TẠP CHÍ SINH HỌC 2014, 36(1se): 158-164<br />
<br />
NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC CỦA CHỦNG NẤM HƯƠNG LAI<br />
TỪ NÚI LANGBIANG, LÂM ĐỒNG VÀ CHỦNG THƯƠNG MẠI NHẬT BẢN<br />
Phạm Nữ Kim Hoàng1, Trương Bình Nguyên1*, Lê Xuân Thám2,<br />
Phan Hữu Hùng1, Hoàng Ngọc Ánh1, Đỗ Thị Thiên Lý1<br />
1<br />
<br />
Viện Nghiên cứu Khoa học Tây Nguyên, Viện Hàn lâm KH & CN Việt Nam, *nguyentb@tni.ac.vn<br />
2<br />
Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Lâm Đồng<br />
TÓM TẮT: Nấm hương (Lentinula edodes) là loại nấm được ưa chuộng, nhưng để nuôi trồng thành công<br />
cần có chủng giống tốt, năng suất cao, nguồn dinh dưỡng và khả năng thích ứng với môi trường. Chủng<br />
nấm hương Len 003-009 là con lai từ chủng thương mại Nhật Bản (Len 009) và chủng hoang dã<br />
(Langbiang, Lâm Đồng) (Len 003). Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệt độ, pH và nguồn dinh dưỡng<br />
lên sự sinh trưởng của chủng lai so với bố mẹ cho thấy, chủng lai luôn phát triển với tốc độ nhanh hơn<br />
hoặc tương đương với chủng thương mại và gấp đôi chủng hoang dã và đã thể hiện một số đặc tính tốt của<br />
bố mẹ. Chủng lai phát triển tối ưu trong khoảng nhiệt độ 24-27oC, đường glucose 20g/l và đạm peptone<br />
1g/l, tương tự sự phát triển của chủng thương mại. Trong khi đó, chúng bố mẹ chỉ phát triển tối ưu ở mức<br />
pH khác nhau (pH=5 ở Len 009 và pH=6 ở Len 003), con lai có thể phát triển tối ưu ở cả hai giá trị pH<br />
này, thể hiện khả năng tổ hợp một số ưu điểm từ chủng bố mẹ. Nghiên cứu cũng cho thấy ba chủng nấm<br />
đều không có nhu cầu về đạm cao nấm men. Trong thí nghiệm này, chưa xác định được đặc điểm thừa<br />
hưởng của tổ hợp lai từ chủng bố mẹ.<br />
Từ khóa: Lentinula edodes, cao nấm men, chủng lai, Lâm Đồng.<br />
<br />
MỞ ĐẦU<br />
<br />
trồng nấm hương [5].<br />
<br />
Nấm hương (Lentinula edodes) là một loại<br />
nấm ăn có nguồn gốc từ châu Á Thái Bình<br />
Dương, được nuôi trồng và sử dụng rộng rãi<br />
trên thế giới. Theo Chen (2005) [1], loài nấm<br />
này rất giàu vitamin (A, B và D), khoáng chất<br />
(P, K và Fe), các amino acid thiết yếu (cystin,<br />
histidin, arginin, glutamic acid), đặc biệt có<br />
chứa lentinan-một loại β-glucan có khả năng<br />
điều hòa miễn dịch, kháng ung thư cũng như<br />
kháng các tác động của virus.<br />
<br />
Theo Yoshida et al. (1968) [7], trong nuôi<br />
trồng nấm, đặc biệt đối với nuôi trồng nấm<br />
hương, nguồn dinh dưỡng và các yếu tố môi<br />
trường đóng vai trò quan trọng ảnh hưởng trực<br />
tiếp đến quá trình phát triển hệ sợi và hình thành<br />
quả thể nấm. Hệ sợi nấm hương có thể phát<br />
triển tốt trên nhiều nguồn carbon khác nhau, từ<br />
