intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Nghiên cứu marketing trực tuyến tại các doanh nghiệp dệt may Trung Quốc – bài học kinh nghiệm cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam

Chia sẻ: Mao A Mẫn | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:13

45
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nghiên cứu này sẽ tập trung vào hệ thống cơ sở lý thuyết về chiến lược marketing điện tử, phân tích bài học kinh nghiệm từ việc ứng dụng marketing điện tử tại các doanh nghiệp dệt may Trung Quốc để từ đó vận dụng cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Nghiên cứu marketing trực tuyến tại các doanh nghiệp dệt may Trung Quốc – bài học kinh nghiệm cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG NGHIÊN CỨU MARKETING TRỰC TUYẾN TẠI CÁC DOANH NGHIỆP DỆT MAY TRUNG QUỐC – BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO CÁC DOANH NGHIỆP DỆT MAY VIỆT NAM EXPLORING ONLINE MARKETING IN CHINESE TEXTILE ENTERPRISES – EXPERIENCES FOR VIETNAMESE TEXTILE ENTERPRISES Ths Phan Đình Quyết - Thuongmai University Ths Nguyễn Thị Vân - Thuongmai University TÓM TẮT Dệt may được xem là một trong số những ngành phát triển và đóng góp nhiều nhất cho tỷ trọng xuất khẩu cũng như GDP của Việt Nam. Trong số các chủng loại mặt hàng xuất khẩu, trong thời gian gần đây một số mặt hàng may mặc như sơ mi nam, nữ jacket, áo khoác nam nữ, đồ lót cao cấp… đã khẳng định được chỗ đứng của mình trên nhiều thị trường khó tính như: EU, Nhật, Mỹ và các thị trường khác như: Canada, Mexico, Hongkong, Đài Loan (Trung Quốc)… Tuy nhiên các sản phẩm dệt may Việt Nam nhìn chung vẫn chỉ tập trung vào gia công là chủ yếu nên giá trị xuất khẩu còn thấp. Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay, với sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin, nếu các doanh nghiệp Việt Nam vẫn tiếp tục trông chờ vào nguồn nhân công giá rẻ để cạnh tranh thì đó là một quan điểm sai lầm khi mà máy móc được dự báo sẽ dần thay thế con người. Bởi vậy ứng dụng công nghệ thông tin để trên cơ sở đó tăng giá trị gia tăng trong từng sản phẩm dệt may là chìa khoá giúp các doanh nghiệp dệt may Việt Nam trong thời gian tới. Nghiên cứu này sẽ tập trung vào hệ thống cơ sở lý thuyết về chiến lược marketing điện tử, phân tích bài học kinh nghiệm từ việc ứng dụng marketing điện tử tại các doanh nghiệp dệt may Trung Quốc để từ đó vận dụng cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam ---------------------------------------- Từ khoá: Chiến lược marketing trực tuyến, marketing điện tử, dệt may ABSTRACT Textile can be seen as developed industry and contributing to exported value of Vietnam. In recent time, some products such as shirt, T- shirt, jacket, coat, … had sustainable position in many difficult market: US, EU and other markets as: Canada, Hongkong, Taiwan … However, Vietnamese textile only focus on outsourcing and offshoring, thus the exported value is not as good as expectation. In now context of industrial revolution 4.0, with extreme development of information technology, if Vietnamese enterprises continue to rely on cheap labor to compete, it will be the wrong point when machines are predicted to replace people. Therefore, the application of information technology to increase the added value of each garment product is the key to help Vietnamese textile enterprises in the future. This research will focus on the theoretical base of online marketing strategies, analyze the experiences from the application of online marketing in Chinese textile enterprises and then apply them to Vietnamese textile enterprises. ---------------------------------------- Keywords: online marketing strategy, electric marketing, textile 654
  2. TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG 1. Một số lý thuyết liên quan đến vấn đề nghiên cứu. 1.1. Marketing trực tuyến (marketing online) Sự phát triển ngày càng sâu rộng của Internet vào mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội nói chung và kinh doanh thương mại nói riêng đã tạo ra một loại hình marketing mới, được giới nghiên cứu gọi bằng nhiều thuật ngữ khác nhau như E-marketing, Internet Marketing, Online Marketing, ... Điểm chung của các khái niệm này là nhấn mạnh đến việc sử dụng phương tiện Internet để truyền thông trực tiếp tới khách hàng và xem nó như một bộ phận cấu thành của marketing-mix. Có thể nêu một số tác giả điển hình như: Ph. Kotler, K. Keller, M. Robert, Nguyễn Bách Khoa, Đinh Văn Thành... Có rất nhiều các quan điểm khác nhau về Marketing trực tuyến. Trong đó đề cập tới một số quan điểm nổi tiếng của một số các nhà Marketing hiện đại như: - Theo P.Kotler: Marketing điện tử (E-marketing) là quá trình lập kế hoạch về sản phẩm, giá, phân phối và xúc tiến đối với sản phẩm, dịch vụ và ý tưởng để đáp ứng nhu cầu của tổ chức và cá nhân - dựa trên các phương tiện điện tử và Internet. Như vậy, Marketing điện tử bao gồm tất cả các hoạt động để thỏa mãn nhu cầu và mong muốn của khách hàng thông qua Internet và các phương tiện điện tử. - Theo Mary Lou Roberts: Marketing trực tuyến (Marketing online) là hoạt động ứng dụng mạng Internet và các phương tiện điện tử khác (Web, e-mail, multimedia, pda, mobile, ...) để tiến hành các hoạt động marketing nhằm đạt được các mục tiêu của tổ chức và duy trì quan hệ khách hàng thông qua nâng cao hiểu biết về khách hàng (thông tin, hành vi, giá trị, mức độ trung thành, ...), các hoạt động xúc tiến hướng mục tiêu và các dịch vụ qua mạng hướng tới thỏa mãn nhu cầu của khách hàng. Marketing Internet theo tiếp cận này