Trần Thị Việt Trung và cs<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
65(03): 54 - 60<br />
<br />
NGÔN NGỮ THƠ GIÀU CHẤT TẠO HÌNH –<br />
NÉT ĐẶC SẮC TRONG SÁNG TÁC CỦA LÒ NGÂN SỦN VÀ PỜ SẢO MÌN<br />
Trần Thị Việt Trung , Nguyễn Phương Ly<br />
Nhà xuất bản Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Lò Ngân Sủn và Pờ Sảo Mìn là hai gương mặt thơ miền núi phía Bắc khá tiêu biểu bởi sự sáng tạo<br />
đặc sắc, mới lạ trong các tác phẩm thơ của họ. Họ là niềm tự hào của dân tộc Dáy, dân tộc Pa Dí<br />
nói riêng, của các dân tộc thiểu số Việt Nam nói chung. Một trong những yếu tố quan trọng làm<br />
nên vẻ đẹp, sức hấp dẫn và góp phần tạo nên một phong cách riêng độc đáo ấy ở họ - chính là việc<br />
họ đã sử dụng một cách sáng tạo thứ ngôn ngữ thơ giàu tính tạo hình trong các tác phẩm đậm bản<br />
sắc văn hóa dân tộc.<br />
Từ khóa: Ngôn ngữ, ngôn ngữ tạo hình, Lò Ngân Sủn, Pờ Sảo Mìn<br />
*<br />
<br />
VÀI NÉT VỀ TÁC GIẢ LÒ NGÂN SỦN VÀ<br />
PỜ SẢO MÌN<br />
Lò Ngân sủn và Pờ Sảo Mìn là hai gương mặt<br />
thơ miền núi phía Bắc khá tiêu biểu bởi sự<br />
đặc sắc, mới lạ trong các tác phẩm thơ của họ.<br />
Họ được bạn đọc cả nước biết đến với những<br />
bài thơ, tập thơ: Những người con của núi,<br />
Người đẹp, Chiều biên giới... (Lò Ngân Sủn);<br />
Cây hai ngàn lá, Người con trai Pá Dí... (Pờ<br />
Sảo Mìn). Đây có thể nói là những bài thơ,<br />
tập thơ hay - có thể so sánh với bất kì tập thơ,<br />
bài thơ hay nào của các nhà thơ người dân tộc<br />
khác (kể cả của người Kinh). Họ là niềm tự<br />
hào của dân tộc Dáy, dân tộc Pa Dí nói riêng,<br />
của các dân tộc thiểu số Việt Nam nói chung.<br />
Với tư cách là các nhà thơ dân tộc thiểu số<br />
tiêu biểu - với các sáng tác đầy cá tính sáng<br />
tạo của mình, họ đã góp phần tạo nên sự<br />
phong phú, đa dạng, sự hấp dẫn cho thơ ca<br />
các dân tộc thiểu số nói riêng, cho thơ ca Việt<br />
Nam hiện đại nói chung.<br />
Lò Ngân Sủn người dân tộc Dáy, sinh ngày<br />
26/4/1945 tại thôn Bản Vền, xã Bản Qua,<br />
huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai. Ông đã được giữ<br />
nhiều trọng trách như: Phó chủ tịch Hội Văn<br />
học nghệ thuật Hoàng Liên Sơn, Phó Chủ tịch<br />
thường trực Hội Văn học nghệ thuật các dân<br />
tộc thiểu số Việt Nam... Ông là người viết<br />
nhiều, viết khỏe và viết khá thành công ở<br />
nhiều thể loại, nhưng sáng tác nhiều nhất và<br />
thành công nhất là thể loại thơ. Thơ Lò Ngân<br />
Sủn có hương vị rất đặc trưng - hương vị của<br />
*<br />
<br />
Tel: 0912454575;Email:<br />
<br />
“thắng cố” - một món ăn đặc sản của người<br />
dân tộc vùng núi cao - hay nói một cách khác<br />
- Thơ ông rất độc đáo, mang đậm màu sắc dân<br />
tộc vùng cao miền núi.<br />
