NGHIÊN CỨU VỀ BẢO VỆ DIỆN RỘNG<br />
ĐỖ ĐỨC TÔN<br />
Đại học Thủy lợi<br />
<br />
Tóm tắt: Các sự cố diện rộng trong hệ thống điện là một bài toán khó cho các công ty điện lực bới vì mức<br />
độ rộng lớn và độ phức tạp của hệ thống điện. Khi một sự cố lớn trong hệ thống điện xuất hiện, các tác<br />
động điều khiển cần phải ngăn chặn sự lan tràn, đưa hệ thống trở lại trạng thái bình thường và giảm<br />
thiểu các hậu quả của sự cố. Tuy nhiên, các hệ thống bảo vệ tại chỗ không thể bao quát toàn hệ thống, mà<br />
sự cố lại có thể ảnh hưởng đến toàn hệ thống. Bài báo này để cập đến các sự cố diện rộng và hệ thống<br />
bảo vệ diện rộng (WAPS).<br />
<br />
RESEARCH ON WIDE AREA PROTECTION<br />
<br />
Abstract: System-wide disturbances in power systems are a challenging problem for the utility industry<br />
because of the large scale and the complexity of the power system. When a major power system<br />
disturbance occurs, protection and control actions are required to stop the power system degradation,<br />
restore the system to a normal state, and minimize the impact of the disturbance. However, local<br />
protection systems are not able to consider the overall system, which may be affected by the disturbance.<br />
This paper refers to wide area disturbances and wide area protection system (WAPS).<br />
<br />
I. GIỚI THIỆU<br />
Có hai nguyên nhân chính gây ra tan ra hệ thống là sụp đổ điện áp và mất ổn định góc<br />
rotor. Các sự kiện này có thể xuất hiện độc lập hoặc đồng thời. Trong hầu hết các trường hợp, sư<br />
tan rã hệ thống bắt đầu khi sự mất ổn định điện áp tiến triển thành mất ổn định góc do thất bại<br />
trong việc đưa ra các hành động đúng để đưa hệ thống từ trạng thái khẩn cấp về trạng thái cảnh<br />
báo hoặc bình thường.<br />
Trên thế giới đã xuất hiện nhiều sự cố diện rộng, trong đó có nhiều sự cố trở nên nổi<br />
tiếng. Từ việc nghiên cứu các sự cố ấy, người ra nhận ra những tác động không phù hợp của hệ<br />
thống bảo vệ mà nguyên nhân sâu xa là không được phối hợp đúng mức. Hệ thống bảo vệ diện<br />
rộng khắc phục được nhược điểm này.<br />
Ở hệ thống điện (HTĐ) Việt Nam, các sự cố lan rộng trên lưới 500 kV xảy ra với tần suất<br />
lớn. Từ khi đưa hệ thống truyền tải 500 kV vào vận hành (1994) đến hết năm 2008 đã xảy ra tổng<br />
cộng 515 sự cố [1]! Nó cho thấy nhiều điều trong đó một phần nguyên nhân là do sự phối hợp<br />
yếu kém của hệ thống bảo vệ. Dưới đây ta sẽ xem xét một sự cố cụ thể ở Việt Nam để thấy rõ<br />
điều này.<br />
I.1 Sự cố ngày 27 tháng 12 năm 2006 trên HTĐ 500 kV và HTĐ miền Bắc [2]<br />
Thời tiết khu vực khi xảy ra sự cố: bình thường. Trước khi sự cố, HTĐ 500 kV vận hành<br />
bình thường đủ cả 2 mạch. Máy biến áp AT1 Đà Nẵng, máy cắt 572 Pleiku đang tách sửa chữa.<br />
Tại trạm 500 kV Pleiku: 14:14 ngày 27/12 bị sự cố 1 hệ thống nguồn một chiều, chỉ còn một hệ<br />
thống đang làm việc.<br />
Các nhà máy trong HTĐ miền Bắc: đang chạy như bảng 1:<br />
Bảng 1 Các nguồn điện ở miền Bắc trước khi xảy ra sự cố<br />
Hoà Bình 240 MW Phả Lại 1 400 MW<br />
Thác Bà 0 MW Phả Lại 2 580 MW<br />
Vĩnh Sơn 0 MW Uông Bí 50 MW<br />