là lĩnh vực tiến hành hoạt động kinh doanh gắn liền với dòng vận chuyển sản phẩm từ người sản xuất đến người tiêu dùng, dựa trên cơ sở ứng dụng công nghệ thông tin và Internet. - Theo Rob Stokes: Marketing trực tuyến hiểu một cách đơn giản nhất là việc tận dụng sức mạnh của quảng cáo qua internet để tạo ra phản ứng của người sử dụng. Còn được gọi là internet marketing hay web marketing. Marketing trực tuyến được các doanh nghiệp (DN) sử dụng nhằm bán hàng hóa và dịch vụ trực tiếp tới người tiêu dùng cuối cùng hoặc khách hàng tổ chức. Căn cứ vào tính đặc thù của việc ứng dụng công nghệ truyền thông và Internet vào hoạt động marketing, đề tài này sử dụng khái niệm marketing trực tuyến như sau: Marketing trực tuyến là một dạng thức của marketing trực tiếp, để xác lập một hệ thống tương tác của marketing với khách hàng có sử dụng Internet nhằm mục tiêu thâm nhập và phát triển các thị trường của DN. Như vậy, về nội dung, marketing trực tuyến nhằm bao gồm các hoạt động truyền thông có sử dụng phương tiện Internet để quảng cáo xúc tiến bán hàng, quan hệ công chúng và bán hàng trực tuyến. Các nghiên cứu trên thế giới về marketing trực tuyến đã xuất hiện từ những năm1980. Nghiên cứu đầu tiên về marketing trực tuyến từ nhóm tác giả Malone, Yates và Benjamin (1987 và 1989); tiếp sau đó là nhiều nghiên cứu hơn của một số tác giả như White (1997), Mamiee (1998), Wientzen (2000), Porter (2001) và nhiều tác giả khác nữa. Trong một nghiên cứu của mình năm 2010, Hatem El-Gohary đã tổng hợp hơn 365 nghiên cứu của các tác giả khác nhau để chỉ ra quá trình phát triển của marketing trực tuyến. Và có thể nói rằng những nghiên cứu về marketing trực tuyến chỉ thực sự phát triển từ năm 2009 với hơn 28% các nghiên cứu được thực hiện trong thời gian này. Quá trình chuyển hoá từ Marketing mix truyền thống tới Marketing mix trực tuyến đã được tác giả Pastore và Vernuccio (2004) giới thiệu trong hình 1 655
  3. TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG BỐI CẢNH TRỰC TUYẾN BỐI CẢNH NGOẠI Nội dung Giao TUYẾN diện 4P Quy 4P trình cụ thể hoá Kết nối Cộng đồng Hình 1. Mô hình cụ thể hoá 4 Ps trong 3Cs + I (Nguồn: Pastore & Vernuccio, 2004) Đặc biệt, khi thị trường trong marketing điện tử được mở rộng thành “Không gian thị trường” (Marketspace). Tuy thị trường vẫn được hiểu là “tập hợp những người mua hiện tại và tiềm năng” nhưng người mua hiện tại và tiềm năng được mở rộng hơn nhờ Internet. Điều này xuất phát từ chính bản chất toàn cầu của Internet, cho phép thông tin về sản phẩm, dịch vụ có thể đến với mọi cá nhân, tổ chức trên khắp thế giới và giao dịch cũng có thể được thực hiện thông qua Internet, khiến phạm vi khách hàng hiện tại và tiềm năng mở rộng hơn. Các nhà kinh tế cũng dựa trên những luận điểm này để đưa ra mô hình marketing trực tuyến hỗn hợp gồm 8Ps. Các nhân tố này được minh hoạ cụ thể qua mô hình sau (Hình 2) Hình 2. Mô hình Marketing trực tuyến hỗn hợp 8Ps (Nguồn: Chen, 2006) Môi trường Kinh Môi trường xã tế Thanh toán Cá nhân hội Sự chính xác Đẩy và kéo Sản phẩm Giá Xúc tiến Địa điểm Môi trường pháp Môi trường Môi trường công luật chính trị nghệ Mô hình này đã thể hiện rõ sự biến đổi của Marketing truyền thống trong môi trường điện tử. Từ Marketing mix với 4Ps trong môi trường truyền thống trở thành 4Ps trong môi trường trực tuyến điện tử và được phát triển thành 8 Ps trong nghiên cứu của Chen (2006). Trong nghiên cứu của Chen (2006), có 4Ps được bổ sung đó chính là: - Hệ thống thanh toán (Payment system) phải an toàn và dễ dàng cho khách hàng khi sử dụng 656
  4. TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG - Tính chính xác (Precision) đề cập đến việc tăng tính chính xác của quá trình lựa chọn các phân khúc thị trường mục tiêu và định vị thị trường trong bối cảnh kỹ thuật số. - Các cá nhân (Personalization) cần quan tâm đến khả năng tạo ra một giao diện linh hoạt, có khả năng đáp ứng nhu cầu và nguyện vọng của khách hàng. - Đẩy và kéo (Push and Pull) đề cập đến việc lựa chọn cân bằng giữa các chính sách truyền thông hiệu quả với truyền theo yêu cầu của khách hàng. Tuy nhiên có khá nhiều quan điểm khác nhau về 4Ps bổ sung này, trong nghiên cứu của mình thì Chaffey và cộng sự (2000) đã khẳng định rằng trong môi trường Internet khi thiết lập một kế hoạch marketing cần xem xét các vấn đề như: khách hàng, sự hợp tác, sự hỗ trợ marketing, sự chuyển đổi thương hiệu, đối tác chiến lược, cấu trúc tổ chức và ngân quỹ. Và nhóm tác giả này cũng đã dựa trên sự mở rộng hỗn hợp đối với chiến lược với các cấp độ tổ chức kinh doanh để đề xuất mô hình 4Ps bao gồm các yếu tố sau: - Phạm vi (Scope) liên quan của chiến lược bao gồm: Mục tiêu chiến lược, phân tích thị trường và tiềm năng, giai đoạn trưởng thành thương mại điện tử, vai trò chiến lược của thương mại điện tử cho các tổ chức; - Địa chỉ website (Site), cần có giá trị hoạt động và liên quan đến vấn đề về giao diện - Synergy (Sự cộng sinh), có ý nghĩa tổ chức bao gồm sự tích hợp giữa những khía cạnh số hoá “bricks và clicks” của mô hình kinh doanh của công ty. - Hệ thống (System), liên quan đến việc quản trị nền tảng trang web, kho dữ liệu và hệ thống an ninh. 1.2. Khái niệm v bản chất của chiến lƣợc marketing trực tuyến đối với doanh nghiệp trong hoạt động xuất khẩu 1.2.1. Khái niệm chiến lƣợc marketing trực tuyến Về nội hàm, chiến lược marketing trực tuyến được xếp vào cấp chiến lược chức năng của doanh nghiệp. Trong hoạt động xuất khẩu, chiến lược marketing trực tuyến có thể được hiểu là tập hợp các quyết định và hành động nhằm xác lập một hệ thống tương tác của marketing với khách hàng có sử dụng Internet thông qua hoạt động quảng cáo, quan hệ công chúng và bán hàng trực tuyến nhằm thực hiện mục tiêu thâm nhập và phát triển các thị trường quốc tế của doanh nghiệp. Về cấu trúc, chiến lược marketing trực tuyến bao gồm chiến lược phân tích môi trường chiến lược và hành vi người nhận tin, định vị thị trường mục tiêu của doanh nghiệp, thiết lập các chiến lược cung ứng giá trị thông qua thiết lập các chương trình quảng cáo trực tuyến, quan hệ công chúng trực tuyến, bán hàng trực tuyến... nhằm hướng tới khác hàng (người tiêu dùng cuối cùng và/hoặc khách hàng là doanh nghiệp). 