<br /> thêm Plx 188 vào 14% Plx 407 chưa cải thiện<br /> được nhiệt độ hóa gel.<br /> Hình 2: Tương quan giữa độ nhớt và nhiệt độ của<br /> Khảo sát tỉ lệ Plx 188 phối hợp với Plx 407 (15%)<br /> inMGF-NLC với các tỉ lệ khác nhau của<br /> Tương quan giữa độ nhớt và nhiệt độ của<br /> Plx 407 (n=3)<br /> inMGF-NLC chứa Plx 407 (15%) phối hợp với<br /> Tỉ lệ 15% và 16% Plx 407, inMGF-NLC có các tỉ lệ khác nhau của Plx 188 được trình bày<br /> độ nhớt khi hóa gel cao nhất lần lượt là 2111 trong Hình 4.<br /> <br /> <br /> <br /> Chuyên Đề Dược 275<br /> Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019<br /> <br /> từ 35-37oC. Vì vậy, tỉ lệ 15% và 20% Plx 188<br /> được chọn để thêm vào công thức tạo gel<br /> inMGF-NLC chứa 16% Plx 407.<br /> Như vậy, Plx 407 với tỉ lệ 15%, 16% và Plx<br /> 188 với tỉ lệ 15%, 20% được chọn để phối hợp<br /> tạo công thức inMGF-NLC. Nhiệt độ hóa gel<br /> và độ nhớt của các phối hợp Plx tiềm năng tạo<br /> inMGF-NLC được trình bày trong Bảng 1.<br /> Tương quan giữa độ nhớt và nhiệt độ của<br /> inMGF-NLC chứa tỷ lệ Plx 407 và Plx 188 tiềm<br /> năng đượ trình bày trong Hình 6.<br /> Hình 4: Tương quan giữa độ nhớt và nhiệt độ của<br /> Khi thêm vào công thức inMGF-NLC tá dược<br /> inMGF-NLC chứa Plx 407 (15%) phối hợp với các<br /> Plx 188 tỉ lệ 15% thì nhiệt độ hóa gel của inMGF-<br /> tỉ lệ khác nhau của Plx 188<br /> NLC nằm trong khoảng từ 36-37oC, nhiệt độ này<br /> Với tỉ lệ Plx 188 là 5% ,10% thì nhiệt độ hóa<br /> khá gần với nhiệt độ cơ thể nên thời gian hóa gel<br /> gel lớn hơn 37oC, nên không chọn 2 tỉ lệ Plx<br /> xảy ra chậm hơn so với tỉ lệ Plx 20%.<br /> 188 này. Tỉ lệ 15% và 20% Plx 188, hệ inMGF-<br /> Bảng 1: Nhiệt độ hóa gel và độ nhớt của các phối<br /> NLC có nhiệt độ hóa gel khoảng từ 33-36oC<br /> nên tỉ lệ 15% và 20% Plx 188 được chọn để hợp Plx tiềm năng tạo inMGF-NLC<br /> Tỉ lệ Plx 407 15% 16%<br /> thêm vào công thức tạo gel inMGF-NLC chứa<br /> Công thức CT1 CT2 CT3 CT4<br /> 15% Plx 407. Tỉ lệ Plx 188 15% 20% 15% 20%<br /> o<br /> Khảo sát tỉ lệ Plx 188 phối hợp với Plx 407 (16%) Nhiệt độ hóa gel ( C) 36,6 36,0 36,5 35,7<br /> o<br /> Độ nhớt (cP.s ở 25 C) 320 329 420 837<br /> Tương quan giữa độ nhớt và nhiệt độ của<br /> inMGF-NLC chứa Plx 407 (16%) phối hợp với Khi tỉ lệ Plx 188 thêm vào tăng lên (20%)<br /> các tỉ lệ khác nhau của Plx 188 được trình bày thì nhiệt độ hóa gel của inMGF-NLC giảm<br /> trong Hình 5. xuống, nằm trong khoảng 35-36oC, đồng thời<br /> độ nhớt của inMGF-NLC tại nhiệt độ hóa gel<br /> cũng cao hơn so với tỉ lệ 15% Plx 188, điều này<br /> cũng được ghi nhận bởi Chang. J. Y và cs(2),<br /> Young CS(5). Như vậy, chọn Plx 188 với tỉ lệ<br /> 20% phối hợp với Plx 407 tỉ lệ 15% và 16%.