Tính từ năm 1980 tới nay, ông đã cho ra mắt<br />
20 đầu sách, trong đó có hơn chục tập thơ.<br />
Nhà thơ Lò Ngân Sủn đã được nhận nhiều<br />
giải thưởng, tặng thưởng trong đó có giải A<br />
của Ủy ban toàn quốc Liên hiệp Văn học<br />
nghệ thuật Việt Nam cho tập thơ Đám cưới<br />
(1993); Giải B của Ủy ban toàn quốc Liên hiệp<br />
Văn học nghệ thuật Việt Nam cho tập thơ<br />
Dòng sông mây (1995); giải B Văn học dân<br />
tộc thiểu số Hội nhà văn Việt Nam cho tập thơ<br />
Những người con của núi (1992); giải B báo<br />
Thiếu nhi dân tộc cho tác phẩm Cái bật lửa<br />
trời (1995) và nhiều giải thưởng khác...<br />
Pờ Sảo Mìn sinh 10/10/1946, dân tộc Pa Dí<br />
tại thôn Na Bủ, xã Tung Chúng Phố, huyện<br />
Mường Khương, tỉnh Lào Cai.<br />
Pờ Sảo Mìn đã từng được học qua trường Bồi<br />
dưỡng người viết văn trẻ của Hội nhà văn<br />
Việt Nam khóa VI, Trường viết văn Nguyễn<br />
Du khóa II, là hội viên Hội Văn học các dân<br />
tộc thiểu số Việt Nam.<br />
Pờ Sảo Mìn sáng tác khá nhiều, cho đến năm<br />
2006 ông đã xuất bản được 7 tập thơ: Cây hai<br />
ngàn lá, Bài ca hoang dã, Mắt lửa, Con trai<br />
người Pa Dí, Cung đàn biên giới, Lời dân<br />
tộc tôi, Mắt rừng xanh. Thơ ông được bạn<br />
đọc biết đến từ những năm 70 của thế kỉ XX,<br />
với những bài thơ như: Cây ống khói (được<br />
nhạc Sĩ Trần Long Ẩn phổ nhạc), Thị trấn<br />
đôi ta, Cô gái Mèo và chiếc máy cày tay<br />
<br />
54<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.Lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
Trần Thị Việt Trung và cs<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
(được chọn in trong Tuyển tập thơ các dân tộc<br />
thiểu số). Đến đầu thập kỷ 80, 90, độc giả lại<br />
biết tới ông qua một số các giải thưởng về thơ<br />
trên báo Văn nghệ với 2 thi phẩm: Biển chàm<br />
trên núi (1982) và Lời dân tộc tôi (1995). Và<br />
đặc biệt bài thơ Cây hai ngàn lá của ông đã<br />
được nhiều bạn đọc biết đến như là một bài<br />
thơ đẹp, độc đáo phản ánh đúng bản chất và<br />
tâm hồn Pa Dí - một dân tộc chỉ có 2000<br />
người như cái cây chỉ có "hai ngàn chiếc lá".<br />
Chừng ấy thôi cũng đủ khẳng định một tiếng<br />
thơ riêng, một giọng điệu riêng hoang dã và<br />
trí tuệ - Pờ Sảo Mìn. Thơ ông là tiếng hát<br />
vang vọng của rừng xanh vùng cao Mường<br />
Khương (Lào Cai), là tiếng gà rừng trong ban<br />
mai trong trẻo ở một vùng núi thẳm hoang vu:<br />
Tôi chỉ là một con gà rừng/Trên vùng núi<br />
thẳm hoang vu”[3, tr24].<br />
Nét đặc sắc trong thơ ông còn thể hiện ở chất<br />
triết lý thấm đượm trong từng câu thơ, từng<br />
hình ảnh thơ - đó là chỗ thành công cũng là<br />
chỗ mạnh nhất trong thơ ông. Không ít những<br />
bài thơ của Pờ Sảo Mìn mang đậm tính triết<br />
lý như: Người ba tầng, Tìm cây làm nhà<br />