1.2.2. Bản chất của chiến lƣợc marketing trực tuyến Có thể nói, marketing trực tuyến là một trong những công cụ cùng với marketing truyền thống (marketing offline) giúp gia tăng giá trị cho hoạt động marketing nói chung của công ty, cùng hướng tới mục tiêu là thỏa mãn nhu cầu của khách hàng. Tuy nhiên, marketing trực tuyến (marketing online) có những đặc thù khác so với marketing truyền thống, được thể hiện ở những mặt sau: - Về môi trường: Chiến lược Marketing trực tuyến thực hiện những hoạt động truyền thông, xúc tiến trong môi trường hoàn toàn mới, môi trường Internet. - Về phương tiện: Thay vì sử dụng rất nhiều các phương tiện khác nhau như tạp chí, tờ rơi, thư từ, điện thoại, fax... khiến cho sự phối hợp giữa các bộ phận trong marketing truyền thống trở nên khó khăn và tốn nhiều thời gian hơn, Marketing trực tuyến lại có thể tiến hành tất cả các hoạt động truyền thông, xúc tiến thông qua Internet và các phương tiện thông tin được kết nối vào Internet. - Về bản chất: Marketing trực tuyến vẫn giữ nguyên bản chất của marketing truyền thống là thỏa mãn nhu cầu người tiêu dùng, tuy nhiên người tiêu dùng trong thời đại công 657
  5. TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG nghệ thông tin sẽ có những đặc điểm khác với người tiêu dùng truyền thống, họ có thói quen tiếp cận, đánh giá các nguồn thông tin và quyết định mua hàng thông qua mạng Internet. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin và internet, Thương mại điện tử (TMĐT) đã ra đời và ngày càng phát triển như một cứu cánh cho các doanh nghiệp đối với bài toán tối đa hóa lợi ích của doanh nghiệp. Cùng với TMĐT, marketing trực tuyến (marketing online) cũng đã mang lại hiệu quả rất thiết thực cho các doanh nghiệp. Cụ thể: Thứ nhất, chi phí hợp lý: Với những cách tính phí linh động như CPC (Cost-Per- Click) hay CPA (Cost-Per-Action hay Cost-Per-Acquisition), quảng cáo trực tuyến tiết kiệm được chi phí mà dung lượng quảng cáo lại không giới hạn. Người làm marketing chỉ phải trả tiền cho những khách hàng tiềm năng nhất, những người đang quan tâm đến sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp. Không những thế, với một ngân sách khiêm tốn cho marketing trực tuyến, kết quả đạt được có hiệu quả hơn hẳn so với marketing qua những kênh truyền thống. Theo ông Ram Kapoor, Giám đốc điều hành của Công ty Quảng cáo Y&R Wunderman Vietnam, để làm một phim quảng cáo phải tốn ít nhất 300.000 USD, một quảng cáo trên báo in là 80.000 Đô la, nhưng nếu ngân sách chỉ có 30.000 USD, doanh nghiệp đã có thể tiến hành chương trình marketing trực tuyến hiệu quả. Thứ hai, hiệu quả cao: Internet phá bỏ mọi giới hạn về không gian, thời gian và khoảng cách với dòng thông tin trao đổi liên tục trên toàn cầu. Marketing trực tuyến nhờ vậy vượt qua được những giới hạn đó và trở nên có lợi thế hơn những kênh truyền thông truyền thống. Những DN nhỏ có thể tiếp thị sản phẩm và dịch vụ của họ 24/7 trên toàn thế giới. Ngoài ra, việc khảo sát thông tin người sử dụng Internet thông qua marketing trực tuyến được thực hiện khá đơn giản và đáng tin cậy, giúp các DN định hướng chính xác khách hàng tiềm năng của mình, cũng như thu thập được một lượng lớn cơ sở dữ liệu khách hàng trong mỗi chiến dịch với chi phí cực kỳ rẻ. Thứ ba, công nghệ tiên tiến: Với sự hỗ trợ và đổi mới công nghệ không ngừng, marketing trực tuyến gần như không có giới hạn về công nghệ cũng như không gian sáng tạo, đặc biệt ở hình thức quảng cáo đa phương tiện. Thứ tư, tính tương tác cao: Các kênh truyền thông trước đây như phát thanh hay truyền hình thường chỉ thông tin một chiều, người tiêu dùng luôn thụ động trong quá trình tiếp nhận thông tin. Nhưng với Internet, DN có cơ hội đối thoại và tương tác trực tiếp với người tiêu dùng. Người tiêu dùng, ngược lại cũng chủ động tiếp cận thông tin, lựa chọn thông điệp nào mà mình muốn nhận hay chia sẻ những trải nghiệm, suy nghĩ, dự báo…Dựa vào việc phân tích hành vi của người sử dụng Internet, người làm marketing có thể biết được thói quen, sở thích của từng cá nhân, xác định rõ xem người đó có nằm trong nhóm khách hàng mục tiêu hay không, phản ứng của họ với thương hiệu như thế nào… Thứ năm, dễ xác định phân khúc khách hàng mục tiêu: Mỗi cộng đồng trên Internet đều có nhóm đối tượng tham gia nhất định. Việc khảo sát thông tin người tham gia được thực hiện khá đơn giản và đáng tin cậy thông qua các hình thức tương tác với người sử dụng như bỏ phiếu bầu (poll), bản khảo sát (online survey), hay đăng ký thành viên… Việc marketing trên Internet trở nên tập trung hơn thay vì triển khai trên diện rộng như nhiều kênh truyền thông truyền thống. Mặt khác, khi xem xét đến xu hướng phát triển của marketing trực tuyến trong những năm tới, theo John Arnold – nhà tư vấn chiến lược cho các doanh nghiệp của nước Mỹ: xu hướng sử dụng các mạng xã hội, diễn đàn, quảng cáo online, email marketing, SEM/SEO... sẽ vẫn đóng những vai trò chủ đạo. Đây cũng đồng thời là những phương tiện giúp tối đa hóa sự tiếp cận tới nhóm khách hàng mục tiêu của DN. Do đó, để phát triển CL marketing trực tuyến trong hoạt động xuất khẩu mang lại hiệu quả cao, các DN Việt Nam cần và nên phát triển những công cụ phổ biến nhất của marketing trực tuyến như: quảng cáo trực tuyến, quan hệ 658