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Hình 5: Tương quan giữa độ nhớt và nhiệt độ của<br /> inMGF-NLC chứa Plx 407 (16%) phối hợp với các<br /> tỉ lệ khác nhau của Plx 188<br /> Với tỉ lệ Plx 188 là 10%, 5% thì nhiệt độ<br /> hóa gel của inMGF-NLC chứa Plx 407 (16%)<br /> lớn hơn 37oC, nên không chọn 2 tỉ lệ Plx 188<br /> Hình 6: Tương quan giữa độ nhớt và nhiệt độ<br /> này. Tỉ lệ 15% và 20% Plx 188 cho inMGF-NLC<br /> của inMGF-NLC chứa tỷ lệ Plx 407 và Plx 188<br /> chứa Plx 407 (16%) có nhiệt độ hóa gel khoảng<br /> tiềm năng<br /> <br /> <br /> 276 Chuyên Đề Dược<br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học<br /> <br /> Bảng 3.22 cho thấy công thức CT2 (inMGF- độ tăng lên làm tăng sự linh động của cấu trúc<br /> NLC với Plx 407 tỉ lệ 15% và Plx 188 với tỉ lệ nên độ nhớt bị giảm đi. Tuy nhiên sự thay đổi<br /> 20%) có độ nhớt ở 25 C (329 cP.s) thấp hơn so<br /> o này không đáng kể. Kết quả tương quan giữa<br /> với công thức CT4 (inMGF-NLC với Plx 407 tỉ độ nhớt và nhiệt độ của inMGF-NLC với các tỉ<br /> lệ 16% và Plx 188 với tỉ lệ 20%) có độ nhớt ở lệ khác nhau của Plx 407 cho thấy với tỉ lệ<br /> 25 C (837 cP.s).<br /> o 14%, 15%, 16% thì nhiệt độ hóa gel của hệ nằm<br /> BÀNLUẬN trong khoảng 25-37oC, vì vậy những tỉ lệ Plx<br /> 407 này được chọn để tiếp tục khảo sát phối<br /> Công thức MGF-NLC với tỷ lệ lipid<br /> hợp với các tỉ lệ Plx 188 để cải thiện khả năng<br /> lỏng/lipid toàn phần là 6%, nồng độ chất<br /> tạo gel in situ của inMGF-NLC.<br /> diện hoạt 5%, nồng độ lipid toàn phần 8,6%<br /> để tiến hành khảo sát tạo hệ inMGF-NLC. Khảo sát mối tương quan giữa độ nhớt và<br /> <br /> Công thức MGF-NLC đã tải được 15 mg nhiệt độ của inMGF-NLC với các phối hợp<br /> <br /> MGF/50 ml hệ, tương ứng nồng độ 0,3 giữa Plx 407 và Plx 188, kết quả Plx 407 với tỉ<br /> <br /> mg/ml. Hệ MGF – NLC đã tăng khả năng tải lệ 15%, 16% phối hợp với Plx 188 tỉ lệ 15%,<br /> <br /> MGF lên gần 47 lần so với độ tan của MGF 20% có nhiệt độ hóa gel trong khoảng 25 –<br /> <br /> trong nước (6,4 µg/ml). 37oC. Trong công thức inMGF-NLC, tá dược<br /> Plx 188 với tỉ lệ 15% phối hợp với Plx 407 tỉ lệ<br /> Nhiệt độ hóa gel của gel in situ được cho là<br /> 15%, 16% có nhiệt độ hóa gel gần với nhiệt độ<br /> phù hợp nhất khi nằm trong khoảng từ 25-<br /> cơ thể (36-37oC) nên thời gian hóa gel lâu. Với<br /> 37oC(2). Khi nhiệt độ hóa gel lớn hơn 37oC thì<br /> Plx 188 tỉ lệ 20% phối hợp với Plx 407 tỉ lệ 15%,<br /> sẽ khó hóa gel khi tiếp xúc với cơ thể. Khi<br /> 16% thì nhiệt độ hóa gel thấp hơn (35-36oC)<br /> nhiệt độ hóa gel nhỏ hơn 25oC thì ở nhiệt độ<br /> nên được chọn để phối hợp tạo inMGF-NLC.<br /> môi trường (25- 30oC) đã bị hóa gel.<br /> Tuy nhiên, công thức inMGF-NLC với Plx 407<br /> Hình 2 cho thấy khi tỷ lệ Plx 407 càng tăng<br /> tỉ lệ 15% có độ nhớt ở 25oC thấp hơn so với<br /> thì nhiệt độ hóa gel càng giảm, điều này có thể<br /> công thức có Plx 407 tỉ lệ 16%. Vì vậy, sẽ dễ<br /> giải thích do nồng độ cao của Plx 407 sẽ thúc<br /> dàng trong việc bơm gel ra khỏi bình làm cho<br /> đẩy sự hình thành liên kết giữa các mixel đơn<br /> tăng khả năng phân bố của gel trên bề mặt<br /> phân tử nhanh hơn, kết quả tương tự với<br /> tiếp xúc.