Sông Hinh 0 MW Ninh Bình 100 MW<br />
Ialy 600 MW Cao Ngạn 45 MW<br />
Sê San 3 130 MW<br />
Đoạn đường dây (ĐD) 500 kV Phú Lâm - Pleiku và Tân Định - Pleiku đang tải từ Phú<br />
Lâm, Tân Định tới Pleiku ~700 MW. Đoạn ĐD 500 kV Đà Nẵng - Pleiku mạch 1 và mạch 2<br />
đang tải từ Pleiku tới Đà Nẵng ~1300 MW. Đoạn ĐD 500 kV đoạn Hà Tĩnh - Đà Nẵng đang tải<br />
từ Đà Nẵng tới Hà Tĩnh ~1000 MW. Tổng công suất sử dụng HTĐ Miền Bắc trước sự cố là<br />
2600 MW.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Hình 1 Lưới điện 500 kV của Việt Nam hiện nay<br />
Diễn biến sự cố:<br />
Lúc 14:43:00 tại trạm 500 kV Pleiku: Do xuất hiện tín hiệu intertrip qua kênh PLC dẫn đến<br />
cắt máy cắt 561 và 571 Pleiku. Bảo vệ F50 BF của máy cắt 571 Pleiku tác động (do máy cắt 571<br />
mất nguồn thao tác 1 chiều) cắt các máy cắt nối vào thanh góp 51 (máy cắt 563, 565, 573, 575),<br />
thanh góp C51 Pleiku mất điện.<br />
Lúc 14:43:23 tại trạm 500 kV Đà Nẵng: Nhảy máy cắt 571, 572 (intertrip từ Pleiku).<br />
Lúc 14:43:33 cũng tại trạm này: Nhảy máy cắt 573, 574, 575 do bảo vệ dao động công suất<br />
tác động gây mất liên kết trên HTĐ 500 kV. Do bị sự cố trên HTĐ 500 kV, tần số HTĐ miền Bắc<br />
giảm thấp (46,65 Hz). Trong HTĐ miền Bắc: Ninh Bình tách lưới giữ tự dùng M1-L1. Các tổ<br />
máy bị ngừng sự cố: Phả Lại 1 (4M-8L), Uông Bí (M6-L6,7), Phả Lại 2 (M5,6), M1 Na Dương,<br />
M2 Cao Ngạn. Tần số HTĐ Miền Nam tăng cao (51,25 Hz), tất cả các tổ máy đều đáp ứng giảm<br />
công suất. Các nhà máy điện miền Nam vận hành bình thường, chỉ có M2 Sê San 3, ST3, ST6<br />
Phú Mỹ 21 bị ngừng sự cố.<br />
Mạch tách đảo của HTĐ miền Bắc làm việc và duy trì được trong 15 giây do chỉ có M3 (Hòa<br />
Bình) đang phát đầy tải (M4 đang ngừng) và tải của đảo lớn hơn công suất M3 nên M3 tách lưới<br />
và đảo mất điện.<br />
Hậu quả của sự cố:<br />
Từ 14:43, HTĐ Miền Bắc Bị tan rã. Tổng công suất mất của HTĐ miền Bắc và một phần tải<br />
HTĐ Miền Trung khoảng 2600 MW. Đến 18h50 toàn bộ lưới mới trở lại làm việc bình thường.<br />
<br />
I.2 Phân tích và nhận xét<br />
<br />
Với hai tác nhân chính là mạch cắt liên động qua kênh PLC của đường dây 571 Pleiku – 572<br />
Đà Nẵng và bảo vệ chống dao động công suất tại trạm 500 kV Đà Nẵng tác động trùng hợp đúng<br />
lúc máy cắt 571 mất nguồn một chiều mà đã dẫn đến tan rã hệ thống điện miền Bắc. Điều đó<br />
chứng tỏ hệ thống bảo vệ đã không thể phối hợp tốt với nhau hay nói cách khác thiếu thông tin<br />
cần thiết. Nếu có đủ thông tin, vì một nguyên nhân nào đó mà mạch cắt liên động qua kênh PLC<br />
của đường dây 571 Pleiku – 572 Đà Nẵng tác động, mà máy cắt 571 Pleiku đang mất nguồn một<br />
chiều thì phải có tín hiệu cấm bảo vệ chống dao động công suất tác động (ở đây chỉ phân tích về<br />
mặt phối hợp giữa các bảo vệ mà chưa nói đến việc các bảo vệ có làm việc đúng hay không). Và<br />
trước khi mạch cắt liên động qua kênh PLC của đường dây 571 Pleiku – 572 Đà Nẵng tác động<br />
thì phải có các biện pháp làm giảm các tải ở phía Bắc để không xảy ra tình trạng thiếu nguồn sau<br />
khi đường dây trên bị cắt.<br />