các monosacchride cho đến các polysaccharide,<br />
nhưng tốt nhất trên đường glucose. Trong khi<br />
peptone và các amino acid được xem là nguồn<br />
nitơ tốt cho sự phát triển hệ sợi thì nitrate và<br />
nitrite lại không thích hợp. Ngoài ra, pH và<br />
nhiệt độ là hai yếu tố môi trường có ảnh hưởng<br />
lớn đến hoạt tính enzyme nên ảnh hưởng đến sự<br />
sinh trưởng và phát triển của hệ sợi cũng như sự<br />
hình thành quả thể nấm hương [1].<br />
<br />
Ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc, nấm<br />
hương được nuôi trồng trên qui mô lớn đem lại<br />
hiệu quả kinh tế cao. Ở Việt Nam nói chung,<br />
tỉnh Lâm Đồng nói riêng, đến nay vẫn chưa có<br />
một cơ sở sản xuất qui mô loại nấm này mặc dù<br />
đã có nhiều chuyên gia đưa các chủng giống<br />
chất lượng cao từ nước ngoài về nuôi trồng. Khi<br />
tiến hành nuôi trồng, các đặc điểm như nhiệt độ<br />
ra quả thể, hình dạng, kích thước quả thể, nhiệt<br />
độ thích hợp cho sự phát triển hệ sợi, không<br />
giống nhau với các giống nấm hương khác<br />
nhau. Như vậy, giống nấm chất lượng tốt, năng<br />
suất cao và có khả năng thích ứng cao với điều<br />
kiện tự nhiên tại chỗ là một trong những yếu tố<br />
quan trọng quyết định sự thành công trong nuôi<br />
158<br />
<br />
Năm 2008, chúng tôi đã thu thập được một<br />
chủng nấm hương hoang dã thuộc loài Lentinula<br />
edodes, dòng Đông Bắc Á thuộc chi Lentinula,<br />
họ Marasmiaceae, bộ Agaricales (ký hiệu Len<br />
003). Một số nghiên cứu cơ bản cho thấy chủng<br />
nấm này có những tính chất ưu việt có thể sử<br />
dụng cho việc nuôi trồng như có thể phát triển<br />
được trong điều kiện nuôi trồng nhân tạo, thời<br />
gian phát triển hệ sợi tương đối ngắn, khả năng<br />
<br />
Pham Nu Kim Hoang et al.<br />
<br />
hình thành mầm nấm cao [2]. Ngoài ra, trong<br />
thời gian qua, chúng tôi đã sưu tập và lưu giữ<br />
một bộ giống thuần nấm hương trong đó có một<br />
chủng thương mại nhập nội từ Nhật Bản (ký<br />
hiệu Len 009), nhưng chưa được khảo sát, đánh<br />
giá trong điều kiện nuôi trồng tại Đà Lạt.<br />
Nhằm tạo ra một chủng vừa có nguồn gốc<br />
bản địa, thích nghi tốt với môi trường vừa cho<br />
năng suất, chất lượng cao, chúng tôi đã thực hiện<br />
lai tạo chủng nấm hoang dã thu thập được tại địa<br />
phương với chủng thương mại nhập nội từ Nhật<br />
Bản theo phương pháp di-mon mating của Miles<br />
(1996) [3]. Theo đó, chúng tôi đã nuôi trồng thu<br />
quả thể nhằm tách bào tử sợi song nhân cả hai<br />
chủng nghiên cứu. Bào tử sợi song nhân chủng<br />
Len 003 tiếp tục được cấy vào các đĩa petri khác<br />
và quan sát dưới kính hiển vi nhằm tìm được hệ<br />
sợi đơn bào tử. Cấy dòng đơn nhân Len 003 với<br />