(Triết lý về con người); Lá, Đời người, Thời<br />
gian (Triết lý về đời người); Ba lần rơi hố<br />
(Triết lý về cách sống)…<br />
Nếu có thể nói, sáng tạo thơ ca là cả một cuộc<br />
leo núi đầy vất vả nhưng đầy hăm hở của<br />
những người say đắm cái đẹp và đi tìm cái<br />
đẹp, thì Pờ Sảo Mìn đã tích cực leo lên và<br />
đang ở phía trên lưng chừng dốc - nghĩa là đã<br />
đến một điểm cao nhất định! Ở đó - ông đã<br />
khẳng định mình xứng đáng là nhà thơ tiêu<br />
biểu của dân tộc PaDí với một hồn thơ<br />
cuồng nhiệt, đam mê, một tiếng gà gáy<br />
vang vọng rừng xanh, một“ánh sáng nhỏ”<br />
trong vùng sáng biên cương - như chính cái<br />
tên của ông: Pờ Sảo Mìn!<br />
Có thể nói rằng: Lò Ngân Sủn, Pờ Sảo Mìn<br />
thuộc thế hệ văn nghệ sĩ các dân tộc thiểu số<br />
trưởng thành sau năm 1975. Họ là những<br />
gương mặt tiêu biểu trong vườn hoa nhiều<br />
hương sắc của văn học dân tộc thiểu số Việt<br />
Nam. Và một trong những yếu tố quan trọng<br />
làm nên vẻ đẹp, sức hấp dẫn và góp phần tạo<br />
nên một phong cách riêng độc đáo ấy ở họ -<br />
<br />
65(03): 54 - 60<br />
<br />
chính là việc họ đã sử dụng một cách sáng tạo<br />
thứ ngôn ngữ thơ giàu tính tạo hình trong các<br />
bài thơ đậm sắc màu dân tộc của họ.<br />
ĐẶC ĐIỂM CỦA NGÔN NGỮ TẠO HÌNH<br />
TRONG THƠ CỦA LÒ NGÂN SỦN VÀ PỜ<br />
SẢO MÌN<br />
Như đã biết, một đặc điểm nổi bật của<br />
phương thức tạo hình là sử dụng ngôn từ nghệ<br />
thuật giàu hình tượng để miêu tả đối tượng<br />
như nó vốn có trong thực tế khách quan. Một<br />
tác phẩm thơ ca có sử dụng nhiều từ ngữ có<br />
tính tạo hình là một tác phẩm đem đến cho<br />
người đọc những bức tranh sinh động về cuộc<br />
sống và hiện thực khiến người ta có thể cảm<br />
nhận được một cách rõ nét như nhìn thấy<br />
được, như nắm bắt được bởi những đường<br />
nét, hình hài, màu sắc cụ thể của nó.<br />
Tính tạo hình của ngôn ngữ thơ ca còn có khả<br />
năng gợi mở, liên tưởng, tưởng tượng cho<br />
người đọc ở hai phương diện: là chiếc cầu để<br />
người đọc tìm về miền kí ức, tÌm lại những<br />
hình ảnh, hình tượng đã gặp, đã thấy trong<br />
quá khứ và giúp người đọc tưởng tượng ra<br />
một thế giới kì diệu, đẹp và thật hơn cả sự<br />
thật ngoài đời - qua thứ ngôn từ nghệ thuật<br />
giàu tính tạo hình ấy! Nên có thể nói, ngôn<br />
ngữ tạo hình trong thơ không những có khả<br />
năng biểu hiện nội dung của sự vật hiện tượng<br />
mà còn làm cho chúng hiện lên với một hình<br />
hài cụ thể, sinh động, tạo nên một vẻ đẹp<br />
mang tính thẩm mĩ và tính tư tưởng cao.<br />
Lò Ngân Sủn, Pờ Sảo Mìn là hai nhà thơ dân<br />
tộc thiểu số khá tiêu biểu trong việc sử dụng<br />
thứ ngôn ngữ tạo hình một cách sáng tạo và<br />