  6. TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG công chúng trực tuyến (thông qua các mạng xã hội), và bán hàng trực tuyến để tối đa hóa lợi ích của mình. 2. Kinh nghiệm ứng dụng marketing trực tuyến của một số doanh nghiệp dệt may Trung Quốc Trung Quốc là nhà sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may lớn nhất thế giới, hiện chiếm tới 1 phần tư khối lượng thương mại dệt may thế giới, cung cấp khoảng 30 triệu tấn xơ (40% của thế giới) và nhà cung cấp hàng đầu thế giới về xơ hoá học, sợi, vải, tơ tằm và hàng may mặc. Theo Bộ Công thương, tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Trung Quốc trong năm 2010 tăng 23,6% so với cùng kỳ năm 2009, đạt 206,53 tỉ USD. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu mặt hàng dệt đạt 77,05 tỉ USD, các mặt hàng may đạt 129,48 tỉ USD. So với kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam trong năm 2010 là 11,2 tỉ USD, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Trung Quốc lớn hơn gấp 20 lần, tiếp tục giữ vị trí quốc gia xuất khẩu hàng dệt may lớn nhất toàn cầu. Hiện, Trung Quốc chiếm tới 1/4 khối lượng thương mại dệt may thế giới, cung cấp khoảng 30 triệu tấn xơ (40% của thế giới) và nhà cung cấp hàng đầu thế giới về xơ hoá học, sợi, vải, tơ tằm và hàng may mặc. Tuy nhiên, trong giai đoạn này nhìn chung Trung Quốc chỉ là nhà cung cấp các sản phẩm có giá trị thấp và trung bình. Nhiều nhà cung cấp Trung Quốc hướng về xuất khẩu, gia công các sản phẩm cần nhiều lao động, phần lớn giành được lợi thế về giá do có qui mô sản xuất lớn. Tuy nhiên, tình hình này đang thay đổi. Sau thời điểm này từ năm 2011 cho đến nay kim ngạch xuất khẩu dệt may Trung Quốc luôn tăng trưởng đều và giữ ổn định vị trí số 1 thế giới của mình (Trademap, 2017). Do các nhà sản xuất thu được nhiều kinh nghiệm và bí quyết trong quá trình gia công sử dụng thiết bị của mình (OEM= original equipment manufacturing), các doanh nghiệp mạnh ở Trung Quốc đang từng bước cải thiện sức mạnh của mình nhằm xây dựng thương hiệu trong tương lai. Điểm bắt đầu là ODM (original design manufacturing), các nhà cung cấp không chỉ cung cấp dịch vụ sản xuất mà còn cả dịch vụ thiết kế nữa. Khả năng thiết kế cho thấy trình độ cao hơn về tri thức của nhà cung cấp, không những cung cấp tay nghề may khéo léo mà còn cả trí tuệ sáng tạo. Một nhà sản xuất ODM có thể đưa ra các nỗ lực thiết kế của mình và đưa cho khách hàng xem. Quyền sở hữu trí tuệ của bộ thiết kế đó thuộc về nhà sản xuất ODM cho tới khi người mua chọn mua toàn bộ quyền sử dụng những bộ thiết kế này. Nhìn chung, khi người mua nắm toàn quyền sử dụng, nhà sản xuất ODM sẽ không tự sản xuất các bộ thiết kế tương tự nếu không được người mua uỷ quyền (giờ là người chủ của bộ thiết kế mà anh ta mua). Phần lớn các nhà sản xuất may mặc ở Trung Quốc hiện nay đang làm các đơn hàng theo phương thức OEM và chỉ có các công ty xuất sắc như Youngor có thể đạt được trình độ cao của ODM. Khi nào thì nhà cung cấp có thể đưa các sản phẩm họ sản xuất ra thị trường bằng nhãn hiệu của riêng mình? Câu trả lời là khi nhà cung cấp đó là nhà sản xuất OBM (own brand manufacturing), đăng ký nhãn hiệu của riêng mình. OBM yêu cầu 1 nhà sản xuất quảng bá cho thương hiệu họ đăng ký và phát triển việc công nhận thương hiệu này trên thị trường bằng cách sử dụng thế mạnh của thiết kế, sản xuất, nguồn lực tài chính và bí quyết marketing. Các lĩnh vực quan trọng trên có thể do DN tự xây dựng hoặc làm với sự giúp đỡ từ bên ngoài. Chẳng hạn, việc thiết kế hàng may mặc hoặc nghiên cứu các loại vải mới có thể được mua từ các đơn vị khác. Mỗi DN điều tra và xác định vị trí thích hợp nhất của mình sau khi xem xét thế mạnh nội tại và sự cạnh tranh từ bên ngoài. Sẽ thực tế hơn nếu thiết lập mô hình OBM theo từng bước đi. Ví dụ, có sự khác biệt lớn giữa các đơn hàng OEM và ODM. Một nhà sản xuất có thể thu được khoảng 10USD cho mỗi bộ complet trong đơn hàng OEM, trong khi đơn hàng gia công ODM có thể đem lại cho họ chừng 30USD/bộ. Chi phí thiết kế thêm có thể đem lại thêm 10USD/bộ nữa khi có sự thoả thuận của hai bên. 659
  7. TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG Một bộ complet sản xuất tại Trung Quốc nhìn chung bán được 200USD tại châu Âu và Mỹ, và giá của các sản phẩm cao cấp hơn có thể đạt tới mức 400-500USD/bộ. Các nhà sản xuất có thể thấy rằng có sự khác biệt rất lớn giữa giá của nhà máy và giá bán lẻ tại các siêu thị tại Mỹ và châu Âu. Trong khi có những cơ hội có thể giành được trong quá trình chuyển từ OEM sang OBM, nhưng phải cần những nỗ lực to lớn mới có thể đạt được. Để góp phần đạt được mục tiêu dài hạn là chuyển đổi thành công từ hình thức OEM sang OBM cũng như được toàn thế giới công nhận sản phẩm may mặc mang thương hiệu Trung Quốc một cách nhanh hơn, mạnh hơn, các DN may mặc của Trung Quốc đã rất nhạy bén trong việc ứng dụng CNTT- VT trong việc quảng bá thương hiệu cũng như truyền thông tới các thị trường nước ngoài. Do đó, marketing online được các doanh nghiệp hàng đầu ứng dụng một cách mạnh mẽ để tăng cường hiệu quả kinh doanh của mình. Có thể nói, các DN dệt may Trung Quốc điển hình có mức ứng dụng TMĐT rất cao, thậm chí đã đạt đến mức kinh doanh điện tử (e-Bussiness) từ đó cho phép các Tập đoàn này giảm bớt chi phí và có thể tăng cường hiệu