intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Nghiên cứu thu nhận, nuôi cấy và đánh giá một số đặc điểm hình thái quần thể tế bào gốc phôi bò Việt Nam

Chia sẻ: Trinhthamhodang Trinhthamhodang | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

66
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tế bào gốc phôi bò hiện nay được phân lập và nuôi cấy ở giai đoạn phôi nang từ 7-9 ngày hoặc giai đoạn phôi từ 12-14 ngày. Bài báo này trình bày kết quả nghiên cứu phân lập và nuôi cấy tế bào gốc phôi bò ở giai đoạn phôi dâu và phôi nang. Kết quả 9 phôi dâu và 3 phôi nang giai đoạn sớm đã được thử nghiệm nuôi cấy phôi nguyên cho thiết lập tế bào gốc phôi. Tuy nhiên, các blastomere trong 9 phôi dâu không thể bám vào lớp tế bào nuôi dưỡng và phát triển, chỉ có 1 trong 3 phôi nang giai đoạn sớm bám được vào lớp tế bào nuôi dưỡng và phát triển thành quần thể tế bào gốc phôi bò. Quần thể tế bào gốc phôi bò sơ cấp được cấy chuyền 2 lần. Ở lần cấy chuyền thứ nhất, 6 quần thể tế bào gốc phôi được quan sát thấy và kích thước các quần thể này dao động từ 50-100 µm. Chỉ có 2 trong 6 quần thể tế bào ở lần cấy chuyển thứ nhất duy trì được hình thái của quần thể tế bào gốc phôi. Ở lần cấy chuyền thứ hai, 5 quần thể tế bào gốc phôi được quan sát và kích thước các quần thể này dao động từ 70-140 µm. Các quần thể tế bào gốc phôi bò trên đều có đường bao quanh rõ tuy nhiên bề mặt của các quần thể này không trơn bóng như quần thể tế bào gốc phôi chuột. Cả 5 quần thể tế bào gốc phôi bò ở lần cấy chuyền thứ 2 bị thoái hoá chỉ sau một tuần nuôi cấy. Tế bào gốc phôi bò được thử nghiệm biệt hoá in vitro và chúng có khả năng biệt hoá thành thể phôi. Đây là một đặc điểm quan trọng cho thấy tế bào gốc phôi bò thu được có tính đa tiềm năng.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Nghiên cứu thu nhận, nuôi cấy và đánh giá một số đặc điểm hình thái quần thể tế bào gốc phôi bò Việt Nam

TẠP CHÍ SINH HỌC, 2012, 34(3SE): 277-284<br /> <br /> NGHIÊN CỨU THU NHẬN, NUÔI CẤY VÀ ĐÁNH GIÁ MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM<br /> HÌNH THÁI QUẦN THỂ TẾ BÀO GỐC PHÔI BÒ VIỆT NAM<br /> <br /> Lê Thành Long*, Đoàn Thị Hồng Hạnh, Nguyễn Thị Hồng Vân, Hoàng Nghĩa Sơn<br /> Viện Sinh học nhiệt đới, Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam, (*)lelong2510@gmail.com<br /> <br /> TÓM TẮT: Tế bào gốc phôi bò hiện nay được phân lập và nuôi cấy ở giai đoạn phôi nang từ 7-9 ngày<br /> hoặc giai đoạn phôi từ 12-14 ngày. Bài báo này trình bày kết quả nghiên cứu phân lập và nuôi cấy tế bào<br /> gốc phôi bò ở giai đoạn phôi dâu và phôi nang. Kết quả 9 phôi dâu và 3 phôi nang giai đoạn sớm đã được<br /> thử nghiệm nuôi cấy phôi nguyên cho thiết lập tế bào gốc phôi. Tuy nhiên, các blastomere trong 9 phôi<br /> dâu không thể bám vào lớp tế bào nuôi dưỡng và phát triển, chỉ có 1 trong 3 phôi nang giai đoạn sớm bám<br /> được vào lớp tế bào nuôi dưỡng và phát triển thành quần thể tế bào gốc phôi bò. Quần thể tế bào gốc phôi<br /> bò sơ cấp được cấy chuyền 2 lần. Ở lần cấy chuyền thứ nhất, 6 quần thể tế bào gốc phôi được quan sát<br /> thấy và kích thước các quần thể này dao động từ 50-100 µm. Chỉ có 2 trong 6 quần thể tế bào ở lần cấy<br /> chuyển thứ nhất duy trì được hình thái của quần thể tế bào gốc phôi. Ở lần cấy chuyền thứ hai, 5 quần thể<br /> tế bào gốc phôi được quan sát và kích thước các quần thể này dao động từ 70-140 µm. Các quần thể tế bào<br /> gốc phôi bò trên đều có đường bao quanh rõ tuy nhiên bề mặt của các quần thể này không trơn bóng như<br /> quần thể tế bào gốc phôi chuột. Cả 5 quần thể tế bào gốc phôi bò ở lần cấy chuyền thứ 2 bị thoái hoá chỉ<br /> sau một tuần nuôi cấy. Tế bào gốc phôi bò được thử nghiệm biệt hoá in vitro và chúng có khả năng biệt<br /> hoá thành thể phôi. Đây là một đặc điểm quan trọng cho thấy tế bào gốc phôi bò thu được có tính đa tiềm<br /> năng.