độc đáo qua các sáng tác cụ thể của mình. Và<br />
chính thứ ngôn ngữ đó đã góp phần không<br />
nhỏ đem lại sự thành công cho những tác<br />
phẩm thơ của họ, đem lại những nét đặc trưng<br />
cho giọng thơ họ, tạo hiệu quả cao trong cách<br />
miêu tả của họ về thiên nhiên, cuộc sống và<br />
con người miền núi. Và chính nó, đã góp<br />
phần làm nên sức hấp dẫn trong các sáng tác<br />
thơ của hai tác giả này.<br />
Bức tranh thiên nhiên qua ngôn ngữ tạo hình<br />
Trong các tác phẩm thơ viết về miền núi vùng<br />
Tây Bắc, Việt Bắc - nhà thơ Lò Ngân Sủn và<br />
Pờ Sảo Mìn đã tỏ ra rất say mê miêu tả phong<br />
cảnh thiên nhiên vùng núi cao với vẻ đẹp<br />
hùng vĩ, dữ dội và đầy lãng mạn. Chính do<br />
<br />
55<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.Lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
Trần Thị Việt Trung và cs<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
cách sử dụng ngôn ngữ tạo hình một cách<br />
sáng tạo và độc đáo mà Lò Ngân Sủn, Pờ Sảo<br />
Mìn đã khắc họa nên bức tranh thiên nhiên,<br />
bức tranh cuộc sống với hình ảnh con người<br />
với bao phong tục tập quán văn hóa đặc sắc<br />
nơi núi rừng Tây Bắc, Việt Bắc với một màu<br />
sắc rực rỡ và vô cùng sinh động.<br />
Đọc những tập thơ, bài thơ của họ viết về miền<br />
núi Tây Bắc, Việt Bắc ta thấy hiện lên cảnh sắc<br />
núi rừng thật hùng vĩ, dữ dội, hoang sơ, hiểm<br />
trở, nhưng cũng rất mực diễm lệ, thơ mộng,<br />
rực rỡ. Ví dụ như khi viết về gió, về sông, về<br />
suối... ở vùng núi cao này họ đã chú ý miêu tả<br />
những nét đặc trưng rất riêng của nó. Bởi họ là<br />
người miền núi, lại được sinh ra và lớn lên ở<br />
miền núi nên họ có cách cảm nhận và diễn đạt<br />
rất đặc biệt với thứ ngôn ngữ giàu chất tạo<br />
hình như: "Gió lồng lên như ngựa thét tung<br />
vó/Gió gầm lên như sấm sét ầm ầm" [10, tr.8],<br />
"Gió lạnh hú bên bãi tha ma" [4, tr33]...<br />
Đây là những cơn gió ở vùng núi cao mỗi khi<br />
mùa đông đến! Nó được nhà thơ Lò Ngân<br />
Sủn và Pờ Sảo Mìn miêu tả rất cụ thể, chính<br />
xác với các từ tượng thanh, tượng hình...<br />
khiến người ta phải ghê sợ, "sởn gai ốc" với<br />
những hình ảnh từ "gió hú”, "gió gầm lên",<br />
"gió lồng lên"... Bức tranh thiên nhiên dữ dội<br />
đến khắc nghiệt ấy được miêu tả bằng hàng<br />
loạt các từ láy và các động từ mạnh: "ầm ầm,<br />
gầm gào, thét, lồng lên, gầm lên"... Nhưng<br />
bức tranh thiên nhiên vùng cao ấy không phải<br />
chỉ có sự khắc nghiệt và dữ dội - nó còn là<br />
những mảng màu thật tươi sáng, trong trẻo,<br />
thơ mộng nữa. Sắc màu thiên nhiên với<br />
những làn mây trắng muôn hình vẻ nơi núi<br />
non này được tác giả phác họa thật sinh<br />
động, kì ảo: Mây ngập ngừng lả lướt/Rực<br />
cháy giữa khoảng không [7, tr42]; Dòng<br />