quả công tác tiếp cận tới các thị trường mục tiêu. Điển hình, trên website của những Tập đoàn may mặc hàng đầu Trung Quốc như Bosideng (www.bosideng.com) chúng ta có thể dễ dàng hình dung được quy mô và mức độ ứng dụng TMĐT nói chung và marketing trực tuyến nói chung vào hoạt động kinh doanh của tập đoàn này. Trên trang web master của những tập đoàn này, người xem có thể dễ dàng nhận thấy cấu trúc và giao diện của website rất đơn giản và thân thiện với người tìm kiếm. Người xem có thể nhanh chóng tìm kiếm những thông tin quan trọng về Tập đoàn như: lịch sử hình thành, các hoạt động kinh doanh, nhãn hiệu sản phẩm chủ yếu, nguồn cung ứng, số lượng người xem truy cập vào website, số trang người xem hay tham quan nhất, người xem thuộc quốc gia nào, những từ khóa hay những website liên kết tới trang chủ của bosideng.com… Thông qua việc thống kê những thông tin đó từ website, Bosideng có thể tiến hành phân tích hành vi đối tượng người nhận tin, nghiên cứu thị trường nhằm phát hiện ra nhu cầu của người tiêu dùng ở những thị trường mục tiêu nhất định. Không những thế, việc kết cấu trang web đơn giản, thực hiện chương trình SEM/SEO tốt và liên kết website rộng rãi đã giúp tăng thứ hạng của bosideng trên trang kết quả tìm kiếm của Google khi người xem muốn tìm thông tin liên quan đến dệt may Trung Quốc Không những thế, website này còn đẩy mạnh công tác quảng cáo trực tuyến bằng nhiều hình thức: quảng cáo trên Google (Google Adword), video clip quảng cáo trực tuyến, viết bài và thông tin quảng cáo trên những mạng xã hội như Twitter, Face book… Nhờ vậy mà người tiêu dùng nhanh chóng biết đến thương hiệu Bosideng hơn, đồng thời giúp Tập đoàn này nhanh chóng và chính xác hơn trong việc nghiên cứu thị trường, phân tích hành vi của tập khách hàng mục tiêu cũng như những nhu cầu, thị hiếu của tập khách hàng này. Một kinh nghiệm quý báu trong việc nâng cao hiệu quả của hoạt động marketing nói riêng và hoạt động kinh doanh của DN nói chung, các công ty dệt may của Trung Quốc luôn tiến hành song song và gắn liền hoạt động marketing trực tuyến với hoạt động marketing truyền thống, bởi đây là hai hoạt động không thể tách rời nhau. Chẳng hạn, song song với việc truyền thông, quảng bá trên internet, các Tập đoàn may mặc lớn của Trung Quốc còn đẩy mạnh những hoạt động truyền thống như: tham gia vào những tuần lễ thời trang, hội chợ hàng dệt may nổi tiếng, xuất hiện trên những trang báo hàng đầu tại thị trường nước ngoài… để tăng cường sự nhận biết thương hiệu dệt may Trung Quốc, từ đó thúc đẩy hoạt động tìm kiếm thông tin về các DN trên internet. Nhờ những hoạt động tích cực như trên nên ngày nay, rất nhiều các công ty dệt may của Trung Quốc đã đạt được những thành công rực rỡ trên cả thị trường nội địa cũng như thị trường thế giới. Điển hình, Tập đoàn dệt may Bosideng đứng đầu tại Trung quốc trong 12 năm liên tiếp từ 1995 đến 2006. Vào năm 1999, công ty tự thử thách mình bằng cách thâm nhập vào châu Âu. Ông Gao đã chọn Thuỵ sỹ, nơi mà yêu cầu về chất lượng được coi là cao 660
  8. TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG nhất tại châu Âu, và Bosideng trở thành thương hiệu may mặc độc lập đầu tiên của Trung quốc thâm nhập được vào thị trường châu Âu. Năm 2004 trong danh sách “ 500 thương hiệu công ty giá trị nhất” do Phòng thí nghiệm thương hiệu thế giới công bố, Bosideng đứng thứ 133 trong số 500 thương hiệu tại Trung quốc với giá trị thương hiệu 4,204 tỷ NDT. Thương hiệu này cũng được công nhận là 1 trong 16 thương hiệu tiềm năng tại Trung quốc xét theo năng lực cạnh tranh quốc tế do Liên đoàn kinh tế đối ngoại Trung quốc và Uỷ ban xúc tiến Chiến lược thương hiệu hàng đầu Trung quốc công bố. Là công ty may mặc lông vũ lớn nhất Trung quốc, bước chuyển mình quan trọng của công ty là việc chào bán cổ phiếu lần đầu tại thị trường chứng khoán Hồng kông tháng 10 năm ngoái. Theo thông tin mới nhất, hệ thống phân phối bán lẻ của công ty gồm khoảng 7000 cửa hàng bán lẻ tại 67 thành phố khắp Trung quốc, bán 6 thương hiệu chủ chốt của mình. Về doanh thu năm 2006, sản phẩm quần áo lông vũ thuộc 3 thương hiệu của Bosideng là Bosideng, Snow flying và Kangbo đã chiếm tới 36,1% thị phần tại Trung quốc. Thương hiệu Bosideng được Liên đoàn thế giới về khoa học hiệu suất, Hiệp hội khoa học hiệu suất Trung quốc và Hội nghị về hiệu suất thế giới công nhận là 1 trong “ 10 thương hiệu hàng đầu của Trung quốc trên thị trường thế giới” năm 2006 và vị trí này của công ty được duy trì liên tục từ đó cho đến thời điểm này. 3. B i học kinh nghiệm cho các Doanh nghiệp dệt may xuất khẩu Việt Nam Theo dự báo của hiệp hội dệt may Việt Nam, giai đoạn 2016 đến 2020, tăng trưởng sản xuất bình quân đạt 12% đến 14%, tăng trưởng xuất khẩu bình quân đạt 15% và kim ngạch xuất khẩu đạt 25 tỷ USD vào năm 2020. Bảng 2: Các chỉ tiêu chủ yếu trong chiến lược phát triển ngành công nghiệp dệt m y đến năm 2015 và tầm nhìn đến 2020 Chỉ tiêu ĐVT N m 2010 N m 2015 N m 2020 1. Kim ngạch XK Tr.USD 12.000 18.000 25.000 2. Sử dụng lao động 1000 ng 2.500 2.750 3.000 3. Sản phẩm chủ yếu - Bông xơ 1000 Tấn 20 40 60 - Xơ, sợi tổng hợp 1000 Tấn 120 210 300 - Sợi các loại 1000 Tấn 350 500 650 2 - Vải các loại Tr. m 1.000 1.500 2.000 - Sản phẩm may Tr. SP 1.800 2.850 4.000 4. Tỷ lệ nội địa hoá % 50 60 70 (Nguồn: Vinatex) Tuy nhiên, sự phát triển ngành may của nước ta bên cạnh những thuận lợi thì cũng gặp phải nhiều khó khăn khi yêu cầu của thị trường ngày càng cao, sự cạnh tranh để giành giật thị trường ngày gắt với nhiều phương thức cạnh tranh ngày càng khôn ngoan. Hơn nữa với nguồn nguyên phụ liệu phục vụ ngành dệt may, da, giày phần lớn là phải nhập khẩu và giá trị gia tăng trong ngành thấp cũng là một trong những vấn đề mà ngành may cần giải quyết trong thời gian tới để phát triển hoạt động xuất khẩu hàng may mặc Việt nam. Dựa trên việc phân tích bài học kinh nghiệm từ dệt may Trung Quốc, nhóm nghiên cứu đề xuất một số giải pháp mang tính ứng dụng cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam. 3.1. Xác định đúng vị trí của marketing trực tuyến trong chiến lƣợc marketing điện tử Bài học kinh nghiệm hàng đầu đối với các DN dệt may xuất khẩu Việt Nam là cần phải xác định đúng đắn vị trí của chiến lược marketing trực tuyến trong chiến lược marketing điện tử (e-marketing). Về vấn đề này đã có rất nhiều tranh luận nổ ra. Có nhiều quan điểm cho 661