<br /> Từ khóa: Phôi bò, đa tiềm năng, nuôi cấy phôi nguyên, tế bào gốc phôi..<br /> <br /> MỞ ĐẦU nuôi cấy tế bào gốc phôi bò được thực hiện ở<br /> Tế bào gốc phôi (embryonic stem cells - phôi nang giai đoạn ngày 7-9 [172,11, 9] hoặc<br /> ESCs) là những tế bào đa tiềm năng thường có thể phân lập từ phôi giai đoạn ngày thứ 12-<br /> được thu nhận từ phôi nang (blastocyst) giai 14 [6]. Tuy nhiên, thời gian tối ưu cho viêc phát<br /> đoạn tiền làm tổ (pre-implantation). Chúng có triển phôi giai đoạn tiền làm tổ để thu nhận tế<br /> khả năng tự làm mới (re-newal) để tạo thành bào gốc phôi vẫn còn chưa biết rõ. Những cố<br /> một số lượng lớn tế bào mà không thay đổi đặc gắng thu nhận tế bào gốc phôi bò từ hợp tử và<br /> tính đa tiềm năng và có khả năng biệt hóa thành phôi phân chia giai đoạn sớm hầu hết đều thất<br /> các loại tế bào khác nhau trong cơ thể [5]. bại [18, 8], trong đó chỉ có một dòng tế bào tế<br /> Chúng biểu hiện các makers hay các đặc tính bào gốc phôi bò duy nhất được tăng sinh từ phôi<br /> chuyên biệt bao gồm các kháng nguyên đặc giai đoạn hai tế bào, được nuôi cấy hơn 3 năm<br /> hiệu cho giai đoạn phôi, sự hoạt động của các [8]. Trong khi đó, phôi bò giai đoạn phôi dâu<br /> enzyme như alkaline phosphatase và telomerase được sử dụng cho việc phân lập tế bào gốc phôi<br /> cũng như gene đặc trưng cho tính đa tiềm năng có hiệu quả hình thành các quần thể từ 60-70%<br /> như Oct4 và Nanog [1]. Hơn nữa, chúng có khả [17,18]. Cho đến nay, các dòng tế bào gốc phôi<br /> năng biệt hoá in vivo thành khối u quái bò vẫn chưa được thiết lập một cách bền vững<br /> (teratomas), các khối u này chứa các tế bào có và một số đặc điểm hình thái của quần thể tế<br /> đặc điểm giống như các tế bào trong ba lớp bào gốc phôi bò chưa được đánh giá một cách<br /> mầm phôi: nội bì, trung bì, ngoại bì và chúng có đầy đủ. Do đó, trong công trình này, chúng tôi<br /> khả năng biệt hóa in vitro trực tiếp thành 200 bước đầu nghiên cứu phân lập và nuôi cấy tế<br /> loại tế bào khác nhau trong cơ thể trưởng thành bào gốc phôi bò Việt Nam ở một số giai đoạn<br /> [12]. Các dòng tế bào gốc phôi đã được phân khác nhau, đồng thời đánh giá khả năng tăng<br /> lập thành công từ phôi nang của chuột, khỉ và sinh cũng như đặc điểm hình thái của một số<br /> người, hơn nữa việc thu nhận còn có thể được quần thể tế bào gốc phôi bò.<br /> thực hiện từ phôi ở giai đoạn trước khi compact<br /> [4, 3, 18]. Hầu hết những cố gắng phân lập và PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br /> <br /> <br /> <br /> 277<br /> Le Thanh Long, Doan Thi Hong Hanh, Nguyen Thi Hong Van, Hoang Nghia Son<br /> <br /> Nuôi chín trứng bò chứa tế bào nuôi dưỡng bị bất hoạt bởi<br /> Trứng bò được thu nhận từ lò mổ sau đó mitomycin C. Phôi nguyên sẽ được nuôi cấy<br /> được chuyển về phòng thí nghiệm. Phức hợp trong môi trường tế bào gốc phôi Knock-out<br /> trứng-cumulus (Cumulus - Oocyte complex) DMEM (Gibco) chứa 20% Knock-out Serum<br /> được thu nhận bằng phương pháp chọc hút. Replacement (Gibco), 1% pen/strep (Gibco), 200<br /> Phức hợp trứng-cumulus được nuôi trong môi µM mercaptoethanol (Sigma), 1% L-glutamine<br /> trường TCM199 (Sigma) bổ sung 20% FBS (Gibco), 1000 IU/ml LIF, 1% Non-essencial<br /> (Gibco), 1% Pen/Strep (Gibco), 2 µg/ml β- amino acid (Gibco), 1% nucleoside (0,73 g/L<br /> estradiol (Sigma), 10IU FSH (Sigma) và 10IU cytidine, 0,85 g/L guanosine, 0,73 g/L Uridine,<br /> LH (Sigma) ở 38,5oC, 5% CO2 trong vòng 22- 0,8 g/L adenosine, 0,24 g/L thymidine).