intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Nghiên cứu ứng xử chịu uốn của dầm sandwich sử dụng bê tông nhẹ và bê tông cốt lưới dệt

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:10

38
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Kết cấu sandwich là kết cấu có sự kết hợp của hai hay một số dạng vật liệu có những đặc điểm chịu lực khác nhau, đôi khi là trái ngược nhau, thành một hệ thống có khả năng chịu lực tối ưu. Bài viết này trình bày một số kết quả nghiên cứu xác định ứng xử chịu uốn của kết cấu sandwich sử dụng bê tông cốt lưới dệt và bê tông nhẹ.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Nghiên cứu ứng xử chịu uốn của dầm sandwich sử dụng bê tông nhẹ và bê tông cốt lưới dệt

  1. Hội nghị Khoa học công nghệ lần thứ XXII Trường Đại học Giao thông vận tải NGHIÊN CỨU ỨNG XỬ CHỊU UỐN CỦA DẦM SANDWICH SỬ DỤNG BÊ TÔNG NHẸ VÀ BÊ TÔNG CỐT LƯỚI DỆT Vũ Văn Hiệp1*, Nguyễn Thị Tuyết Trinh1, Phạm Thị Thanh Thủy1, Vũ Trọng Tiến2 1 Trường Đại học Giao thông Vận tải, Số 3 Cầu Giấy, Hà Nội * Tác giả liên hệ: Email: hiepvv@utc.edu.vn 2 Trường Cao đẳng Xây dựng thành phố Hồ Chí Minh Tóm tắt. Kết cấu sandwich là kết cấu có sự kết hợp của hai hay một số dạng vật liệu có những đặc điểm chịu lực khác nhau, đôi khi là trái ngược nhau, thành một hệ thống có khả năng chịu lực tối ưu. Trong khi, việc sử dụng các vật liệu riêng lại không mang lại tính năng khai thác cao. Kết cấu sandwich cơ bản có mặt cắt ngang gồm ba lớp: hai lớp vỏ mỏng có cường độ cao, đóng vai trò chịu lực chính, chúng được đặt cách xa nhau và liên kết với nhau bằng một lớp lõi có cường độ không cao và trọng lượng nhẹ, đóng vai trò giữ ổn định cho các lớp vỏ. Với những đặc tính vượt trội, sự kết hợp giữa bê tông cốt lưới dệt (Textile Reinforced Concrete, TRC) và bê tông nhẹ trong kết cấu sandwich sẽ trở thành một hướng phát triển mới có khả năng áp dụng cao trong công trình xây dựng dân dụng [1], [2]. Bài báo này trình bày một số kết quả nghiên cứu xác định ứng xử chịu uốn của kết cấu sandwich sử dụng bê tông cốt lưới dệt và bê tông nhẹ. Từ khóa: Dầm sandwich, bê tông cốt lưới dệt, TRC... 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Hiện nay, trên thế giới cũng như ở Việt Nam, các vấn đề về môi trường đã thúc đẩy cách tiếp cận phát triển bền vững vào trong ngành xây dựng nói chung. Những vật liệu truyền thống như bê tông, thép mặc dù đang được sử dụng rất có hiệu quả trong các kết cấu nhưng chúng vẫn tồn tại những hạn chế như trọng lượng lớn, khả năng chịu lực khai thác chưa cao và dễ bị xâm thực bởi môi trường. Do đó, một trong các hướng nghiên cứu mới đảm bảo phát triển bền vững là tìm ra các loại cốt chịu lực phi kim loại có cường độ cao và đặc biệt không bị ăn mòn có khả năng thay thế cho cốt thép. Nhiều loại vật liệu mới đã được nghiên cứu và chế tạo thành công, trong đó có bê tông cốt lưới dệt (TRC – Textile Reinforced Concrete) là một loại bê tông xi măng chất lượng cao sử dụng cốt là lưới được dệt từ sợi carbon, sợi thuỷ tinh theo các cấu trúc đặc biệt. Do cốt lưới dệt được xem là loại vật liệu bền vững với môi trường xâm thực nên chỉ cần một lớp bê tông bảo vệ rất mỏng, vì vậy cho phép tạo ra các kết cấu có ưu điểm vượt trội như khả năng chịu lực và độ bền cao nhưng trọng lượng lại thấp. -1-