  9. TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG rằng marketing trực tuyến (marketing online) chính là e-marketing. Tuy nhiên, chúng ta cần lưu ý rằng: marketing online có phạm vi hẹp hơn so với e-marketing. Nếu như e-marketing đề cập đến những hoạt động marketing được thực hiện thông qua các phương tiện điện tử (bao gồm cả internet, điện thoại, và các phương tiện điện tử khác..) thì marketing online chỉ được giới hạn bởi những hoạt động marketing thông qua internet và được xem như là phối thức xúc tiến điện tử - một trong những phối thức của marketing – mix điện tử. Chính vì vậy, xây dựng chiến lược marketing trực tuyến về bản chất là DN đang tìm cách thiết lập những mục tiêu dài hạn về truyền thông, xúc tiến cho thương hiệu/sản phẩm của DN thông qua internet. Có thể nói, xúc tiến điện tử đóng một vai trò rất quan trọng trong chiến lược e- marketing bởi xúc tiến điện tử giúp truyền tải những thông tin, thông điệp cũng như gia tăng giá trị của các sản phẩm của DN trong con mắt của khách hàng. Do đó, một câu hỏi đặt ra cho các DN khi tiến hành thực hiện chiến lược marketing trực tuyến là: làm thế nào để những thông tin truyền thông và xúc tiến đến đúng và phù hợp với đối tượng nhận tin? Để thực hiện được điều này, không còn cách nào khác là DN khi xây dựng chiến lược marketing trực tuyến phải dựa trên những luận cứ thực tiễn về khách hàng, đặc biệt là tận dụng kết quả nghiên cứu về cặp sản phẩm/thị trường. Khi đã có những luận cứ chính xác, DN sẽ biết làm thế nào để xây dựng nội dung và cách thức truyền đạt những thông tin truyền thông và xúc tiến tới tập khách hàng mục tiêu. 3.2. Thiết kế, triển khai nội dung chiến lƣợc marketing trực tuyến phải phù hợp với cặp sản phẩm/thị trƣờng Việc thiết kế và triển khai các phối thức và chương trình marketing trực tuyến phải được tiến hành dựa trên những nghiên cứu về thị trường và sản phẩm mục tiêu của DN nhằm đảm bảo hiệu quả của marketing trực tuyến nói riêng và của hoạt động marketing nói chung. Có nghĩa, tùy vào đặc thù của từng thị trường mục tiêu DN sẽ thiết kế và xây dựng nội dung chương trình cũng như lựa chọn các công cụ triển khai các chương trình marketing trực tuyến đó. Chẳng hạn, với những quốc gia có trình độ phát triển dân trí và hạ tầng CNTT cao như Hoa Kỳ, Nhật Bản, EU, các DN dệt may có thể đẩy mạnh thực hiện những chương trình quảng cáo, quan hệ công chúng trực tuyến, chào hàng và bán hàng trực tuyến … Tuy nhiên, với những thị trường có trình độ phát triển cũng như hạ tầng CNTT hạn chế hơn DN cũng nên tiết chế bớt những công cụ marketing trực tuyến để giảm tải bớt chi phí. Nhìn chung, trong các công cụ của chiến lược marketing trực tuyến, quảng cáo qua email được các DN dệt may sử dụng nhiều nhất bởi những lợi ích mà công cụ này mang lại. Email có thể được sử dụng để gửi những thông tin mới nhất, những chào hàng hoặc quảng cáo tới các đối tác tiềm năng và lâu dài của DN. Do đó, việc thiết kế được một chương trình email marketing với nội dung hợp lý với nhóm khách hàng mục tiêu dựa trên cơ sở dữ liệu khách hàng hợp lý nên là mối quan tâm hàng đầu của các DN dệt may xuất khẩu Việt Nam. Bên cạnh đó, các DN dệt may xuất khẩu Việt Nam có thể tiến hành hoạt động quảng cáo trực tuyến bằng hình thức tài trợ nội dung liên quan đến các trang phục thời trang đương đại, hoặc những thông tin về những thông số kỹ thuật, chất liệu vải, cách sử dụng đối với những sản phẩm dệt may Việt Nam tại một số trang báo điện tử nổi tiếng của nước bạn. Quan hệ công chúng (PR) cũng là một trong những hình thức marketing trực tuyến vô cùng hiệu quả đối với các DN dệt may xuất khẩu. Việc DN tăng cường tính liên kết và cung cấp những thông tin, bài viết, xây dựng cộng đồng điện tử… sẽ giúp tạo nên hiệu ứng tốt và gia tăng lòng tin cho các đối tác và khách hàng nước ngoài. Thực hiện chương trình SEM/SEO là phương thức phổ biến nhất để khách hàng có thể nhanh chóng được dẫn đến thông tin trên website của DN cũng như tăng cường sự nhận biết thương hiệu cho các DN dệt may xuất khẩu. Vấn đề là ở chỗ: DN nên làm gì để tăng cường thứ hạng cho website của mình? Phát triển những từ khóa nào trên mạng để bắt trúng nhu cầu tìm kiếm của người sử dụng? và nên phát triển Google Adword ra sao? Về bán hàng trực tuyến, việc quyết định mức ứng dụng cần tùy theo những thông tin cơ bản về thị trường xuất khẩu. Với một số thị trường có trình độ CNTT và TMĐT phát triển 662