dòng song nhân Len 009 trên cùng một đĩa petri.<br />
Khi hệ sợi của hai chủng tiếp xúc với nhau, nếu<br />
tại các đỉnh sợi đơn nhân ở phía ngược lại của sợi<br />
song nhân xuất hiện mấu liên kết, quá trình song<br />
nhân hóa đã xảy ra. Trong nghiên cứu này, chúng<br />
tôi đánh giá một số đặc điểm sinh học và hóa<br />
sinh của chủng nấm hương lai (Len 003-009) từ<br />
chủng bản địa (Len 003) với chủng thương mại<br />
Nhật Bản (Len 009).<br />
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br />
<br />
Chủng nấm hương hoang dã Len 003 được<br />
thu tại rừng cây lá rộng núi Langbiang, Lâm<br />
Đồng. Chủng Len 009 đã được thương mại hóa<br />
nguồn gốc Nhật Bản. Chủng lai Len 003-009 là<br />
kết quả lại tạo theo phương pháp di-mon mating<br />
giữa Len 003 và Len 009.<br />
Các chủng đều được nuôi cấy trong ống<br />
nghiệm thạch nghiêng môi trường PGA (200g<br />
khoai tây, 20g glucose và 15g agar trên 1l môi<br />
trường), giữ ở 4oC tại Phòng Công nghệ Vi<br />
sinh, Viện Nghiên cứu Khoa học Tây Nguyên.<br />
Khi tiến hành thí nghiệm, ba chủng nấm<br />
thuần Len 003, Len 009 và Len 003-009 được ủ<br />
trong tủ ấm ở nhiệt độ 25oC trong ba ngày, sau<br />
đó cấy lần lượt vào các đĩa petri chứa môi<br />
trường PGA, nuôi ở nhiệt độ phòng (18±2oC).<br />
Khi hệ sợi của ba chủng phát triển kín mặt đĩa,<br />
dùng một khuôn inox tròn, rỗng (ø = 9 mm) vô<br />
trùng cắt hệ sợi mỗi chủng theo một vòng tròn<br />
đồng tâm thành các mẫu nhỏ chứa sợi nấm.<br />
<br />
Năm mẫu nấm của mỗi chủng sẽ được sử dụng<br />
cho mỗi công thức và được nuôi cấy ở nhiệt độ<br />
phòng. Sau khi cấy được 48 giờ (qui ước là 0<br />
giờ), đo đường kính hệ sợi ở mỗi đĩa và đo mỗi<br />
24 tiếng cho đến 144 giờ. Hai đường thẳng đi<br />
qua tâm của mẫu nấm được chọn nhằm thu<br />
được giá trị trung bình của đường kính hệ sợi.<br />
Tốc độ phát triển hệ sợi được tính theo<br />
Schwantes & Salttler (1971) [4]: V = ΔX/ΔT.<br />
Trong đó, V là tốc độ mọc của hệ sợi (µm/giờ);<br />
ΔX là bán kính hệ sợi phát triển từ 0 đến 144<br />
giờ (µm); ΔT là thời gian hệ sợi phát triển tương<br />
ứng (giờ).<br />
Ảnh hưởng của nhiệt độ và pH môi trường<br />
lên sự phát triển hệ sợi với các ngưỡng nhiệt độ<br />
là 18, 21, 24, 27, 30, và 33oC; các ngưỡng pH là<br />
4, 5, 6, 7 và 8. Cả hai thí nghiệm, mẫu nấm<br />
được cấy vào đĩa petri chứa môi trường PGA.<br />
pH được điều chỉnh bằng dung dịch NaOH 1M<br />
và HCl 1M bằng máy đo pH để bàn Hanna.<br />
Nghiên cứu ảnh hưởng của glucose lên sự<br />
phát triển hệ sợi được thực hiện trên môi trường<br />
PGA (thành phần khoai tây và agar không đổi)<br />
có nồng độ glucose ở sáu mức 10, 15, 20, 25, 30<br />
và 35g/l.<br />