<br /> 24 giờ. Cấy chuyền tế bào gốc phôi bò<br /> Thụ tinh in vitro trứng bò Quần thể tế bào gốc phôi được thu nhận<br /> Trứng sau khi được nuôi chín sẽ được sử bằng ống mao quản, sau đó được chuyển vào<br /> dụng cho thụ tinh in vitro. Tinh trùng được đĩa 96 giếng chứa Trypsin-EDTA 0,25%<br /> swim-up trong môi trường TALP-HEPES (chứa (Gibco). Khi tách rời hoàn toàn, các tế bào sẽ<br /> 2 mM sodium pyruvate, 1% pen/strep và được chuyển vào đĩa nuôi mới chửa lớp tế bào<br /> 3mg/ml BSA) trong 1 giờ ở 38,5oC. Trứng được nuôi dưỡng bị bất hoạt bởi mitomycin C. Tế bào<br /> thụ tinh với tinh trùng trong vi giọt thụ tinh với được nuôi trong môi trường nuôi tế bào gốc<br /> mật độ 1 × 106 tinh trùng/ml. Quá trình thụ tinh phôi ở 38,5oC, 5% CO2.<br /> được diễn ra ở 38,5oC, 5% CO2 trong 8 giờ. Sau Thử nghiệm biệt hoá in vitro<br /> đó trứng thụ tinh sẽ được loại bỏ tinh trùng và Quần thể tế bào gốc phôi được tách bằng<br /> được nuôi cấy trong môi trường nuôi phôi sofa Trypsin-EDTA 0,25% thành tế bào đơn, sau đó<br /> ở 38,5oC, 5% CO2. các tế bào này được nuôi cấy trong đĩa petri với<br /> Chuẩn bị lớp tế bào nuôi dưỡng môi trường nuôi cấy tế bào gốc phôi không<br /> Tế bào nuôi dưỡng (nuôi dưỡng cells) được chứa LIF. Thể phôi có cấu trúc hình cầu sẽ xuất<br /> sử dụng trong nghiên cứu này là nguyên bào sợi hiện sau 1-2 tuần nuôi cấy.<br /> phôi chuột được phân lập và nuôi cấy từ thai<br /> KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN<br /> chuột nhắt trắng 12,5-13,5E. Nguyên bào sợi<br /> phôi chuột ở lần cấy chuyển thứ 2 sẽ được sử Đánh giá hiệu quả loại bò màng zona bằng<br /> dụng làm tế bào nuôi dưỡng. Nguyên bào sợi pronase và acid tyrode<br /> phôi chuột được bất hoạt bằng mitomycin C 10 Trong việc tạo phôi bằng phương pháp thụ<br /> µg/ml trong vòng 2,5 giờ. Sau đó nguyên bào tinh trong ống nghiệm, chỉ những phôi không có<br /> sợi phôi chuột được rửa lại bằng môi trường sự phân mảnh được chọn lọc cho quá trình nuôi<br /> nuôi cấy tế bào gốc phôi 2 lần mỗi lần 10 phút. phôi. Những phôi bị phân mảnh bị loại bỏ. Quá<br /> Loại bỏ màng zona trình phân mảnh của phôi là một đặc điểm hình<br /> Trong nghiên cứu này, chúng tôi thử thái của quá trình apoptosis và quá trình này ảnh<br /> nghiệm loại bỏ màng zona của phôi bò bằng hai hưởng lớn tới sự phát triển của phôi cũng như<br /> yếu tố là enzyme pronase (Sigma) và acid việc thiết lập các dòng tế bào gốc phôi.<br /> tyrode pH 2,5 (Gibco). Phôi bò giai đoạn 8-16 Để nuôi cấy tế bào gốc phôi, việc loại bỏ<br /> tế bào sẽ được dùng cho khảo sát nồng độ màng zona rất quan trọng cho việc thu nhận<br /> enzyme pronase cũng như acid tyrode trong phôi ở các giai đoạn khác nhau [15]. Các cách<br /> việc loại bỏ màng zona. phổ biết nhất hiện nay để loại bỏ màng zona của<br /> Nuôi cấy phôi nguyên phôi là sử dụng acid tyrode, sử dụng enzyme<br /> hoặc sử dụng hệ thống hỗ trợ laser. Tuy nhiên, ở<br /> Phôi bò giai đoạn morula và giai đoạn đối tượng gia súc đặc biệt là ở bò, phương pháp<br /> blastocyst sớm được xử lý loại bỏ màng zona. phổ biến nhất để loại bỏ màng zona là sử dụng<br /> Phôi đã loại bỏ màng zona được chuyển lên đĩa enzyme pronase.<br /> <br /> <br /> 278<br /> TẠP CHÍ SINH HỌC, 2012, 34(3SE): 277-284<br /> <br /> Trong bài báo này, enzyme pronase được sử nhận và nuôi cấy tế bào gốc phôi từ hai đối<br /> dụng ở các nồng độ khác nhau để kiểm tra khả tượng này, acid tyrode là hóa chất được sử dụng<br /> năng loại bỏ màng zona của phôi bò. Chúng tôi phổ biến nhất [13]. Trong nghiên cứu này, acid<br /> sử phôi phôi bò ở giai đoạn 8 tế bào đến 16 tế tyrode cũng được sử dụng để thử nghiệm loại<br /> bào để kiểm tra khả năng này của enzyme bỏ màng zona của phôi bò. Tuy nhiên, sau khi<br /> pronase. Kết quả xử lý loại bỏ màng được trình xử lý với acid tyrode 30 phút, cấu trúc và hình<br /> bày trong bảng 1. thái màng zona gần như không biến đổi (hình<br /> Kết quả xử lý cho thấy, ở nồng độ 10 1D, 1D1). Điều đó cho thấy, acid tyrode không<br /> mg/ml, màng zona của phôi bò bị loại bỏ nhanh hiệu quả trong việc loại bỏ màng zona của phôi<br /> chỉ sau 1 phút. Tuy nhiên, màng zona chỉ bị loại bò. Hơn nữa, thời gian sử lý với acid tyrode rất<br /> bỏ một nửa đủ để phôi thoát ra ngoài. Quá trình lâu nên nó có thể ảnh hưởng tới chất lượng và<br /> loại bỏ màng zona ở nồng độ 10 mg/ml diễn ra sự phát triển của phôi bò.