  10. TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG cao như Nhật Bản, Hoa Kỳ, EU, các DN dệt may Việt Nam có thể phát triển ở mức chào hàng trực tuyến hoàn chỉnh. Còn một số thị trường mới, các DN có thể chỉ dừng lại ở mức đưa ra những thông tin hoàn chỉnh và đầy đủ về doanh nghiệp, thông tin về sản phẩm và dịch vụ. Các DN này cũng có thể tham gia vào những trang web hoạt động theo hình thức B2B tại những thị trường xuất khẩu trọng điểm nhằm tăng cường khả năng tiếp xúc, trao đổi thông tin và chào hàng với các đối tác nước ngoài. 3.3. Phát triển đồng bộ tổ chức bộ máy chuyên trách, hệ thống CNTT v nguồn nhân lực cho chiến lƣợc marketing trực tuyến Để thực hiện chiến lược marketing trực tuyến với hiệu quả cao, về dài hạn, các DN dệt may xuất khẩu VN cần phát triển một cách đồng bộ những nguồn lực tương ứng và có liên quan như: cơ sở hạ tầng, hệ thống CNTT, tổ chức bộ máy chuyên trách và nguồn nhân lực dành cho marketing trực tuyến. Một trong những điểm yếu hiện nay ngăn cản việc thực hiện có hiệu quả cao chiến lược marketing trực tuyến của các DN dệt may xuất khẩu Việt Nam là chúng ta còn thiếu về số lượng và yếu về chất lượng đội ngũ nhân lực chuyên trách cho TMĐT cũng như hệ thống cơ sở hạ tầng CNTT. Về cơ sở hạ tầng mạng – viễn thông, các DN dệt may xuất khẩu Việt Nam cũng cần tăng cường ứng dụng những phần mềm chuyên ngành mới nhất như: phầm mềm ERP, CRM, e-supply chain, phầm mềm thu thập cơ sở dữ liệu khách hàng… để nhanh chóng kết nối với các đối tác, giảm bớt thời gian và không bị ngắt quãng trong việc xử lý các giao dịch với các đối tác và khách hàng. Tuy nhiên, để có thể thích ứng kịp với sự phá triển của CNTT nói chung cũng như vận hành chương trình marketing trực tuyến có hiệu quả đòi hỏi nguồn nhân lực phải có trình độ hiểu biết về CNTT như: kỹ năng xây dựng và xử lý các phần mềm chuyên dụng, thu thập và xử lý các thông tin điện tử, tiếp nhận và tự động xử lý các đơn đặt hàng, xây dựng cơ sở dữ liệu khách hàng điện tử… Với thực trạng đào tạo về CNTT và TMĐT hiện nay của nước ta thì đây quả là thách thức không nhỏ với các DN dệt may xuất khẩu Việt Nam. 3.4. Gi nh tỷ lệ ngân quỹ thích đáng cho thực hiện chiến lƣợc marketing trực tuyến, phối hợp với ngân quỹ của phát triển thƣơng hiệu nhằm đạt đƣợc hiệu quả của chiến lƣợc marketing trực tuyến Các DN dệt may của Trung Quốc luôn trích một tỷ lệ ngân quỹ khá cao cho việc phát triển chiến lược marketing trực tuyến nhằm phối hợp và triển khai một cách đồng bộ các chương trình marketing thành viên. Đây là một hành động hợp lý nếu DN có tầm nhìn dài hạn và hướng tới tạo ra năng lực cạnh tranh cho DN trên thị trường quốc tế. Để đạt được hiệu quả trong thực hiện chiến lược marketing trực tuyến, các DN dệt may Việt Nam nên phối hợp với việc thực hiện chiến lược phát triển thương hiệu cho các sản phẩm may mặc trên thị trường mục tiêu. Với áp lực cạnh tranh căng thẳng trên thị trường dệt may thế giới hiện nay và trước xu hướng dịch chuyển tất yếu trong ngành từ hướng OEM sang ODM thì việc xây dựng và phát triển thương hiệu dệt may của riêng các DN dệt may Việt Nam là một việc làm phù hợp và sẽ mang lại lợi ích lớn cho DN về dài hạn. Do đó, việc tăng cường tỷ lệ chi ngân sách cho phát triển chiến lược marketing trực tuyến và phối hợp với ngân quỹ cho phát triển thương hiệu là một bài học kinh nghiệm quý báu cần lưu tâm trong hoạt động xuất khẩu của các DN dệt may Việt Nam. 4. Kết luận Trong bối cảnh cuộc cách mạng 4.0 đang diễn ra hiện nay, doanh nghiệp không được phép dừng lại mà phải thường xuyên đổi mới để cải tiến vị thế cạnh tranh của mình tại thị trường trong nước cũng như trên thị trường quốc tế. Nghiên cứu này đã chỉ ra các cơ sở lý thuyết về marketing điện tử, marketing trực tuyến cũng như nhấn mạnh vai trò của marketing trực tuyến trong việc tạo lập lợi thế cạnh tranh cho các doanh nghiệp hiện nay. Bằng việc phân tích thành công của dệt may Trung Quốc khi ứng dụng marketing điện tử để chuyển đổi 663
  11. TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG hình thức kinh doanh từ OEM sang OBM, tác giả đề xuất bốn nhóm giải pháp định hướng cách thức vận dụng marketing điện tử cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh tốt hơn cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. VINATEX, 2016, Báo cáo tập đoàn dệt may Việt Nam giai đoạn 2010 – 2016, 2017. TIẾNG ANH 1. BARNES, D., HINTON, M. & MIECZKOWSKA, S. (2004) E-commerce in the old economy: three case study examples. Journal of Manufacturing Technology Management, 15, 607 - 617. 2. BECK, R., WIGAND, R. T. & KONIG, W. (2005), Integration of E-Commerce by SMEs in the Manufacturing Sector: A Data Envelopment Analysis Approach. Journal of Global Information Management, 13, 20-33. 3. BLAND, V. (2007) Engaging the online market. NZ Business, 21, 52-58. 4. BOISVERT, H. & CARON, M.-A. (2006), Benchmarking web site functions. Benchmarking: An International Journal, 13, 174 - 189. 5. CHASTON, I. & MANGLES, T. (2003), Relationship marketing in online business-to-business markets: A pilot investigation of small UK manufacturing firms. European Journal of Marketing, 37, 753 - 773. 6. CHEN, L.-D., HANEY, S., PANDZIK, A., SPIGARELLI, J. & JESSEMAN, C. (2003), Small business internet commerce: A case study. Information Resources Management Journal, 16, 17. 7. CULLEN, A. J. & WEBSTER, M. (2007), A model of B2B e-commerce, based on connectivity and purpose International Journal of Operations & Production Management 27, 205 - 225. 8. CURRIE, W. L. (2004), Value creation from the application service provider e- business model: the experience of four firms Journal of Enterprise Information Management 17, 117 - 130. 9. ANIEL, E., WILSON, H. & MCDONALD, M. (2003), Towards a map of marketing information systems: an inductive study. European Journal of Marketing, 37, 821- 847. 10. DANIEL, E. & WILSON, H. N. (2004), Action research in turbulent environments: An example in e- commerce prioritisation European Journal of Marketing 38, 355 - 377. 