  2. Hội nghị Khoa học công nghệ lần thứ XXII Trường Đại học Giao thông vận tải Bê tông cốt lưới dệt là một vật liệu mới trong lĩnh vực kết cấu bê tông, được phát triển đầu tiên tại Đức bởi hai trung tâm nghiên cứu tại trường Đại học Kỹ thuật RWTH Aachen và trường Đại học Kỹ thuật Tổng hợp Dresden từ những năm 1990 [3] [4]. Các nghiên cứu ban đầu đã cho thấy TRC đặc biệt phù hợp các công trình yêu cầu về khả năng chống ăn mòn cao, hoặc sử dụng trong môi trường khắc nghiệt [3]. Bên cạnh đó, TRC cũng được xem là loại vật liệu phù hợp với các kết cấu nhẹ, bằng cách sử dụng TRC làm lớp vỏ chịu lực chính kết hợp với các vật liệu lõi truyền thống để tạo ra kết cấu sandwich có khả năng chịu tải và vượt nhịp lớn. Các lớp lõi của kết cấu sandwich được đề xuất sử dụng bê tông nhẹ có độ cứng tương đối lớn trong khi trọng lượng nhẹ sẽ làm giảm đáng kể trọng lượng bản thân của kết cấu mà vẫn đảm bảo tính ổn định cho lớp vỏ. Ở Việt Nam, kết cấu sandwich sử dụng TRC và bê tông nhẹ là một dạng kết cấu mới đang bước đầu được nghiên cứu. Để đánh giá được các tính năng cũng như khả năng khai thác của dạng kết cấu này đòi hỏi phải có nhiều nghiên cứu về quá trình thiết kế, chế tạo và ứng dụng trong công trình xây dựng dân dụng nói chung. Bài báo này trình bày kết quả nghiên cứu uốn bốn điểm với các dầm sandwich để đánh giá ứng xử chịu uốn của dạng dầm sandwich này. 2. NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM ỨNG XỬ CHỊU UỐN CỦA DẦM SANDWICH 2.1. Vật liệu Bê tông hạt mịn Bê tông hạt mịn sử dụng trong nghiên cứu được chế tạo từ hỗn hợp xi măng, cát quartz, bột quartz, muội silic, tro bay, phụ gia siêu dẻo và nước. Cốt liệu lớn được dùng là cát quartz có cỡ hạt lớn nhất là 0,6 mm. Điều này không chỉ đảm bảo khả năng dính bám tốt với lưới sợi dệt mà còn có thể tạo ra các lớp bê tông có kích thước nhỏ và chiều dày mỏng. Việc xác định các đặc trưng cơ học của bê tông hạt mịn được thực hiện theo tiêu chuẩn DIN EN 1015-11:2007-05 và tiêu chuẩn ASTM C469. Qua thực nghiệm, đánh giá kết quả dựa trên các chỉ dẫn của các tài liệu ACI 363R-10, các thông số cơ học của bê tông hạt mịn thu được như sau: cường độ chịu nén đặc trưng f’c = 64 MPa, cường độ chịu kéo khi uốn đặc trưng fr = 4,15MPa, mô đun đàn hồi Ec = 32 GPa. Lưới sợi dệt Lưới sợi dệt loại các bon sử dụng trong nghiên cứu này được sản xuất bởi hãng V.FRAAS (Đức), có mã SITgrid004KB, với kích thước mỗi tấm là 2 m × 1,25 m. -2-