<br /> nhanh nhưng nó lại ảnh hưởng lớn tới các tế bào<br /> phôi bên trong. Cấu trúc phôi bị thay đổi mạnh,<br /> liên kết giữa các tế bào phôi bị cắt và các tế bào<br /> phôi này rất dễ rời nhau (hình 1A, 1A1). Ở nồng<br /> độ 0,5 mg/ml, màng zona của phôi bị loại bỏ<br /> hoàn toàn sau 7 phút. Quá trình loại bỏ này diễn<br /> ra lâu, phôi có hiện tượng bị biến dạng (hình<br /> 1C, 1C1). Điều đó cho thấy, ở nồng độ này,<br /> enzyme pronase cũng tác động lớn tới các tế<br /> bào phôi bên trong vì thời gian xử lý lâu,<br /> pronase cắt đứt các liên kết giữa các tế bào<br /> phôi, làm tách rời các tế bào phôi và phôi bị<br /> biến dạng. Ở nồng độ 5 mg/ml, màng zona của<br /> phôi bò bị loại bỏ sau 3 phút, phôi gần như vẫn<br /> giữ nguyên được cấu trúc và hình dạng giống<br /> như trước khi xử lý (hình 1B, 1B1). Các tế bào<br /> phôi gần như không tách rời nhau. Điều đó cho<br /> thấy, nồng độ pronase 5 mg/ml là thích hợp nhất<br /> cho việc loại bỏ màng zona, thời gian xử lý ở<br /> nồng độ này ngắn mà phôi gần như không bị<br /> thay đổi cấu trúc, hình dạng, tế bào phôi không Hình 1. Quá trình xử lý loại bỏ màng zona của<br /> bị tách rời, đây là những điều kiện rất quan phôi<br /> trong cho việc phân lập và nuôi cấy tế bào gốc [A, A1]. phôi bò trước và sau khi xử lý với pronase<br /> phôi bò. 10 mg/ml; [B, B1]. phôi bò trước và sau khi xử lý<br /> với pronase 5 mg/ml; [C, C1]. phôi bò trước và sau<br /> Acid tyrode pH 2,5 (Gibco) được sử dụng<br /> khi xử lý với pronase 0,5 mg/ml; [D, D1]. phôi bò<br /> rất phổ biến trong việc loại bỏ màng zona của trước và sau khi xử lý với acid tyrode pH 2,5.<br /> trứng, phôi chuột hay heo và trong việc thu<br /> <br /> Bảng 1. Kết quả loại màng zona bằng pronase and acid tyrode<br /> Số phôi dùng cho<br /> Tác nhân loại màng Số phôi được loại màng zona<br /> loại màng zona<br /> Pronase 10 mg/ml 13 13<br /> Pronase 5 mg/ml 12 12<br /> Pronase 0,5 mg/ml 13 13<br /> Acid tyrode pH 2,5 11 0<br /> <br /> <br /> 279<br /> Le Thanh Long, Doan Thi Hong Hanh, Nguyen Thi Hong Van, Hoang Nghia Son<br /> <br /> Nuôi cấy sơ cấp tế bào gốc phôi bò Đánh giá khả năng tăng sinh của tế bào gốc<br /> Quá trình phân lập và nuôi cấy được thực phôi bò bằng cấy chuyền<br /> hiện với phôi dâu và phôi nang giai đoạn sớm. Các tế bào gốc phôi bò được nuôi cấy trên<br /> Phôi được xử lý với pronase 5 mg/ml để loại bỏ lớp tế bào nuôi dưỡng và phát triển trong môi<br /> màng zona. Sau đó, phôi được rửa nhiều lần trường chứa LIF 1.000 IU/ml. Sau 48 giờ nuôi<br /> bằng môi trường nuôi cấy tế bào gốc phôi và cấy, sáu quần thể tế bào gốc phôi bò hình thành<br /> được chuyển lên đĩa nuôi cấy có chứa tế bào và phát triển trên lớp tế bào nuôi dưỡng. Quần<br /> nuôi dưỡng đã bất hoạt bằng mitomycin C để thể tế bào gốc phôi bò trên phát triển mạnh, số<br /> nuôi cấy sơ cấp. Trong nuôi cấy sơ cấp, nhân tố lượng tế bào tăng nhanh. Tuy nhiên, một số tế<br /> ức chế bệnh bạch cầu (LIF-leukemia inhibitory bào vùng ngoài của quần thể tế bào gốc phôi bò<br /> factor) được sử dụng ở nồng độ 1.000 IU/ml biệt hoá và mọc lan trên bề mặt đĩa nuôi cấy<br /> môi trường nuôi cấy. Nồng độ LIF này được sử cũng như mọc chồng lên lớp tế bào nuôi dưỡng.