mây tung cuộn sóng [7, tr43]; Mơn man làn<br />
mây buông xõa [10, tr47]…<br />
Còn khi viết về mùa xuân ở nơi đây, tác giả<br />
đã phác họa bằng những câu thơ rực rỡ sắc<br />
màu như: Mùa xuân lại đến đấy/Tiếng chim<br />
rừng hát vang gọi bạn/Ban trắng, đào hồng<br />
và muôn hoa chớm nụ/Ngôi sao xanh nhấp<br />
nháy cười trên núi/Giữa xanh cây rừng thông<br />
mọc đầy sao" [4, tr34]<br />
Hình ảnh mùa xuân trở về sau bao ngày mùa<br />
đông giá lạnh thật rực rỡ, lộng lẫy và đầy sức<br />
<br />
65(03): 54 - 60<br />
<br />
sống còn được Lò Ngân Sủn, Pờ Sảo Mìn<br />
miêu tả tinh tế, chính xác bằng thứ ngôn ngữ<br />
giàu tính tạo hình, giàu chất biểu cảm với thủ<br />
pháp nhân hóa rất đặc sắc như: Mây mặc áo<br />
trắng/Nắng mặc áo vàng/Rừng mặc áo<br />
xanh/Núi đội nón mây/Gió quẩy hương hoa<br />
[6, tr42]; Gió nhẹ nhàng thoi đưa/Mưa rắc<br />
hương rắc hạt [11, tr11]; Hoa mộc miên nở<br />
rồi trinh trắng/Bông ban đỏ chúm chím nụ<br />
cười/Hai bầu trời họa mi hót vang [3, tr83]…<br />
Pờ Sảo Mìn và Lò Ngân Sủn rất hay sử dụng<br />
các thủ pháp so sánh, ví von, các thủ pháp<br />
nhân hóa... để miêu tả thiên nhiên, miêu tả sự<br />
vật, loài vật... Chính vì vậy: thiên nhiên, loài<br />
vật... trong thơ các ông dường như đều có tâm<br />
hồn, như có sự giao cảm đặc biệt với con<br />
người vậy: Bỗng gà rừng cất cao giọng<br />
hót/Muôn loài chim thức dậy xôn xao [6, tr29];<br />
Tiếng hoẵng gọi nghe như tiếng còi tầu xa [8,<br />
tr33]; Nắng chiều như mảnh lát hoa giữa rừng<br />
[8, tr44]; Nắng cài hoa lưng núi [8, tr94]…<br />
Khi miêu tả những cảnh sắc núi rừng với<br />
những dòng suối - một nét đặc trưng chỉ có ở<br />
miền núi mà thôi - Lò Ngân Sủn và Pờ Sảo<br />
Mìn đã có những câu thơ thật đẹp, thật phóng<br />
túng, thật dữ dội và cũng thật dịu dàng... dành<br />
cho việc mô tả con suối ấy! Từ ngữ ở đây đầy<br />
hình ảnh - thật lung linh sắc màu, thật mềm<br />
mại, nuột nà như người sơn nữ, nhưng cũng<br />
đầy mạnh mẽ, dữ dội như người "trai của núi"<br />
và đôi khi như đứa trẻ nghịch ngợm: Suối đi<br />
như một đường xanh/Uốn quanh chân núi, uốn<br />
quanh chân đồi/Khúc im lặng/Khúc xa xôi/Gặp<br />
cơn mưa đổ sục sôi ào ào/Gặp mùa hạn hán<br />
lao xao/Gặp nơi có thác suối trào ra mây [12,<br />
tr51]; Suối buông thả khỏa thân [7, tr32]…<br />
Hoặc khi miêu tả trăng trên vùng núi non cao<br />
thẳm này - Hai nhà thơ thiểu số tài hoa này<br />
cũng luôn có một cách thể hiện riêng - bằng<br />
các hình ảnh thơ rất lạ, bằng cách so sánh, ví<br />
von thật miền núi, và bằng cách cảm nhận<br />
nhuốm màu phồn thực đầy sức sống như:<br />
Trăng non/Như ngô non/Như măng<br />
non/Trăng non lồng lộng xa xôi lắm/Trăng<br />
non ngồn ngộn ngay trước mặt/Trăng non<br />