Nghiên cứu ảnh hưởng của peptone và cao<br />
nấm men lên sự phát triển hệ sợi được thực hiện<br />
trên môi trường PGA có bổ sung pepton hoặc<br />
cao nấm men ở các nồng độ 1, 2, 3, 4, 5 g/l (đối<br />
chứng môi trường PGA).<br />
Việc lập bảng biểu, tính toán các thông số<br />
được thực hiện bằng Microsoft Excel 2007, độ<br />
tin cậy 95%; hàm Descriptive Statistics, và<br />
ANOVA.<br />
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN<br />
<br />
Ảnh hưởng của nhiệt độ lên sự phát triển<br />
hệ sợi<br />
Theo Chen (2005) [1], nấm hương có khả<br />
năng thích nghi để phát triển trong giải nhiệt độ<br />
rộng từ 5-32oC, tuy nhiên nhiệt độ tối ưu cho sự<br />
phát triển hệ sợi trong khoảng 24-26oC. Tốc độ<br />
phát triển của hệ sợi các chủng nghiên cứu ở các<br />
mức nhiệt độ khác nhau được thể hiện ở bảng 1<br />
và hình 7a. Kết quả cho thấy, cả ba chủng nấm<br />
đều không thể phát triển ở điều kiện nhiệt độ<br />
môi trường trên 30oC. Ở nhiệt độ 33oC, Len 009<br />
hóa đen ngay sau khi cấy, tiếp đến là Len 003159<br />
<br />
TẠP CHÍ SINH HỌC 2014, 36(1se): 158-164<br />
<br />
009 và Len 003 và sau 144 giờ tất cả mẫu cấy ở<br />
cả ba chủng đều không phát triển (hình 1 và 2).<br />
Đối với Len 003, hệ sợi phát triển tối ưu ở mức<br />
24oC, trong khi hệ sợi chủng Len 009 và 003009 phát triển thích hợp ở cả hai ngưỡng 24oC<br />
(lần lượt là 194,66 và 201,25 µm/giờ) và 27oC<br />
<br />
(lần lượt là 195,96 và 202,47 µm/giờ). Như vậy<br />
sự phát triển của ba chủng trong đó có một<br />
chủng hoang dã chưa được thuần hóa cũng<br />
không khác nhận xét của Chen (2005) [1] về dải<br />
nhiệt độ của nấm hương.<br />
<br />
Bảng 1. Tốc độ (µm/giờ) phát triển hệ sợi chủng nấm hương ở các ngưỡng nhiệt độ<br />
Nhiệt độ nuôi cấy (oC)<br />
Chủng<br />
18<br />
21<br />
24<br />
27<br />
30<br />
Len 003<br />
72,16±1,45<br />
67,49±3,50 107,81±2,63 87,15±4,05<br />
21,62±1,32<br />
Len 009<br />
172,89±4,71 173,26±3,50 194,66±2,39 195,96±4,83 126,56±1,88<br />
Len 003-009 186,13±2,59 185,02±2,37 201,25±3,30 202,47±3,52 139,15±3,96<br />
<br />
33<br />
0<br />
0<br />
0<br />
<br />
Hình 1. Hệ sợi nấm khi nuôi cấy ở 33oC<br />
<br />
Hình 2. Hệ sợi nấm sau 144 giờ ở 24oC<br />
<br />
a. Len 003; b. Len 009; c. Len 003-009.<br />
<br />
a. Len 003; b. Len 009; c. Len 003-009.<br />
<br />
So sánh sự phát triển của ba chủng cho thấy,<br />
chủng hoang dã Len 003 phát triển yếu nhất và<br />
Len 003-009 cao nhất khi nuôi cấy ở cả sáu<br />
mức nhiệt độ. Cụ thể, ở 24oC, hệ sợi Len 009 và<br />
Len 003-009 có tốc độ phát triển 194,66 và<br />
201,25 µm/giờ, cao hơn hẳn Len 003 (107,81<br />
µm/giờ). Chủng Len 003-009 là con lai nhưng<br />
lại có tốc độ phát triển nhanh hơn cả hai chủng<br />
