Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản - số 01/2008<br />
<br />
Trường Đại học Nha Trang<br />
<br />
VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU<br />
<br />
NGHIÊN CỨU TINH SẠCH CHITOSAN TỪ PHẾ LIỆU TÔM<br />
TS. Trang Sĩ Trung<br />
Khoa Chế biến - Trường Đại học Nha Trang<br />
Tinh sạch chitosan được chiết xuất từ phế liệu tôm bằng phương pháp hoà tan và kết tủa lại trong<br />
các dung môi khác nhau. Chitosan được hoà tan vào trong một số dung môi hữu cơ thông dụng (acid<br />
formic, acid acetic, acid propionic và acid ascorbic) ở nhiệt độ và thời gian nhất định với khuấy đảo,<br />
sau đó thực hiện quá trình lọc, loại bỏ phần không tan và tạp chất và kết tủa lại bằng 1N NaOH và tiến<br />
hành quá trình rửa tinh sạch mẫu bằng nước khử ion và cồn. Chitosan sau khi tinh sạch có hàm lượng<br />
khoáng, protein, độ đục thấp, độ tan cao, và độ deacetyl không đổi so với mẫu chitosan ban đầu. Kết<br />
quả cho thấy, phương pháp hoà tan và kết tủa lại, đặc biệt với acid acetic là một phương pháp đơn<br />
giản và hiệu quả để tinh sạch chitosan từ phế liệu tôm.<br />
Key words: Chitosan, tinh sạch, hoà tan và kết tủa lại, dung môi.<br />
I. GIỚI THIỆU<br />
Chitosan là một polyme sinh học được<br />
<br />
deacetyl bằng NaOH đặc (No và Meyer, 1997).<br />
Tuy nhiên, các quá trình này thường không<br />
<br />
ứng dụng rộng rãi trong nhiều ngành công<br />
nghiệp như thực phẩm, nông nghiệp, môi<br />
<br />
loại bỏ tuyệt đối được lượng protein và khoáng<br />
dù có tăng nồng độ và thời gian xử lý. Mặt<br />
<br />
trường, y học và mỹ phẩm (Hirano, 1996).<br />
<br />
khác, việc tinh chế chitosan bằng một số<br />
<br />
Hiện nay, chitosan được sản xuất từ nhiều<br />
nguồn nguyên liệu khác nhau (tôm, cua, mực,<br />
<br />
phương pháp hiện đại như sử dụng sắc ký<br />
điều chế, dùng siêu lọc thường rất tốn kém,<br />
<br />
vi nấm và vi khuẩn), trong đó nhiều nhất là từ<br />
nguồn phế liệu tôm. Tuy nhiên, nguồn phế liệu<br />
<br />
đòi hỏi đầu tư lớn, rất khó thực hiện ở qui mô<br />
lớn. Do đó, việc nghiên cứu tìm ra một<br />
<br />
tôm thường chứa một lượng lớn protein,<br />
khoáng và chất màu nên chitosan từ phế liệu<br />
<br />
phương pháp tinh sạch chitosan đơn giản, có<br />
hiệu quả, có thể ứng dụng ở qui mô công<br />
<br />
tôm dù đã qua công đoạn khử khoáng và khử<br />
<br />
nghiệp là rất cần thiết, góp phần nâng cao chất<br />
<br />
protein vẫn còn chứa một lượng protein và<br />
khoáng đáng kể cũng như chất màu. Ngoài ra,<br />
<br />
lượng chitosan từ phế liệu tôm. Vì vậy, trong<br />
bài báo này, chúng tôi xin trình bày kết quả<br />
<br />
độ tan của chitosan từ tôm cũng thường không<br />
đạt được trên 99%, vì còn một phần chất<br />
<br />
nghiên cứu khả năng ứng dụng phương pháp<br />
hoà tan trong dung môi và kết tủa lại để tinh<br />
<br />
không tan chủ yếu là chitin do quá trình<br />
deacetyl không đạt độ đồng nhất cao. Việc<br />
<br />
sạch chitosan và đánh giá ảnh hưởng của<br />
phương pháp này đối với chất lượng chitosan<br />
<br />
nâng cao độ tinh khiết của chitosan chiết rút từ<br />