  3. Hội nghị Khoa học công nghệ lần thứ XXII Trường Đại học Giao thông vận tải Lưới sợi có trọng lượng riêng là 1,82 g/cm3 , độ mịn 1600tex (1 tex = 1g / 1000 m). Các bó sợi được phủ lớp bọc polymer có nguồn gốc từ styrene butadine với hàm lượng phủ 15%. Cấu trúc lưới được dệt với các bó sợi theo phương 0°/90°, có kích thước hình học như trên Hình 1. Hình 1. Kích thước lưới sợi carbon Bê tông nhẹ Bê tông nhẹ sử dụng cốt liệu nhẹ keramzit có thành phần chủ yếu là sỏi keramzit, cát, xi măng, phụ gia siêu dẻo và nước. Bê tông nhẹ có khối lượng thể tích 1300 kg/m3. Các đặc trưng cơ học của bê tông nhẹ được thực hiện theo tiêu chuẩn ASTM C39-01 và tiêu chuẩn ASTM C496-04. Sau khi phân tích và đánh giá kết quả theo tiêu chuẩn ACI 318-14, thu được các thông số cơ học của bê tông nhẹ như sau: cường độ chịu nén đặc trưng f’c = 18,5 MPa, cường độ ép chẻ fsp = 1,35 MPa, mô đun đàn hồi Ec = 6,8 GPa. 2.2. Chế tạo mẫu thí nghiệm Trong nghiên cứu này, các dầm sandwich được ký hiệu là SW5 có 3 lớp vật liệu (Hình 2), gồm lớp vỏ chịu nén ở thớ trên bằng bê tông hạt mịn, kết hợp với lớp lõi bằng bê tông nhẹ và lớp vỏ chịu kéo thớ dưới bằng TRC sử dụng 3 lớp lưới sợi carbon. Với chuỗi thí nghiệm gồm 3 dầm sandwich có bề rộng dầm bằng 150 mm, chiều cao dầm bằng 100 mm được thí nghiệm uốn bốn điểm. Chiều dài dầm được chọn đảm bảo tỷ lệ chiều dài chịu cắt trên chiều cao dầm a / d = 4 , với mục tiêu dầm sẽ bị phá hoại do uốn khống chế. Hình 2. Cấu tạo dầm sandwich -3-
  4. Hội nghị Khoa học công nghệ lần thứ XXII Trường Đại học Giao thông vận tải Bảng 1. Kích thước chi tiết của các dầm sandwich (đơn vị: mm) Chiều cao tiết diện Chiều dài dầm Bề Bê Khoảng Khoảng Số rộng Tổng tông Bê Bê tông Tổng cách cách từ Đầu lớp Mẫu dầm chiều hạt tông cốt lưới chiều giữa 2 lực đến mút lưới cao nhẹ dệt dài thừa mịn lực gối đỡ b h tt tc tb L L2 a L1 n SW5 150 100 10 74 16 1600 500 400 150 3 2.3. Thiết lập thí nghiệm Các dầm được đặt vào hệ thống thiết bị thí nghiệm uốn bốn điểm, gia tải bằng kích thủy lực 1000 kN bằng phương pháp khống chế chuyển vị, với tốc độ 1 mm/phút tại phòng thí nghiệm Vật liệu và kết cấu xây dựng của trường Đại học Giao thông vận tải. Lực và độ võng giữa nhịp được đo bằng loadcell và LVDTs gắn ngoài Hình 3. Hình 3. Thiết lập thí nghiệm uốn 4 điểm với dầm sandwich Các lá điện trở đo biến dạng (strain gage) được gắn bề mặt bê tông tại một số vị trí như: đo biến dạng nén tại thớ trên (SG1), đo biến dạng kéo ở thớ dưới (SG2), đo biến dạng và kiểm tra có xuất hiện phá hoại trượt / bong tách tại các vị trí thay đổi vật liệu (SG3, SG4, SG5) trong quá trình thí nghiệm. 2.4. Kết quả thí nghiệm Sau khi thí nghiệm, kết quả đo thu được từ các thiết bị sẽ được phân tích. Mối quan hệ giữa lực tác dụng và độ võng giữa nhịp được biểu diễn trên Hình 4, cấu trúc vết nứt cũng như dạng phá hoại của các mẫu thí nghiệm được biểu diễn trên Hình 5. Giá trị lực lớn nhất của các dầm sandwich thí nghiệm được trình bày ở Bảng 2. -4-
  5. Hội nghị Khoa học công nghệ lần thứ XXII Trường Đại học Giao thông vận tải Hình 4. Quan hệ lực và độ võng giữa nhịp của các dầm sandwich SW5 Có thể thấy trên Hình 4, tất cả các dầm sandwich đều có chung dạng ứng xử chịu lực, gồm có 3 giai đoạn làm việc chính: Ở giai đoạn đầu tiên (giai đoạn I), cấu kiện chưa bị nứt, cấu kiện làm việc gần như đàn hồi tuyến tính. Do khả năng chịu kéo của bê tông là rất nhỏ nên, khi ứng suất kéo lớn hơn cường độ chịu kéo, vết