bố mẹ Len 003 và 009. Giải thích cho trường<br />
hợp này, Tokimoto & Kawai (1998) [6] cho<br />
rằng trong số các phương pháp chọn tạo giống<br />
nấm hương, phương pháp lai bắt cặp giữa dòng<br />
đơn nhân và đa nhân (di-mon mating) có thể đã<br />
giúp loại bỏ được những đột biến có hại, tạo nên<br />
các tổ hợp lai có tốc độ sinh trưởng mạnh hơn<br />
chủng bố mẹ.<br />
<br />
nên mức pH tối ưu cho hệ sợi nấm phát triển<br />
thường là 4,5-5,5 [1]. Bảng 2, hình 3 và 7b cho<br />
thấy ảnh hưởng của pH môi trường lên sự phát<br />
triển của các chủng nấm hương. Kết quả cho<br />
thấy, ba chủng nấm hương nghiên cứu trong đó<br />
có một chủng hoang dã và một là con lai từ<br />
chủng hoang dã này cũng thích hợp với môi<br />
trường acid nhẹ. Hệ sợi Len 003-009 cũng như<br />
bố mẹ, có thể phát triển được trên môi trường<br />
có pH thay đổi từ 4 đến 8 nhưng ở mức pH=5,<br />
tốc độ trung bình hệ sợi chủng lai cao nhất (191<br />
µm/giờ) bằng với sự phát triển của Len 009.<br />
Ngoài ra, tốc độ phát triển cao nhất này còn<br />
được tìm thấy ở pH=6; mức pH mà hệ sợi bố<br />
mẹ Len 003 phát triển mạnh nhất khi so sánh<br />
trên cả năm mức (82,89 µm/giờ). Nghĩa là con<br />
lai có sự phát triển cao nhất ở cả hai mức pH<br />
(một tương tự bố, một tương tự mẹ). Như vậy,<br />
khi đánh giá ảnh hưởng của pH lên<br />
sự phát triển hệ sợi, con lai đã thể hiện đặc điểm<br />
tương tự bố mẹ, nói cách khác, con lai đã tổ hợp<br />
được một số ưu điểm từ bố mẹ.<br />
<br />
Ảnh hưởng của pH môi trường lên sự phát<br />
triển hệ sợi<br />
Nấm hương có thể phát triển trong dải pH<br />
rộng (3-7) nhưng không như đa số các loại nấm<br />
khác, đây là loại nấm ưa môi trường acid nhẹ<br />
160<br />
<br />
Pham Nu Kim Hoang et al.<br />
<br />
Bảng 2. Tốc độ (µm/giờ) phát triển hệ sợi ba chủng nấm hương ở các ngưỡng pH<br />
pH môi trường nuôi cấy<br />
Chủng<br />
4<br />
5<br />
6<br />
7<br />
Len 003<br />
72,48±1,84<br />
79,43±0,61<br />
82,89±0,61<br />
73,78±1,23<br />
Len 009<br />
178,53±2,79<br />
191,55±2,65<br />
183,45±1,00<br />
182,87±1,00<br />
Len 003-009<br />
177,50±1,98<br />
191,25±1,13<br />
190,42±2,35<br />
183,75±0,73<br />
<br />
8<br />
72,05±1,23<br />
177,37±2,65<br />
180,42±1,45<br />
<br />
Hình 3. Hệ sợi nấm trên môi trường pH=5<br />
sau 144 giờ<br />
<br />
Hình 4. Hệ sợi nấm trên môi trường có nồng độ<br />
glucose tối ưu sau 144 giờ<br />
<br />
a. Len 003; b. Len 009; c. Len 003-009.<br />
<br />
a. Len 003; b. Len 009; c. Len 003-009.<br />
<br />
Ảnh hưởng của glucose lên sự phát triển hệ sợi<br />
Kết quả cho thấy con lai Len 003-009 có tốc<br />
độ phát triển cao nhất, cao hơn bố mẹ trên cả<br />