vằng vặc/Nằm khỏa thân [12, tr146]; Mơn<br />
man vầng trăng nõn nà [7, tr23]; Thoang<br />
thoảng bờ suối mùa nếp tan/Bất ngờ trăng<br />
khuya nở đầy tràn [7, tr149]…<br />
<br />
56<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.Lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
Trần Thị Việt Trung và cs<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
Nói tóm lại, với thứ ngôn ngữ thơ giàu hình<br />
ảnh, giàu màu sắc, mang tính tạo hình cao hai tác giả thơ miền núi tiêu biểu Lò Ngân<br />
Sủn và Pờ Sảo Mìn đã dựng lên một bức<br />
tranh thiên nhiên núi rừng Tây Bắc, Việt Bắc<br />
bằng những nét vẽ mềm mại mà sắc nét, chân<br />
thực và hào hoa - với những cảnh núi non<br />
hùng vĩ, đầy hoang dã, bí hiểm, dữ dội (núi<br />
cao, vực sâu, gió gào, thác thét...) nhưng<br />
cũng đầy thơ mộng, đầy quyến rũ, gần gũi,<br />
hòa hợp với con người (suối xanh, gió mát,<br />
trăng trong, nương rẫy trù phú, hoa rừng<br />
ngát hương, ong mật từng bầy...).<br />
Ngôn ngữ thơ giàu chất tạo hình trong việc<br />
khắc họa hình ảnh con người miền núi<br />
Con người miền núi trong thơ của Lò Ngân<br />
Sủn, Pờ Sảo Mìn hiện lên vô cùng sinh động<br />
với những tính cách: thật thà, chất phác, đôn<br />
hậu, cả tin... và tuy nghèo khổ, cơ cực nhưng<br />
lại rất giàu tình nghĩa con người. Nét đặc sắc<br />
trong việc miêu tả hình ảnh con người miền<br />
núi vùng cao ấy của Lò Ngân Sủn và Pờ Sảo<br />
Mìn - chính là việc họ đã sử dụng thứ ngôn<br />
ngữ giàu hình tượng nhất để miêu tả về ngoại<br />
hình, cũng như miêu tả thế giới tâm hồn<br />
những người con của núi.<br />
Trong thế giới hình con người miền núi - nổi<br />
bật nhất trong thơ của hai tác giả này chính là<br />
hình ảnh người phụ nữ. Họ chính là "hoa của<br />
bản mường", là "mật ong", là "khúc mía", là<br />
"nguồn suối trong xanh", là "mây trắng", là<br />
"mùa xuân" của núi rừng. Họ là nguồn cảm<br />
xúc mãnh liệt không bao giờ vơi cạn đối với<br />
các chàng thi sĩ miền núi xưa nay. Bài thơ<br />
Người đẹp của Lò Ngân Sủn là một thành<br />
công lớn, một phát hiện độc đáo, một cách thể<br />
hiện rất đặc sắc, khiến nhiều người thích thú,<br />
bất ngờ bởi cách diễn đạt rất riêng của ông:<br />
Người đẹp trông như tuyết/Chạm vào lại thấy<br />
nóng/Người đẹp trông như lửa/Sờ vào lại<br />
thấy mát/Người không khát - nhìn thấy<br />
người đẹp cũng khát/Người không đói nhìn thấy người đẹp cũng đói/ Người muốn<br />
chết - gặp người đẹp lại không muốn chết<br />
nữa/Ơ! Người đẹp là ước mơ/Treo trước<br />
mặt mọi người[10, tr128].<br />
Những câu thơ vừa mang tính bản năng, vừa<br />
mang tính trí tuệ, những câu thơ hồn nhiên,<br />
trong vắt nhưng lại nhuốm màu triết lí nhân<br />
<br />
65(03): 54 - 60<br />
<br />