Một hệ thống bảo vệ diện rộng với tính năng chính là thu thập thông tin diện rộng đồng bộ<br />
hóa bằng GPS, từ đó xử lí thông tin và đưa và các tác động phù hợp kịp thời thì phạm vi sự cố sẽ<br />
được giảm thiểu.<br />
II CÁC ĐỀ XUẤT XÂY DỰNG HỆ THỐNG GIÁM SÁT DIỆN RỘNG Ở VIỆT NAM [3,<br />
4]<br />
Hệ thống giám sát diện rộng (Wide Area Monitoring System, WAMS) là bước thực hiện đầu tiên<br />
trong quá trình xây dựng hệ thống bảo vệ diện rộng. Các công ty điện lực sẽ đạt được những lợi<br />
ích sau khi áp dụng công nghệ giám sát diện rộng:<br />
Giám sát on-line độ an toàn hoặc các giới hạn ổn định và năng lực của hệ thống từ đó cải<br />
thiện được năng lực truyền tải.<br />
Hoàn thiện hệ thống (bằng các kế hoạch đầu tư) dựa trên các phản hồi có được khi phân tích<br />
chế độ động hệ thống.<br />
Có được các cách phối hợp hoạt động hợp lí nhằm duy trì ổn định khi có nhiễu động trong<br />
lưới.<br />
Kích hoạt các chức năng bổ xung của của hệ thống giám sát diện rộng.<br />
Am hiểu sâu sắc hơn về các hành vi trong chế độ động của hệ thống.<br />
Có được một hệ thống cảnh báo sớm<br />
II.1 Mục tiêu và các ứng dụng của giám sát diện rộng<br />
Đo đạc vec tơ pha ngày càng trở thành công nghệ thu thập dữ liệu nền tảng, được dùng trong<br />
việc giám sát diện rộng. Các bộ đo vec tơ pha (Phasor Measurement Unit, PMU) được lắp đặt<br />
trong các hệ thống giám sát diện rộng chính là các trung tâm thu thập dữ liệu, chính vì thế các<br />
công ty có thể có các thông tin về vec tơ pha ở bất cứ đâu họ cần.<br />
Giám sát hành vi động của hệ thống – đánh giá ổn định<br />
Hiện tại các hệ thống điện thường được vận hành dựa trên thông tin tĩnh hoặc gần động được<br />
tách ra từ các đo đạc giá trị hiệu dụng. Đo đạc vec tơ pha ở các nút giúp cho nhân viên vận hành<br />
hệ thống có các thông tin động về hệ thống và từ đó kích hoạt các biện pháp cần thiết kịp thời.<br />
Việc này được hỗ trợ bởi các thuật toán đánh giá ổn định, được thiết kế để tận dụng được tính ưu<br />
việt của các thông tin đo vec tơ pha. Do đó mà tăng hiệu quả vận hành và duy trì ổn định hệ<br />
thống.<br />
Giám sát các hành lang truyền tải – Quản lí tắc nghẽn<br />
Các liên kết (hành lang truyền tải) giữa các hệ thống điện chủ yếu được dùng để phục vụ cho<br />
các hoạt động thương mại và phân phối năng lượng, đóng góp đáng kể vào giá thành điện năng<br />
trong thị trường tự do hóa. Dung lượng truyền tải của các hành lang này thường bị ràng buộc bởi<br />
yếu tố ổn định mà nguồn gốc là do sự bất định về trạng thái hệ thống. Cách làm truyền thống là<br />
xây dựng thêm các đường dây để tăng cường năng lực truyền tải. Cách làm này rất hiệu quả<br />
nhưng lại rất tốn kém. Có một phương án khác là giảm tính bất định bằng cách sử dụng giám sát<br />
diện rộng, do đó giảm được các nguy cơ trong vận hành. Giải pháp này rất kinh tế vì đầu tư cho<br />
việc thu thập dữ liệu của WAMS rẻ hơn nhiều. Vì thế, WAMS được xem như một công cụ có vai<br />
trò quan trọng trong việc quản lí tắc nghẽn.<br />
Phân tích các nhiễu động và lập qui hoạch mở rộng hệ thống<br />
Chức năng lưu trữ dữ liệu liên tục của WAMS cung cấp cho ta một nguồn thông tin rất giá trị<br />