sáu nồng độ glucose: cao nhất ở 20 g/l (204,31<br />
µm/giờ) và thấp nhất ở 35 g/l (176,90 µm/giờ).<br />
Nhu cầu về mức glucose của chủng con lai<br />
tương tự như của chủng bố mẹ Len 009 nhưng<br />
khác với chủng hoang dã Len 003. Ở Len 009,<br />
hệ sợi phát triển cao nhất cũng ở nồng độ 20 g/l<br />
(195,44 µm/giờ) trong khi Len 003 cần nguồn<br />
glucose từ 30-35 g/l mới có thể phát triển tối đa<br />
(73,56 µm/giờ) (bảng 3 và hình 7c). Mặc dù nhu<br />
cầu về nồng độ glucose của con lai len 003-009<br />
<br />
tương tự của Len 009, nhưng về mặt hình thái,<br />
khi quan sát bằng mắt thường, hệ sợi chủng lai<br />
có những đặc điểm tương tự Len 003, cụ thể hệ<br />
sợi mọc tương đối dày, chằng chịt, khuynh<br />
hướng hình thành nhiều hệ sợi không khí tạo<br />
nên một khuẩn lạc có màu trắng bông, trong khi<br />
Len 009 có hệ sợi mỏng, vươn xa theo bề mặt<br />
môi trường, ít tạo hệ sợi không khí (hình 4). Tốc<br />
độ phát triển của hệ sợi Len 003-009 xấp xỉ<br />
chủng bố mẹ thương mại và cao hơn hẳn chủng<br />
hoang dã đã cho thấy con lai đã thừa hưởng<br />
được những đặc tính tốt từ bố, hoặc mẹ, hoặc cả<br />
hai.<br />
<br />
Bảng 3. Ảnh hưởng của Glucose lên tốc độ phát triển hệ sợi (µm/giờ)<br />
Chủng<br />
Len 003<br />
Len 009<br />
Len 003009<br />
<br />
Nồng độ glucose (g/l)<br />
10<br />
65,08±2,98<br />
185,80±1,13<br />
<br />
15<br />
67,83±1,78<br />
191,74±1,02<br />
<br />
20<br />
68,92±0,99<br />
195,44±1,16<br />
<br />
25<br />
69,97±2,26<br />
185,80±1,41<br />
<br />
30<br />
73,56±2,51<br />
174,69±2,35<br />
<br />
35<br />
71,35±2,97<br />
164,08±1,53<br />
<br />
187,83±1,51<br />
<br />
198,25±1,50<br />
<br />
204,31±2,06<br />
<br />
188,45±1,58<br />
<br />
183,16±1,45<br />
<br />
176,90±1,41<br />
<br />
Ảnh hưởng của peptone lên sự phát triển hệ sợi<br />
Nitơ là nguồn dinh dưỡng không thể thiếu<br />
trong quá trình tổng hợp nguyên sinh chất và<br />
xây dựng cấu trúc nấm hương. Quá nhiều hay<br />
<br />
quá ít nitơ cũng đều ảnh hưởng đến sự phát triển<br />
hệ sợi và quả thể nấm. Nghiên cứu của Chen<br />
(2005) [1] cho rằng tỷ lệ C/N cơ chất thích hợp<br />
cho quá trình phát triển hệ sợi nấm hương nên<br />
161<br />
<br />
TẠP CHÍ SINH HỌC 2014, 36(1se): 158-164<br />
<br />
dao động trong khoảng 17/1 đến 40/1. Ảnh<br />
hưởng của nguồn đạm peptone lên sự phát triển<br />
hệ sợi được chỉ ra ở bảng 4, hình 5 và 7d. Theo<br />
đó tốc độ phát triển cao nhất của con lai Len<br />
003-009 nuôi cấy trên môi trường PGA có bổ<br />
sung 1 g/l peptone, đạt 203,68 µm/giờ và cao<br />
hơn so với đối chứng (198,68 µm/giờ). So sánh<br />
các nồng độ còn lại với đối chứng cho thấy, nếu<br />
bổ sung vào môi trường trên 1 g peptone, sự<br />