sinh! Với bài thơ này người ta nhận ra cái bản<br />
lĩnh của một nhà thơ miền núi đã biết diễn tả<br />
bằng cách mới những chân lí bình thường.<br />
Khi viết về những người phụ nữ miền núi Lò Ngân Sủn và Pờ Sảo Mìn thường có một<br />
cảm hứng mãnh liệt, một sức sáng tạo bất<br />
ngờ. Họ luôn tìm được những ngôn từ có tính<br />
tạo hình và tính biểu cảm cao để diễn tả nhan<br />
sắc bên ngoài lẫn nhan sắc bên trong của<br />
người phụ nữ. Đặc trưng nhất là các ngôn từ<br />
nghệ thuật miêu tả đôi mắt - cửa sổ tâm hồn<br />
và trái tim của người phụ nữ. Tác giả đã ví<br />
đôi mắt ấy với những hình ảnh đặc biệt, mang<br />
hương sắc núi rừng như: Đôi mắt ướt như mỡ<br />
nóng trong chảo [10, tr114]; Đôi mắt ngọt<br />
như mật ong trong rừng [10, tr114]; Mắt em<br />
đen láy/Đỉnh núi ao trong/Đôi mắt em<br />
tròn/Một vành trăng tỏ [4, tr18]…<br />
Vẻ đẹp phồn thực đầy sức sống ấy còn được các<br />
nhà thơ miêu tả thật cụ thể, thật gợi cảm và<br />
cũng thật hình ảnh về hình thể của người phụ nữ<br />
miền núi: Gần nắng trời nên da em thắm<br />
đỏ/Tắm ánh trăng hóa da em trắng ngần/Gót<br />
chân son đỏ trái ngọt lê táo [4, tr21]; Con gái ở<br />
đây đẹp như thân cây chuối rừng bóc vỏ [7,<br />
tr71]; Tay nâng bộ ngực/Bầu vú căng tròn [7,<br />
tr27]; Đôi núm vú như cơ pái nở/Như cánh chim<br />
arin nhấp nhô buổi sáng [12, tr90]…<br />
Vẻ đẹp của người con gái miền núi được so<br />
sánh như thân cây chuối rừng bóc vỏ, bộ<br />
ngực được so sánh như cơ pái nở, như cánh<br />
arin nhấp nhô buổi sớm. Đây là một vẻ đẹp<br />
rất "trần tục" mà không thô tục, một vẻ đẹp<br />
phồn thực, đầy sức sống, khiến ai cũng muốn<br />
chiêm ngưỡng và đắm say.<br />
Vẻ đẹp khỏe mạnh, nồng nàn vừa kín đáo,<br />
duyên dáng vừa rực lửa của người thiếu nữ<br />
miền núi ấy cứ hiện lên một cách sinh động,<br />
đầy sức sống qua phép liệt kê và phép so sánh<br />
đặc biệt của tác giả: Ôi em/Con gái Bản<br />
Tông/Mông em tròn mập như bắp chuối/Váy<br />
em buộc thắt đáy lưng ong/Ngực em căng<br />
hai bầu sữa ngọt/Tóc chảy xuống như một<br />
dòng suối/Mắt em tỏa ánh sao mơ/Hai má<br />
em như hai quả đào chín/Hai môi em như<br />
hai miếng thịt nướng/Thân hình em trông<br />
như một bó củi chắc nịch/Da thịt em hừng<br />
hực như lửa [12, tr132]…<br />
<br />
57<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.Lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
Trần Thị Việt Trung và cs<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
Cách nói, cách so sánh ví von trên đã thể hiện<br />
những quan niệm về vẻ đẹp của người phụ nữ<br />
dân tộc của các nhà thơ này. Trước hết, đó<br />
phải là người khỏe mạnh, đầy sức sống, đầy<br />
khả năng làm mẹ, làm vợ. Một vẻ đẹp tự<br />
nhiên, hồn nhiên - như thiên nhiên; một vẻ<br />