nứt đầu tiên xuất hiện và lực kéo trong dầm tại vị trí vết nứt sẽ do cốt lưới dệt chịu. Quan sát trên mẫu thấy vết nứt đầu tiên xuất hiện khi lực nén đạt giá trị từ 7 đến 8 kN. Cùng với sự gia tăng của lực kéo, các vết nứt khác liên tục xuất hiện, độ cứng của kết cấu giảm mạnh (giai đoạn II). Sự phân bố vết nứt, bao gồm khoảng cách giữa các vết nứt và bề rộng vết nứt, được quyết định định bởi cốt lưới dệt, tính chất dính bám giữa cốt chịu lực và bê tông, và biến dạng phá hoại khi chịu kéo của bê tông nền. Đường cong lực và độ võng cho thấy, lực tác dụng chỉ tăng nhẹ từ 8 đến 12 kN trong giai đoạn hình thành nhiều vết nứt này. Trong giai đoạn vết nứt ổn định (giai đoạn III), hầu như không có vết nứt xuất hiện thêm. Khả năng chịu lực tăng nhanh cho đến khi ứng suất trong bó sợi đạt đến cường độ chịu kéo. Bảng 2. Lực lớn nhất của các dầm sandwich thí nghiệm (đơn vị kN) Lực gia tải khi phá Dầm SW Mẫu 1 Mẫu 2 Mẫu 3 hoại trung bình SW5 21,8 18,5 20,1 20,1 Dạng phá hoại cũng như cấu trúc vết nứt của các mẫu thí nghiệm được biểu diễn trên Hình 5. Các vết nứt thẳng góc xuất hiện đầu tiên ở phía dưới dầm, sau đó phát triển dần lên phía trên theo sự tăng của tải trọng tác dụng. Một trong số các vết nứt này sẽ phát triển nhanh về phía bê tông chịu nén và trở thành vết nứt chính gây phá hoại cho dầm. Tất cả các dầm đều xảy ra phá hoại do lưới sợi bị kéo đứt, trong khi bê tông -5-
  6. Hội nghị Khoa học công nghệ lần thứ XXII Trường Đại học Giao thông vận tải vùng nén không có dấu hiệu bị ép vỡ. Do đó, cấu kiện bị phá hoại theo mô hình phá hoại giòn, khi đạt đến biến dạng chịu kéo cực hạn của lưới sợi dệt. Hình 5. Cấu trúc vết nứt khi phá hoại của mẫu SW5-1 3. NGHIÊN CỨU MÔ PHỎNG Phương pháp có độ tin cậy cao và hay được sử dụng hiện nay để mô phỏng ứng xử của kết cấu là phương pháp phần tử hữu hạn với các phần mềm chuyên dụng. Trong khuôn khổ nội dung nghiên cứu này, phần mềm được sử dụng để mô phỏng ứng xử của kết cấu sandwich bằng bê tông hạt mịn và bê tông nhẹ là phần mềm ATENA của hãng Cervenka. Dầm SW5 được hiện nghiên cứu mô phỏng với các thông số giống với mẫu thí nghiệm. Do tính chất đối xứng về kết cấu và tải trọng nên chỉ một nửa dầm được thực hiện mô phỏng. Bê tông là vật liệu phức hợp có đặc tính chịu lực phức tạp. Để phản ánh chính xác sự làm việc của kết cấu, mô hình vật liệu bê tông cần phản ánh khả năng làm việc đàn dẻo khi chịu nén và nứt khi chịu kéo của nó. Trong phần mềm Atena, bê tông được mô tả bằng các mô hình phi tuyến. Phương trình mô tả quan hệ ứng suất – biến dạng của bê tông khi chịu nén được sử dụng là phương trình Thorenfeldt với cường độ chịu nén là fc¢ và sự làm việc của bê tông khi chịu kéo được mô hình hoá theo quy luật do Hordijk đề xuất với cường độ chịu kéo được xác định từ cường độ chịu nén. Hình 6 thể hiện các thông số cần khai báo tương ứng với bê tông hạt mịn có cường độ chịu nén fc¢= 64MPa và bê tông nhẹ có cường độ chịu nén fLc¢ = 18, 5MPa . Hình 6. Khai báo vật liệu bê tông trong phần mềm ATENA Lưới sợi dệt là loại vật liệu có tính chất đàn hồi – giòn. Ứng suất kéo tăng gần như tuyến tính, sau khi đạt ứng suất kéo cực đại, lưới sợi dệt bị phá hoại ngay lập tức. Hình 7 thể hiện các thuộc tính mối quan hệ ứng suất – biến dạng của lưới sợi dệt, không có -6-