<br /> dụng để bước đầu đánh giá khả năng phát triển Hình thái các quần thể tế bào gốc phôi bò ở<br /> của quần thể tế bào gốc phôi bò trong quá trình lần cấy chuyền thứ nhất cũng không trơn nhẵn<br /> nuôi cấy sơ cấp cũng như sự tăng sinh của tế như hình thái của quần thể tế bào gốc chuột, tuy<br /> bào gốc phôi bò sau các lần cấy chuyền khác nhiên, các quần thể trên đều có đường bao<br /> nhau. Kết quả nuôi cấy phôi nguyên cho thấy, quanh rất rõ. Đó là một đặc điểm phân biệt quần<br /> các blastomere của phôi dâu không thể bám và thể tế bào gốc phôi với các cụm tế bào do nhiều<br /> tăng sinh trên lớp tế bào nuôi dưỡng (bảng 2). tế bào kết cụm lại với nhau [7]. Kích thước của<br /> Ba phôi nang giai đoạn sớm được nuôi cấy trên các quần thể tế bào gốc phôi bò này dao động từ<br /> lớp tế bào nuôi dưỡng. Tuy nhiên, các tế bào 30 µm cho tới 60 µm (hình 2). Kích thước các<br /> trong 2 phôi đầu tiên không thể bám vào lớp quần thể tế bào gốc phôi ở lần cấy chuyền thứ<br /> nuôi dưỡng và bị thoái hóa sau 1 tuần nuôi cấy. nhất này không đồng đều. Điều đó chứng tỏ số<br /> Chỉ có 1 quần thể tế bào từ phôi thứ ba bám lượng tế bào gốc phôi trong mỗi quần thể khác<br /> được vào lớp tế bào nuôi dưỡng và phát triển nhau, do đó, khả năng tăng sinh của các tế bào<br /> thành quần thể tế bào gốc phôi bò sau 3 tuần gốc phôi bò trong quần thể tế bào nuôi cấy sơ<br /> nuôi cấy. Quần thể tế bào gốc phôi bò này có cấp khác nhau.<br /> đường bao quanh rõ nhưng hình thái quần thể<br /> hơi gồ ghề, không trơn nhẵn như quần thể tế Các quần thể này tiếp túc tăng sinh và phát<br /> bào gốc phôi chuột. Sau 3 tuần nuôi cấy, quần triển sau 96 giờ nuôi cấy. Kích thước của các<br /> thể tế bào gốc phôi bò này được thu nhận và các quần thể tế bào gốc phôi bò tiếp tục tăng. Kích<br /> tế bào được tách rời thành tế bào đơn cho cấy thước các quần thể dao động từ 50 µm cho tới<br /> chuyền. Các tế bào này được chuyển lên lớp tế 100 µm. Kết quả này cho thấy, các tế bào gốc<br /> bào nuôi dưỡng mới để nuôi cấy. Quá trình này phôi trong các quần thể tế bào gốc phôi ở lần<br /> được thực hiện để đánh giá khả năng tăng sinh cấy chuyền thứ nhất vẫn còn khả năng tăng sinh<br /> của quần thể tế bào gốc phôi bò. mạnh.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Hình 2. Sự phát triển của các quẩn thể tế bào gốc phôi bò trên lớp tế bào nuôi dưỡng ở lần cấy<br /> chuyển thứ nhất sau 48 giờ nuôi cấy. Thang chia độ 100 µm.<br /> <br /> 280<br /> TẠP CHÍ SINH HỌC, 2012, 34(3SE): 277-284<br /> <br /> Sau 1 tuần nuôi cấy, các quần thể 1, 2, 3, 5 duy trì được hình thái giống quần thể tế bào gốc<br /> của lần cấy chuyền thứ nhất bị thoái hoá. phôi.<br /> Hình thái của các quần thể này chuyển từ dạng Quần thể số 4 được sử dụng cho cấy chuyền<br /> ụ (hill) sang dạng phẳng (flat), điều đó chứng tỏ và quần thể số 6 được sử dụng cho thử nghiệm<br /> các tế bào trong các quần thể này đã biệt hóa. khả năng biệt hoá của tế bào gốc phôi bò.<br /> Chỉ còn lại quần thể số 4 và quần thể số 6<br /> <br /> Bảng 2. Khả năng tăng sinh của tế bào gốc phôi bò<br /> Số phôi sử dụng nuôi Số phôi Số quần thể cấy Số quần thể cấy<br /> Giai đoạn phôi<br /> cấy tế bào gốc bám chuyền lần 1 chuyền lần 2<br /> Phôi dâu 9 0 0 0<br /> Phôi nang 3 1 6 5<br /> <br /> Tế bào gốc phôi bò của quần thể thứ 4 được hơn. Tuy nhiên, về mặt hình thái, các quần thể<br /> thu nhận và cấy chuyền qua đĩa mới chứa lớp tế tế bào gốc ở lần cấy chuyền thứ hai này<br /> bào nuôi dưỡng bị bất hoạt mitomycin C. không đồng đều như các quần thể ở lần cấy<br /> Tế bào gốc phôi ở lần cấy chuyền thứ hai này chuyền thứ nhất. Tuy vẫn có đường bao quanh<br /> cũng được nuôi cấy và tăng sinh trên lớp tế bào rõ, nhưng hình thái của các quần thể tế bào gốc<br /> nuôi dưỡng được bất hoạt bởi mitomycin C và ở lần cấy chuyền thứ hai này gồ ghề hơn nhiều<br /> môi trường chứa 1.000 IU/ml LIF. Sau 96 giờ và nhiều quần thể có hình thái biến dạng<br /> nuôi cấy, năm quần thể tế bào gốc phôi bò ở lần không còn tròn đều. Quần thể tế bào gốc số 2 và<br /> cấy chuyền thứ hai này hình thành và phát triển. số 5 ở lần cấy chuyền thứ 2 này có bề mặt gồ<br /> Kích thước của các quần thể này dao động từ ghề nhất, điều đó cho thấy các tế bào gốc trên<br /> 70 µm cho tới 140 µm (hình 3). Nếu so với các bề mặt cũng như tế bào xung quanh của quần<br /> quần thể tế bào gốc phôi bò ở lần cấy chuyền thể này đã bắt đầu biệt hóa và không còn giữ<br /> thứ nhất, các quần thể tế bào gốc phôi bò ở được đặc tính tăng sinh mạnh của tế bào gốc<br /> lần cấy chuyền thứ hai này có kích thước lớn phôi nữa.