<br /> nghiên cứu của các tác giả Chang JY(2) và Yong<br /> KẾTLUẬN<br /> CS(5). Tỉ lệ 17%, 18% Plx 407 cho hệ inMGF-<br /> NLC có độ nhớt tại nhiệt độ hóa gel lớn hơn tỉ Hệ gel in situ nano lipid chứa mangiferin đã<br /> lệ 14%, 15%, 16%. Điều này có thể giải thích được nghiên cứu điều chế thành công. Tính chất<br /> bởi lý do khi nồng độ Plx 407 tăng sẽ tạo sự hệ MGF-NLC với các chỉ số PS, PdI, EE và được<br /> liên kết đầy đủ, chắc giữa các phân tử Plx 407. xác định lần lượt là 40,27 nm; 0,165; 87,07% và<br /> Tỉ lệ 15% và 16% Plx 407, hệ inMGF-NLC có 0,119%. Công thức tối ưu hệ inMGF-NLC với tỉ<br /> độ nhớt khi hóa gel cao nhất lần lượt là 2111 lệ 15% Plx 407 và 20% Plx 188 cho nhiệt độ tạo<br /> cP.s và 3718 cP.s, sau đó độ nhớt có xu hướng gel in situ và độ nhớt lần lượt là 36oC và 329 cP.s.<br /> giảm khi nhiệt độ tăng lên, có thể là do các phù hợp với điều kiện sinh lý và tạo thuận lợi<br /> phân tử chưa có sự liên kết vững chắc, nhiệt cho việc sử dụng qua đường âm đạo.<br /> <br /> <br /> Chuyên Đề Dược 277<br /> Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019<br /> <br /> containing diclofenac sodium", Int J Pharm, 226, pp. 195-<br /> TÀILIỆUTHAMKHẢO<br /> 205.<br /> 1. Beck R (2011), “Nanocosmetics and Nanomedicines”, In 6. Zheng MS, Lu ZY (1990), Antiviral effect of mangiferin and<br /> New Approaches for Skin Care. isomangiferin on herpes simplex virus, Chin Med J, 103 (2),<br /> 2. Chang JY, Oh YK, Choi HG, Kim YB, Kim CK (2002), pp. 160-5.<br /> "Rheological evalutation of thermosensitive and 7. Zhu XM, Song JX, Huang ZZ, Wu YM, Yu MJ (1993),<br /> mucoadhesive vaginal gels in physiological conditions", Int "Antiviral activity of mangiferin against herpes simplex<br /> J Pharm, 241, pp. 155-63. virus type 2 in vitro", Zhongguo yao li xue bao= Acta<br /> 3. Christo T, Tzachev, Hristo L, Svilenov (2013), "Lipid pharmacologica Sinica, 14 (5), pp. 452-4.<br /> Nanoparticles at the Current Stage and Prospect - A<br /> Review Article", Int J Pharm Sci Rev Res, 18(1), pp.103-15.<br /> 4. Vohra T, Kaur I, Heer H, Murthy RR (2013), “Nanolipid Ngày nhận bài báo: 18/10/2018<br /> carrier-based thermoreversible gel for localized delivery of<br /> Ngày phản biện nhận xét bài báo: 01/11/2018<br /> docetaxel to breast cancer”, Cancer nanotechnol, 4(1), pp. 1-<br /> 12. Ngày bài báo được đăng: 15/03/2019<br /> 5. Yong CS, Choi JS, Quan QZ, Rhee JD, Kim CK (2001),<br /> "Effect of sodium chloride on the gelation temperature, gel<br /> strength and bioadhesive force of poloxamer gels<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 278 Chuyên Đề Dược<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2