  7. Hội nghị Khoa học công nghệ lần thứ XXII Trường Đại học Giao thông vận tải giai đoạn biến dạng dẻo trước khi bị phá hoại. Sau khi đạt đến cường độ chịu kéo, ứng suất giảm đột ngột về không, thể hiện sự phá hoại giòn của vật liệu này. Hình 7. Mô hình hoá lưới sợi dệt Để phản ánh chi tiết sự làm việc của các cấu kiện, phần lõi bê tông nhẹ được mô hình hoá bằng các phần tử khối (solid) bậc cao có dạng tứ diện hay lục diện. Phần bê tông các lớp vỏ được mô hình hóa bằng phần tử tấm vỏ (shell). Trong khi đó, cốt lưới dệt được mô hình hoá bằng phần tử cốt thép (reinforcement). Trong mô hình này, liên kết giữa các nút của phần tử bê tông và các nút cốt sợi dệt được tạo ra tự động Hình 8. Hình 8. Mô hình rời rạc hóa Để khảo sát ứng xử của kết cấu, lực gia tải theo phương đứng tác dụng tăng dần từ nhỏ đến khi kết cấu bị phá hoại. Phương pháp phân tích lặp được lựa chọn là phương pháp Newton-Raphson cải tiến. Các kết quả mô phỏng và kết quả thí nghiệm được thể hiện -7-
  8. Hội nghị Khoa học công nghệ lần thứ XXII Trường Đại học Giao thông vận tải trên cùng một biểu đồ để so sánh, kiểm chứng sự làm việc của kết cấu sandwich bằng TRC – LC. Trên Hình 9 thể hiện kết quả mô hình dầm dài SW5. Hình 9 cho thấy sự tương đồng giữa kết quả mô phỏng và thực nghiệm của dầm sandwich. Có thể thấy, ở thời điểm phá hoại, giá trị tải trọng giữa mô phỏng và thực nghiệm gần như bằng nhau, chuyển vị của các đường cong thực nghiệm và mô phỏng cũng khá phù hợp với nhau. Sai số của giá trị khả năng chịu lực giữa kết quả thực nghiệm và mô phỏng khá nhỏ. Sự khác biệt giữa kết quả mô phỏng và kết quả thí nghiệm là đường cong lực – chuyển vị của các dầm mô phỏng không thể hiện được các điểm suy giảm đột ngột, liên tục của lực tác dụng, do chưa xét đến ảnh hưởng của việc các vết nứt xuất hiện và mở rộng tới sức kháng của dầm. Ngoài ra, giá trị lực phá hoại mẫu trong thực nghiệm phân tán và sai khác với giá trị lực phá hoại trong mô hình mô phỏng, nguyên nhân do sự làm việc thực tế của cốt sợi dệt không đồng nhất. Hình 9. Quan hệ lực – chuyển vị tại giữa nhịp của dầm sandwich SW5 Quan sát cấu trúc vết nứt trên mô hình mô phỏng SW5 (Hình 10), các vết nứt đầu tiên là các vết nứt thẳng góc xuất hiện trên lớp TRC phía dưới ở giữa dầm. Khi tải trọng tăng, các vết nứt thẳng góc xuất hiện nhiều hơn, phân bố chủ yếu ở khu vực giữa dầm, chiều cao vết nứt phát triển dần lên phía trên dầm. Quá trình tăng tải trọng làm tăng số lượng và sự mở rộng vết nứt. Tại thời điểm phá hoại, vết nứt thẳng góc ở giữa dầm mở rộng và phát triển từ biên chịu kéo lên biên chịu nén của dầm. Đây là vết nứt chính gây phá hoại cho dầm. Có thể nhận thấy, sự phát triển vết nứt trên mô hình mô phỏng khá phù hợp với quá trình hình thành và phát triển vết nứt trên mô hình thực nghiệm. Dạng phá hoại của dầm SW5 là phá hoại do uốn. -8-