<br />
sau tinh sạch.<br />
<br />
phế liệu tôm sẽ cho phép mở rộng ứng dụng<br />
của polyme này vào những lĩnh vực mới như y<br />
<br />
II. NGUYÊN LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP<br />
<br />
học và công nghệ sinh học với những đòi hỏi<br />
về tiêu chuẩn chất lượng rất cao (Knapczyk và<br />
cộng sự, 1989). Các qui trình sản xuất<br />
chitosan từ phế liệu tôm hiện nay thường bắt<br />
đầu bằng bước sản xuất chitin với việc sử<br />
dụng NaOH và HCl với nồng độ cao để loại bỏ<br />
protein và khoáng, tiếp theo là quá trình<br />
<br />
14<br />
<br />
NGHIÊN CỨU<br />
1. Nguyên liệu<br />
<br />
- Chitosan được chiết rút từ phế liệu tôm<br />
được thu nhận từ một số Nhà máy chế biến<br />
thủy sản tại Khánh Hoà. Cụ thể: chitin được<br />
sản xuất theo qui trình kết hợp ứng dụng<br />
enzyme Flavourzyme để khử protein. Phế liệu<br />
tôm được xay nhỏ đến kích cỡ 0,5-0,6 cm sau<br />
<br />
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản - số 01/2008<br />
<br />
Trường Đại học Nha Trang<br />
<br />
đó được đưa đi khử protein bằng enzyme<br />
<br />
Cơ sở lý thuyết của phương pháp là trong<br />
<br />
protease Flavourzyme ở điều kiện nhiệt độ<br />
0<br />
50 C, pH 6,5, tỷ lệ enzyme/nguyên liệu 0,1%<br />
<br />
sản phẩm chitosan còn lại một lượng nhỏ muối<br />
CaCO3 và protein. Ngoài ra, chitosan cũng<br />
<br />
và thời gian thuỷ phân là 6h. Tiếp theo, mẫu<br />
được đưa đi xử lý tách lượng protein còn lại<br />
<br />
chứa một phần nhất định chitin chưa được<br />
deacetyl đúng mức. Bên cạnh đó, bụi bẩn, cát<br />
<br />
bằng NaOH loãng (nồng độ 2%, thời gian 12h,<br />
<br />
có thể nhiễm vào trong quá trình sản xuất. Vì<br />
<br />
nhiệt độ phòng) và tiếp tục khử khoáng bằng<br />
HCl (nồng độ 4%, thời gian 6h, nhiệt độ<br />
<br />
vậy, khi hòa tan vào các dung môi hữu cơ thì<br />
chitosan sẽ hòa tan, đồng thời phần muối<br />
<br />
phòng), rửa trung tính, sấy thu được chitin.<br />
Chitosan thu nhận được từ quá trình deacetyl<br />
<br />
CaCO3 sẽ tương tác với acid hữu cơ tạo thành<br />
các muối tan tương ứng, ví dụ đối với dung<br />
<br />
o<br />
<br />
hoá trong xút đặc (50%), ở 65 C, thời gian<br />
24h.<br />
<br />
môi là acid acetic sẽ tạo thành muối acetat<br />
canxi tan. Đồng thời, protein cũng được tách<br />
<br />
- Các hoá chất sử dụng (acid formic, acid<br />
<br />
ra khỏi phân tử chitosan đi vào trong dung môi.<br />
<br />
acetic, acid propionic, acid ascorbic, NaOH và<br />
các hóa chất khác đều thuộc loại tinh khiết<br />
<br />
Khi kết tủa lại bằng cách điều chỉnh pH về pH<br />
kiềm (8-10) thì chitosan sẽ kết tủa lại, còn các<br />
<br />
phân tích (PA).<br />
2. Quá trình tinh sạch bằng cách hoà tan và<br />
<br />
muối và protein chủ yếu vẫn ở trong dung dịch<br />
do nồng độ thấp, độ pha loãng cao. Chitosan<br />
<br />
kết tủa bằng các dung môi khác nhau<br />
Chitosan được nghiền nhỏ đến kích<br />
<br />
sau khi kết tủa được lọc hoặc ly tâm để thu lại<br />
và dịch lọc được loại bỏ cùng tạp chất. Sau đó,<br />
<br />
thước khoảng