để phân tích sau sự cố. Từ đó chúng ta có thể tìm ra nguyên nhân thực sự của các sự cố. Những<br />
thông tin này là cơ sở vững chắc để qui hoạch mở rộng hệ thống và cần thiết cho việc tăng cường<br />
độ bền vững của hệ thống.<br />
II.2 Khái quát về nền tảng hệ thống<br />
Đo đạc vec tơ pha là công nghệ nền tảng<br />
Hệ thống giám sát diện rộng chủ yếu dựa trên một công nghệ thu thập dữ liệu mới. Trong các<br />
hệ thống điều khiển truyền thống, các RTU (Remote Terminal Unit) được dùng để thu thập các<br />
giá trị hiệu dụng của dòng điện và điện áp. Còn trong hệ thống giám sát diện rộng, các PMU sẽ<br />
đo đạc các dòng điện, điện áp và tần số được đồng bộ hóa bởi GPS tại các vị trí được lựa chọn<br />
trong hệ thống. Các đại lượng đo được gồm có cá độ lớn và góc pha và được đồng bộ theo thời<br />
gian thông qua các bộ thu GPS với độ chính xác cỡ 1 micro giây. Hiện tại thì các nút tới hạn trên<br />
lưới truyền tải chỉ được giám sát bằng các dữ liệu tĩnh hoặc gần động dựa trên các phép đo giá trị<br />
hiệu dụng. Khi lắp đặt các PMU tại đây ta sẽ có được các ảnh chụp tức thời (snapshots) về trạng<br />
thái của nút được theo dõi. Bằng cách so sánh các ảnh chụp này với nhau, ta theo dõi được không<br />
những trạng thái xác lập mà còn cả trạng thái động của các nút tới hạn trong lưới truyền tải và<br />
dưới truyền tải.<br />
Kiến trúc nền của hệ thống giám sát diện rộng<br />
Kiến trúc nền để giám sát và bảo vệ diện rộng bao gồm những phần cứng sau:<br />
Các bộ đo vec tơ pha (PMU)<br />
Các đường liên kết truyền thông<br />
Trung tâm giám sát hệ thống (System Monitoring Center, SMC) gồm có các dữ liệu vec<br />
tơ pha và các ứng dụng được biến đổi cho phù hợp.<br />
Các PMU được đặt ở các trạm biến áp để có thể theo dõi hệ thống điện dưới bất kì điều kiện<br />
vận hành nào (tách đảo lưới, cắt các đường dây, máy phát,…). Các PMU và các kênh truyền có<br />
một mức dự trữ nhất định để đảm bảo việc thông tin an toàn trong trường hợp hỏng PMU hoặc<br />
kênh truyền. Các dữ liệu đo được được truyền tới một trung tâm giám sát hệ thống (SMC) thông<br />
qua các kênh/đường truyền dùng riêng. SMC là một thiết bị tính toán trung tâm, ở đó các đo đạc<br />
được tập hợp, đồng bộ hóa và sắp xếp (xử lí dữ liệu). Hình 2 biểu diễn việc thiết lập cấu trúc này.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Hình 2 Thiết lập một hệ thống đo đạc diện rộng dựa trên việc lấy các phép đo vec tơ pha đồng bộ<br />
hóa làm đầu vào cho trung tâm giám sát hệ thống.<br />
Trong trường hợp lưới điện có cấu trúc dạng mắt lưới, các ảnh chụp nhanh sau đó được xử lí<br />
bằng gói giám sát cơ bản (Basic Monitoring – BM), nó là một phần của SMC. Giám sát cơ sở bao<br />
hàm tập các thuật toán gồm có tất cả các cài đặt cho nền diện rộng từ đó triển khai các ứng dụng<br />
khác nhau. Chúng có các khả năng sau:<br />
Khả năng cung cấp các dữ liệu đầu vào phù hợp với bất kì ứng dụng nào.<br />
Khả năng thực thi nhanh – để dành đủ thời gian cho các ứng dụng bổ xung trong khoảng thời<br />
gian lấy mẫu.<br />
Tính bền vững – có khả năng chịu được các điều kiện dữ liệu đầu vào chất lượng kém (độ<br />