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Hình 3. Sự phát triển của các quần thể tế bào gốc phôi bò trên lớp tế bào nuôi dưỡng ở lần cấy<br /> chuyền thứ hai sau 96 giờ nuôi cấy. Thang chia độ 100 µm.<br /> <br /> Cả năm quần thể tế bào gốc phôi bò ở lần thương mại hóa. Do đó, hầu hết các nhà nghiên<br /> cấy chuyền thứ 2 đều bị thoái hóa sau 1 tuần cứu sử dụng LIF người (hLIF) để bổ sung vào<br /> nuôi cấy. Môi trường được sử dụng cho nuôi môi trường nuôi cấy cho phôi bò và các quần<br /> cấy các quần thể tế bào gốc nói trên là môi thể tế bào gốc phôi bò vì chúng có trình tự<br /> trường nuôi cấy tế bào gốc phôi chuột chứa tương đồng cao với trình tự LIF người. Mặc dù<br /> 1.000 IU/ml LIF. Ở bò, LIF được dòng hóa và vậy, việc sử dụng LIF người có thể ảnh hưởng<br /> sử dụng trong nuôi cấy, tuy nhiên, nó chưa được lớn tới quá trình nuôi cấy tế bào gốc phôi bò đặc<br /> <br /> <br /> 281<br /> Le Thanh Long, Doan Thi Hong Hanh, Nguyen Thi Hong Van, Hoang Nghia Son<br /> <br /> biệt là việc duy trì khả năng tự làm mới cũng cần thiết cho việc duy trì khả năng tự làm mới,<br /> như tính đa tiềm năng của các quần thể tế bào nó còn cần thiết cho sự biểu hiện của các<br /> gốc phôi bò. marker đa tiềm năng ở tế bào gốc phôi bò<br /> Những nghiên cứu trước đây cho thấy rằng, (Oct4, Nanog, SSEA1) cũng như duy trì đặc<br /> việc thiết lập tế bào gốc phôi bò có thể được điểm hình thái đặc trưng của quần thể tế bào<br /> thực hiện bằng môi trường nuôi cấy không chứa gốc phôi [15].<br /> LIF [8]. Hơn nữa, trong quá trình nuôi cấy phôi Các nghiên cứu về ảnh hưởng của LIF lên<br /> bò, hLIF không làm gia tăng [16] hay giảm quá trình nuôi cấy tế bào gốc phôi bò cho thấy,<br /> cũng như không có tác động lên ICM trong phôi cần phải có những sự khảo sát kĩ hơn về tác<br /> nang của bò [10]. Việc tăng sinh các quần thể tế động của LIF lên sự tăng sinh của các tế bào<br /> bào từ phôi bào không phụ thuộc vào việc bổ gốc phôi bò. Đặc biệt là nồng độ LIF cần cho<br /> sung LIF [20]. Dựa vào các kết quả trên, LIF nuôi cấy tế bào gốc phôi bò vì LIF ảnh hưởng<br /> dường như không đóng vai trò quan trọng trong trực tiếp đến sự tăng sinh và khả năng tự làm<br /> việc duy trì tính đa tiềm năng của tế bào gốc mới của tế bào gốc phôi bò, mà hình thái của<br /> phôi bò. các quần thể tế bào gốc phôi bò là đặc điểm đầu<br /> Tuy nhiều nghiên cứu khác lại cho rằng LIF tiên để đánh giá.<br /> cần thiết cho quá trình tăng sinh và duy trì tính Thử nghiệm khả năng biệt hóa in vitro<br /> đa tiềm năng của tế bào gốc phôi bò [11], không Tế bào gốc phôi có khả năng biệt hoá thành<br /> những vậy, LIF còn cần cho quá trình nuôi cấy nhiều loại tế bào khác nhau trong ba lớp mầm<br /> tế bào gốc phôi bò được phân lập từ phôi thụ phôi, bao gồm nội phôi bì, trung phôi bì và<br /> tinh trong ống nghiệm, phôi nhân bản vô tính ngoại phôi bì. Khả năng biệt hóa này đều diễn<br /> hay phôi trinh sản [7]. LIF không chỉ ra trong điều kiện in vitro và in vivo [19, 5, 14].<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Hình 4. Sự hình thành thể phôi. Các tế bào gốc phôi được tách rời và nuôi cấy<br /> trên đĩa petri chứa môi trường không chứa LIF. Hai thể phôi xuất hiện sau 2 tuần nuôi cấy.<br /> Các thể phôi có cấu trúc hình cầu (mũi tên trắng).<br /> <br /> Quần thể tế bào gốc thứ 6 ở lần cấy chuyền kích thước khác nhau điều đó chứng tỏ sự tăng<br /> thứ nhất được thu nhận và tách thành tế bào đơn sinh cũng như khả năng biệt hoá của tế bào gốc<br /> trong đĩa 96 giếng chứa Trypsin-EDTA 0,25%. phôi bò từ quần thể thu nhận là không đồng<br /> Sau đó, tế bào được chuyển qua các đĩa petri nhất. Điều đó chứng tỏ, các tế bào trong quần<br /> chứa môi trường nuôi tế bào gốc phôi bò nhưng thể được thu nhận có tính đa tiềm năng thông<br /> không chứa nhân tố ức bạch cầu (LIF). Sau hai qua việc biệt hóa thành các thể phôi trong điều<br /> tuần nuôi cấy, các thể phôi hình thành. Các thể kiện nuôi cấy in vitro.