  9. Hội nghị Khoa học công nghệ lần thứ XXII Trường Đại học Giao thông vận tải Hình 10. Cấu trúc vết trên mô hình mô phỏng dầm SW5 Quan sát ứng suất trên mô hình tại thời điểm phá hoại trênHình 11. Ứng suất kéo lớn nhất trong cốt lưới dệt đạt 2692 MPa và ứng suất nén lớn nhất trong bê tông hạt mịn ở phía trên đạt 52 MPa. Như vậy, dầm sandwich bị phá hoại khi cốt lưới dệt bị đứt trước khi lớp bê tông hạt mịn vùng nén bị phá hoại. Mẫu bị phá hoại khi lực nén đạt giá trị 19,4 kN. Hình 11. Ứng suất trên mô hình SW5 tại thời điểm phá hoại 4. KẾT LUẬN Các kết quả nghiên cứu cho thấy, ứng xử của kết cấu sandwich trong các thí nghiệm chịu uốn bốn điểm khá tương đồng với ứng xử của kết cấu dầm bê tông cốt thép không có cốt đai. Các thí nghiệm dầm chịu uốn bị phá hoại khi cốt sợi bị đứt trước. Tất cả các mẫu thí nghiệm đều không xảy ra hiện tượng bong tách giữa các lớp vật liệu. Điều này chứng tỏ, khả năng dính bám giữa bê tông hạt mịn và bê tông nhẹ rất tốt, đảm bảo được sự làm việc đồng thời giữa các lớp vật liệu này trong kết cấu sandwich. -9-
  10. Hội nghị Khoa học công nghệ lần thứ XXII Trường Đại học Giao thông vận tải Các kết quả mô phỏng của kết cấu sandwich cho ứng xử tương đồng với kết quả thực nghiệm. Giá trị lực trong mô phỏng nhỏ hơn giá trị lực thí nghiệm nén trung bình khoảng 3,48%. Sự sai lệch kết quả giữa mô phỏng và thực nghiệm do nhiều nguyên nhân, đó là do sự sai khác về tính đồng nhất của vật liệu trong thực tế và trong mô phỏng, một số sai số trong quá trình thực nghiệm. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Ali Shams, Josef Hegger, Michael Horstmann: An analytical model for sandwich panels made of textile-reinforced concrete, Construction and Building Materials, Volume 64, P. 451-459, ISSN 0950-0618, 2014. [2]. Ali Shams, Michael Horstmann, Josef Hegger: Experimental investigations on Textile-Reinforced Concrete (TRC) sandwich sections, Composite Structures, Volume 118, P. 643-653, ISSN 0263-8223, 2014. [3]. Hegger, J., N. Will: Textile Reinforced Concrete - A new Composite Material. Advances in Construction Materials 2007, Springer Berlin Heidelberg, P. 147-156, 2007. [4]. Manfred Curbach, SFB 528: Textile Bewehrungen zur Bautechnischen Verstärkung und Instandsetzung, Arbeits- und Ergebnisbericht für die Periode II/1999 - I/2002, 2002. [5]. ACI: “ACI 549.4R-13: Guide to Design and Construction of Externally Bonded Fabric-Reinforced Cementitious Matrix (FRCM) Systems for Repair and Strengthening Concrete and Masonry Structures”, American Concrete Institute, 2013. [6]. ACI 440.2R-08: Guide for the Design and Construction of Externally Bonded FRP Systems for Strengthening Concrete Structures, American Concrete Institute, Farmington, 2008. [7]. Vu Van Hiep, Ngo Dang Quang, Nguyen Thi Tuyet Trinh, Nguyen Huy Cuong, experimental analysis of sandwich panels using textile reinforced concrete faces and light weight concrete core, Science Journal of Transportation, No. 08, 2017. -10-
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2