sẵn sàng, dải dữ liệu, sự đồng bộ hóa).<br />
Các ứng dụng được liên kết với đầu ra của BM. Chúng dự báo trạng thái của hệ thống điện<br />
và đưa ra các khuyến cáo cho nhân viên vận hành để có các tác động đúng khi phát hiện được<br />
nguy cơ xảy ra mất đồng bộ. Một giao diện đồ họa người sử dụng (Graphical User Interface –<br />
GUI) hiển thị các đầu ra của chúng cũng như đầu ra của BM cho nhân viên vận hành. Trong quá<br />
trình truy hồi dữ liệu vec tơ pha để phân tích sau sự cố thì các dữ liệu trong quá khứ có thể được<br />
lấy ra.<br />
II.3 Các chương trình ứng dụng<br />
Để tận dụng đầy đủ các ưu điểm của hệ thống giám sát diện rộng, ta cần tuân theo các bước<br />
sau. Trước hết, các công ty điện lực và nhà cung cấp WAMS phải tiến hành nghiên cứu ban đầu<br />
nhằm xác định các vấn đề thường gặp trong lưới và khu vực nguy hiểm nhất từ đó triển khai<br />
WAMS ở đó. Sau đó, cần lựa chọn các thuật toán giám sát cũng như vị trí đặt các PMU phù hợp.<br />
Để đảm bảo bước này có chất lượng tốt, cần có nghiên cứu và phát triển một số thuật toán. Các<br />
ứng dụng nâng cao này gồm có:<br />
Vị trí đặt tối ưu của PMU<br />
Giám sát cơ bản<br />
Đánh giá ổn định điện áp của các đường dây truyền tải<br />
Giám sát nhiệt độ đường dây<br />
Đánh giá dao động công suất<br />
Đánh giá ổn định tần số<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Hình 3 Hệ thống nền và các ứng dụng nâng cao của hệ thống giám sát diện rộng<br />
III KẾT LUẬN<br />
Hệ thống bảo vệ diện rộng là phát triển ở mức cao hơn của hệ thống giám sát diện rộng. Trên<br />
thế giới, hệ thống bảo vệ diện rộng đang được phát triển mạnh mẽ dựa trên thành tựu của công<br />
nghệ truyền thông.<br />
Với xu hướng phát triển, một trị trường điện cạnh tranh và phi điều tiết phát triển thì sự cố sẽ<br />
ngày càng trở nên trầm trọng hơn vì nhà cung cấp phải vận hành ở mức dự trữ thấp hơn để tăng<br />
hiệu quả kinh tế. Vấn đề này được giải quyết nếu có được một hệ thống giám sát và bảo vệ diện<br />
rộng.<br />
Hệ thống điện Việt Nam không nằm ngoài qui luật phát triển ấy. Xây dựng một hệ thống bảo<br />
vệ diện rộng ở Việt Nam cần được các cơ quan hữu quan quan tâm và nghiên cứu nhiều hơn để<br />
tăng độ tin cậy cung cấp điện trong hiện tại cũng như tương lai.<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
[1] Tổng kết vận hành hệ thống điện Quốc Gia 2008, Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Quốc<br />
Gia, 2008.<br />
[2] Các sự cố trên lưới điện 500 kV qua các năm, Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Quốc Gia.<br />
[3] CIGRE/IEEE-PES International Symposium Quality and Security of Electric Power<br />
Delivery Systems, Experiences with and Perspectives of the System for Wide Area<br />
Monitoring of Power Systems (Ref. Nr. 103), J. Bertsch, Member IEEE, M. Zima, Student<br />
Member IEEE, A. Surányi, C. Carnal, C. Rehtanz Member IEEE and M. Larsson, Member<br />
IEEE, Montreal, Canada 7th to 10th October, 2003.<br />
[4] Cigré Task Force 38.02.19 (Convenor: D. Karlsson), System Protection Schemes in Power<br />
Networks, CIGRE Technical Brochure no. 187, June, 2001.<br />