<br /> phôi này có cấu trúc hình cầu, và được hình<br /> KẾT LUẬN<br /> thành do sự tăng sinh và biệt hoá từ các tế bào<br /> gốc phôi bò. Tuy nhiên, các thể phôi này có Bước đầu chúng tôi đã phân lập và nuôi cấy<br /> <br /> <br /> 282<br /> TẠP CHÍ SINH HỌC, 2012, 34(3SE): 277-284<br /> <br /> thành công quần thể tế bào gốc phôi bò. Các Cell Line Derived from Precompacting<br /> quần thể này biểu hiện một số đặc điểm của Embryos. Cloning, 3: 59-67.<br /> quần thể tế bào gốc phôi và khả năng tăng sinh 9. Munoz M., A. Rodriguez, C. De Frutos, J.<br /> qua các lần cấy chuyền. N. Caamano, C. Diez, N. Facal, E. Gomez,<br /> Lời cảm ơn: Chúng tôi chân thành cảm ơn Sở 2008. Convetional pluripotence markers are<br /> Khoa học Công nghệ thành phố Hồ Chí Minh unspecific for bovine embryonic derived<br /> đã hỗ trợ kinh phí cho chúng tôi thực hiện đề tài cell-lines. Theriogenology, 69: 1159-1164.<br /> này. 10. Rodrigues J. L., Oliveira A. T., Lopes R.<br /> F., 2006. Gene expression and<br /> TÀI LIỆU THAM KHÀO<br /> developmental competence of<br /> 1. Byrne J. A., S. M. Mitalipov and D. P. bovine embryos produced in vitro with<br /> Wofl, 2006. Current progress with primate different serum concentrations. Reprod.<br /> Embryonic stem cell. Curr. Stem. Cell. Res. Domest. Anim., 41(2): 129-136.<br /> Ther., 1: 127-138. 11. Saito S., Sawai K., Ugai H, Moriyasu S.,<br /> 2. Cibelli J. B., S.L. Stice, P.J. Golueke, J. J. Minamihashi A., Yamamoto Y., Hirayama<br /> Kane and J. Jerry, 1998. Transgenic bovine H., Kageyama S., Pan J., Murata T.,<br /> chimeric offspring produced from somatic Kobayashi Y., Obata Y., Yokoyama K. K.,<br /> cell-derived stemlike cells. Nat. Biotechnol., 2003. Generation of cloned calves and<br /> 16: 642-646. transgenic chimeric embryos from bovine<br /> 3. Delhaise F., V. Bralion, N. Schuurbiers and embryonic stem-like cells. Biochemical and<br /> F. Dessy, 1996. Establishment of an Biophysical Research Communications,<br /> embryonic stem cell line from 8-cell stage 309: 104-113.<br /> mouse embryos. Eur. J. Morphol., 34: 237- 12. Savatier P., S. Huang, L. Szekely, K. G.<br /> 243. Wiman, J. Samarut, 1994. Constracting<br /> 4. Eistetter H. R., 1988. A mouse pluripotent patterns of retinoblastoma protein<br /> embryonal stem cell line stage-specifically expression in mouse embryonic stem cells<br /> regulates expression of homeo-box and embryonic fibroblasts. Oncogene, 9:<br /> containing DNA sequences during 809-818.<br /> differentiation in vitro. Eur. J. Cell. Biol., 13. Sayaka W., Takafusa H., Rinako S., Yuko<br /> 45: 315-321. S., Hong-Thuy Bui, Eiji M. and Teruhiko<br /> W., 2007. Efficient Establishment of Mouse<br /> 5. Evans M., Kaufman M. H., 1981.<br /> Embryonic Stem Cell Lines from Single<br /> Establishment in culture of pluripotential<br /> Blastomeres and Polar Bodies. Stem Cells,<br /> cells from mouse embryos. Nature, 292:<br /> 25: 986-993.<br /> 154-156.<br /> 14. Shamblott M. J., Axelman J., Wang S.,<br /> 6. Gjorret J. O. and P. Maddox-Hyttel, 2005. Bugg E. M., Littlefield J. W., Donovan P. J.,<br /> Attemps towards derivation and Blumenthal P. D., Huggins G. R., Gearhart<br /> establishment of bovine embryonic stem J. D., 1998. Derivation of pluripotent stem<br /> cell-like cultures. Reprod. Fertil. Dev., 17: cells from cultured human primordial germ<br /> 113-124. cells. Proc. Natl. Acad. Sci. USA, 95:13726-<br /> 7. Wang Li, Duan Enkui, Sung Li-ying, Jeong 13731.