phát triển của hệ sợi sẽ giảm xuống đáng kể.<br />
Nhu cầu về đạm peptone của chủng lai tương tự<br />
<br />
của chủng bố mẹ Len 009 (hệ sợi phát triển cao<br />
nhất khi có 1g peptone trong một lít môi trường<br />
PGA) nhưng khác biệt rõ ràng so với chủng bố<br />
mẹ Len 003. Quá trình phát triển của hệ sợi<br />
chủng hoang dã Len 003 cần bổ sung một lượng<br />
đạm cao gấp đôi của các chủng kia để nó có thể<br />
phát triển đến mức cao nhất (từ 74,06 µm/giờ<br />
khi bổ sung 1 g peptone đến 79,15 µm/giờ<br />
khi bổ sung 2 g peptone). Nồng độ peptone tăng<br />
cao đều làm giảm tốc độ phát triển của cả ba<br />
chủng.<br />
<br />
Bảng 4. Ảnh hưởng của peptone lên tốc độ phát triển hệ sợi (µm/giờ)<br />
Chủng<br />
Len 003<br />
Len 009<br />
Len 003009<br />
<br />
Nồng độ Pepton (g/l)<br />
Đối chứng<br />
71,10±0,93<br />
196,74±2,27<br />
<br />
1<br />
74,06±1,47<br />
202,74±2,53<br />
<br />
2<br />
79,15±1,03<br />
122,72±3,48<br />
<br />
3<br />
69,22±1,06<br />
103,59±3,91<br />
<br />
4<br />
62,15±2,92<br />
99,48±2,26<br />
<br />
5<br />
60,07±5,47<br />
92,36±1,32<br />
<br />
198,68±2,77<br />
<br />
203,68±2,42<br />
<br />
121,92±2,58<br />
<br />
102,99±3,52<br />
<br />
98,68±1,47<br />
<br />
93,24±1,41<br />
<br />
Hình 5. Hệ sợi nấm trên môi trường có nồng độ<br />
peptone tối ưu sau 144 giờ<br />
<br />
Hình 6. Hệ sợi nấm trên môi trường PGA<br />
<br />
a. Len 003; b. Len 009; c. Len 003-009.<br />
<br />
sau 144 giờ<br />
a. Len 003; b. Len 009; c. Len 003-009.<br />
<br />
Ảnh hưởng của cao nấm men lên sự phát<br />
triển hệ sợi<br />
Bảng 5, hình 6 và 7e cho thấy, chủng lai<br />
Len 003-009 cũng như bố mẹ không thích hợp<br />
phát triển trên môi trường có nguồn đạm từ cao<br />
nấm men. Sự phát triển hệ sợi của các chủng<br />
này khi nuôi cấy trên môi trường có bổ sung cao<br />
nấm men từ 1 cho đến 5 g đều thấp hơn khi nuôi<br />
cấy trên môi trường đối chứng (PGA). Nguồn<br />
cao nấm men càng cao càng ức chế sự sinh<br />
trưởng của ba chủng. Đặc biệt, tốc độ phát triển<br />
của chủng lai Len 003-009 trên môi trường có<br />
<br />
cao nấm men thấp hơn nhiều khi nuôi cấy trên<br />
môi trường không có nguồn đạm này. Cụ thể, sự<br />
phát triển của hệ sợi giảm từ 198,68 xuống chỉ<br />
còn 78,13 µm/giờ khi bổ sung vào môi trường<br />
1g cao nấm men. Hệ sợi tiếp tục giảm theo<br />
chiều tăng của lượng đạm nấm men được bổ<br />
sung vào môi trường nuôi cấy. Kết quả này chỉ<br />
có thể cho thấy cả ba chủng nghiên cứu đều<br />
không có nhu cầu về đạm cao nấm men. Việc<br />
xác định tổ hợp lai có hay không thừa hưởng<br />
đặc tính của bố mẹ dựa trên khảo sát này là<br />
chưa thể kết luận được.<br />
<br />
162<br />
<br />