11. DANIEL, E. M., HOXMEIER, J., WHITE, A. & SMART, A. (2004), A framework for the sustainability of e- marketplaces Business Process Management Journal 10, 277 - 289. 12. DENZIN, N. K. (1978), Denzin, N. K., The research act: a theoretical introduction to sociological methods. London: McGraw-Hill, 1978., London, McGraw-Hill. 13. EID, R. & TRUEMAN, M. (2004), Factors affecting the success of business-to- business international Internet marketing (B-to-B IIM): an empirical study of UK companies. Industrial Management & Data Systems 104, 16-30 14. EL-GOHARY, H, TRUEMAN, M. and FUKUKAWA, K. (2008a), The Relationship between E-Marketing and Performance: Towards a Conceptual Framework in a Small Business Enterprises Context, Journal of Business and Public Policy, 2 (2), 10-28. 15. FILLIS, I., JOHANSSON, U. & WAGNER, B. (2003), A conceptualisation of the opportunities and barriers to e-business development in the smaller firm Journal of Small Business and Enterprise Development 10, 336 - 344. 664
  12. TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG 16. FILLIS, I., JOHANSSON, U. & WAGNER, B. (2004b), A qualitative investigation of smaller firm e-business development Journal of Small Business and Enterprise Development 11, 349 - 361. 17. GHOSH, S., SURJADJAJA, H. & ANTONY, J. (2004), Optimisation of the determinants of e-service operations Business Process Management Journal 10, 616 - 635. 18. GILMORE, A., GALLAGHER, D. & HENRY, S. (2007), E-Marketing and SMEs: operational lessons for the future European Business Review 19, 234 - 247. 19. GRANDON, E. & PEARSON, J. (2004), Electronic commerce adoption: an empirical study of small and medium US businesses. Information and Management 42, 197 – 216 20. JONES, C. (2004), An alternative view of small firm adaptation Journal of Small Business and Enterprise Development 11, 362 - 370. 21. KANDAMPULLY, J. (2003), B2B relationships and networks in the Internet age Management Decision 41, 443 - 451 22. KARAGOZOGLU, N. & LINDELL, M. (2004), Electronic commerce strategy, operations, and performance in small and medium-sized enterprises. Journal of Small Business and Enterprise Development, 11, 290. 23. KIM, E. & KIM, Y. (2004), Predicting online purchase intentions for clothing products. European Journal of Marketing, 38, 883 - 897. 24. LANCASTER, S., YEN, D. C. & KU, C.-Y. (2006), E-supply chain management: an evaluation of current web initiatives Information Management & Computer Security, 14, 167 - 184. 25. LAWSON, R., ALCOCK, C., COOPER, J. & BURGESS, L. (2003b), Factors affecting adoption of electronic commerce technologies by SMEs: an Australian study. Journal of Small Business and Enterprise Development, 10, 265 - 276. 26. LEVY, M. & POWELL, P. (2005), Exploring e-business in SME‟s. Electronic Markets, 15, 173 – 181 27. MALONE, T. W., YATES, J. & BENJAMIN, R. I. (1989), The logic of electronic markets. Harvard Business Review, 67, 166-72. 28. MARTIN, L. M. (2004), E-innovation: Internet impacts on small UK hospitality firms International Journal of Contemporary Hospitality Management 16, 82 - 90. 29. MEADOWS-KLUE, D. (2003), Internet marketing for everyone. Director, 57, 42. 30. PATTON, M. (1990), Qualitative evaluation and research methods, London, Sage Publications. 32. PUTTERILL, L. G. (2004), The e-commerce race for Wales: another Aesop's fable? .Journal of Small Business and Enterprise Development 11, 382 - 389. 33. RAHMAN, Z. (2004), Use of Internet in supply chain management: a study of Indian companies Industrial Management & Data Systems 104, 31 - 41. 34. RAMSEY, E., IBBOTSON, P., BELL, J. & GRAY, B. (2003), E-opportunities of service sector SMEs: an Irish cross-border study Journal of Small Business and Enterprise Development 10, 250 - 264. 35. SANTARELLI, E. & D'ALTRI, S. (2003), The diffusion of e-commerce among SMEs: Theoretical implications and empirical evidence. Small Business Economics, 21, 273. 36. SCHMIDT, R. A. & PIOCH, E. A. (2003), Pills by post? German retail pharmacies and the Internet British Food Journal 105, 618 - 633. 37. SHETH, J. & SHARMA, A. (2005), International E-Marketing: opportunities and issues. International Marketing Review, 22, 611 - 622. 665
  13. TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG 38. STONE, M. (2003), SME e-business and supplier-customer relations Journal of Small Business and Enterprise Development 10, 345 - 353. 39. STRAUSS, J. & FROST, R. (2001), E-Marketing, NJ, USA, Prentice Hall. 40. TRADEMAP, 2016, Kết quả xuất khẩu các sản phẩm dệt may của Trung Quốc giai đoạn 2010 – 2016, 2017 41. TRUONG, D. & JITPAIBOON, T. (2010), How IT purchasing preparedness facilitates e-marketplace usage Journal of Enterprise Information Management 21, 198 - 218. 42. WHITE, G. (1997), International online marketing of foods to US consumers. International Marketing Review, 14, 376 - 384. 43. WONG, Y., CHAN, R. & LEUNG, T. (2005), Managing information diffusion in internet marketing. European Journal of Marketing, 39, 926 - 946. 44. ZHANG, S. & FJERMESTAD, J. (2010), Instant messaging: observations from two small e-commerce businesses Journal of Enterprise Information Management 21, 179 - 197. 45. ZHENG, J., CALDWELL, N., HARLAND, C., POWELL, P., WOERNDL, M. & XU, S. (2004), Small firms and e-business: cautiousness, contingency and cost-benefit. Journal of Purchasing and Supply Management, 10, 27-39 666
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2