<br /> Byeong-Seon, Yang Xiangzhong, X. Cindy 15. Shanbo Cao, Fang Wang, Zhisheng Chen,<br /> Tian, 2005. Generation and Characterization Zhong Liu, Cheng Mei, Haojia Wu, Junjiu<br /> of Pluripotent Stem Cells from Cloned Huang, Chao Li, Lingjun Zhou, Lin Liu,<br /> Bovine Embryos. Biology of Reproduction, 2009. Isolation and Culture of Primary<br /> 73: 149-155. Bovine Embryonic Stem Cell Colonies by a<br /> 8. Mitalipova M., Beyhan Z., First N. L., Novel Method. Journal of Experimental<br /> 2001. Pluripotency of Bovine Embryonic Zoology, 311A: 368-376.<br /> <br /> 283<br /> Le Thanh Long, Doan Thi Hong Hanh, Nguyen Thi Hong Van, Hoang Nghia Son<br /> <br /> 16. Sirisathien S., Brackett B. G., 2003. 19. Thomson J. A., Itskovitz-Eldor J., Shapiro<br /> Influence of postmortem delay in aspiration S. S., Waknitz M. A., Swiergiel J. J.,<br /> of oocytes on production of bovine Marshall V. S., Jones J. M., 1998.<br /> blastocysts in vitro. Vet. Rec., 153(11): 334- Embryonic stem cell lines derived from<br /> 335. human blastocysts. Science, 282: 1145-<br /> 17. Stice S. L., N. Strelchenko, C. L. Keefer, L. 1147.<br /> Matthews, 1996. Pluripotent bovine 20. Vejlsted M., Du Y., Vajta G., Maddox-<br /> embryonic stem cell lines direct embryonic Hyttel P., 2006. Post-hatching development<br /> developmet following nuclear transfer. Biol. of the porcine and bovine embryo defining<br /> Reprod., 54: 100-110. criteria for expected development in<br /> 18. Strelchenko N., 1996. Bovine pluripotent vivo and in vitro. Theriogenology, 65(1):<br /> stem cells. Theriogenology, 45: 131-140. 153-165.<br /> <br /> <br /> ISOLATION AND CULTURE OF BOVINE EMBRYONIC STEM-LIKE CELLS<br /> USING WHOLE ZONA-FREE EMBRYO CULTRUE<br /> <br /> Le Thanh Long, Doan Thi Hong Hanh, Nguyen Thi Hong Van, Hoang Nghia Son<br /> Institute of Tropical Biology, VAST<br /> <br /> SUMMARY<br /> <br /> <br /> Zona membranes of bovine embryos were dissolved using 5 mg/ml pronase to collect zona-free embryos.<br /> Whole embryo culture was applied for bovine embryonic stem cell establishment. Bovine embryonic stem<br /> cells were isolated and cultured from bovine morula stage embryos and blastocyst stage embryos. Nine<br /> morula stage embryos were cultured on mouse embryonic fibroblast inactivated by 10 µg/ml mitomycin C.<br /> However, there was no attachment or proliferation of morula blastomere on the feeder cell layer. Whole<br /> blastocyst stage embryo culture were also used to establish embryonic stem cells. One blastocyst stage<br /> embryo attached to feeder cell layer and proliferated to embryonic stem-like cell colony in three weeks. The<br /> primary bovine embryonic-like colony were collected and passaged to passage one. Six embryonic-like<br /> colonies were formed on feeder layer in passage one. The colonies’ diameter of passage one is from 50µm to<br /> 100 µm. Four colonies were degenerated. Colony 4 and 6 proliferated continuously in one week. Colony 4<br /> was picked up and passaged to passage 2. Five embryonic-like colonies were formed on the feeder layer in<br /> passage two. The colonies’ diameter of passage two was from 70 µm to 140 µm. However, all embryonic-like<br /> colonies of passage two degenerated in one week. These colonies of passage one and two had embryonic-like<br /> morphology, and were surrounded by clear boundaries. This characteristic is very important to distinguish<br /> embryonic-like colonies from feeder cell cluster. Colony 6 of passage one was treated to Trysin-EDTA and<br /> culture in petri dish with embryonic stem cell medium without leukemia inhibitory factor. Some embryoid<br /> bodies were formed in two weeks. This result supported the pluripotent property of these embryonic stem-like<br /> cells.<br /> Keywords: bovine embryo, embryonic-like colony, embryonic stem cells, pluripotency, whole emrbyo<br /> culture.<br /> <br /> Ngày nhận bài: 21-6-2012.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 284<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0