đẹp nồng nàn, dữ dội, mãnh liệt đầy tính phồn<br />
thực và sức cuốn hút đối với người khác giới.<br />
Với cách dùng hàng loạt các từ ngữ mang tính<br />
tạo hình cao như: tròn mập, thắt đáy lưng<br />
ong, ngực căng tròn..., cùng cách dùng hàng<br />
loạt các từ so sánh ví von: như bắp chuối, như<br />
dòng suối, như hai quả đào chín, như hai<br />
miếng thịt nướng, như một bó củi chắc nịch,<br />
như lửa... hình ảnh người phụ nữ miền núi<br />
hiện lên thật xinh đẹp, khỏe mạnh và đáng<br />
yêu biết bao: Đôi tay em như hai tấm cơm<br />
lam/Đôi chân em như hai cái bắp chuối [12,<br />
tr75]; Da thịt em mịn màng làn mây trắng/Mái<br />
đầu em mượt mà bông tóc/Khuôn ngực em căng<br />
phồng hai trái núi mùa xuân [12, tr5]<br />
Còn đối với người trai miền núi - các nhà thơ<br />
này cũng có một cách diễn tả, thể hiện rất lạ,<br />
mang dấu ấn của "riêng mình". Với Con trai<br />
người Pá Dí - Pờ Sảo Mìn đã đem đến cho<br />
người đọc một hình ảnh chàng trai dân tộc Pá<br />
Dí với những nét phác họa hết sức chân thực<br />
nhưng cũng rất hình ảnh và mang tính khái<br />
quát - qua những ngôn từ mang tính tạo hình<br />
và tính biểu cảm cao: Con trai người Pá<br />
Dí/Mắt một mí, tóc đen, mũi tẹt, da<br />
vàng/Dáng ngang tàng vẻ quẫy đạp trần gian<br />
[2, tr5]; Những chàng trai/Chân đất/Mặc<br />
khố/Đi như gió thổi qua rừng [12, tr8].<br />
Viết về những con người miền núi - những<br />
con người không chỉ đẹp ở vẻ bên ngoài mà<br />
còn đẹp ở đời sống nội tâm. Miêu tả thế giới<br />
nội tâm với các cung bậc tình cảm khác nhau<br />
trong họ là một thành công đáng ghi nhận<br />
của cả hai nhà thơ trên. Để hiểu họ từ trong<br />
chiều sâu tâm hồn cũng như những tính cách<br />
của con người miền núi, các nhà thơ phải có<br />
sự hiểu biết thật sâu sắc, có một trái tim nhạy<br />
cảm và phải có khả năng sử dụng một cách<br />
tài tình ngôn ngữ thơ giàu tính tạo hình để<br />
miêu tả một cách chính xác, sinh động<br />
những sắc thái muôn màu của thế giới nội<br />
tâm con người miền núi.<br />
<br />
65(03): 54 - 60<br />
<br />
Là những người "trai của núi" - Lò Ngân Sủn<br />
và Pờ Sảo Mìn viết về tình yêu lứa đôi với<br />
một cách cảm nhận rất riêng, một cách diễn<br />
đạt rất riêng của một người nghệ sĩ dân tộc<br />
thiểu số. Với Lò Ngân Sủn thì tình yêu luôn<br />
là nỗi nhớ da diết, nỗi nhớ được hiện lên cụ<br />
thể như nhìn thấy được, như nắm được bởi nó<br />
được hình dung như là "quả nhớ" vậy! "Quả<br />
nhớ" ấy nằm mọi nơi, mọi chốn trên tất cả cơ<br />
thể rực cháy của người trai miền núi: Quả<br />
nhớ ở trong ngực/Quả mong ở trong tim/Quả<br />
nhớ bằng trái núi/Quả mong bằng quả<br />
trời/Nhớ nhiều mây tím bầm/Mong nhiều nổi<br />
giông bão/Nhắc đến em động trời [7, tr91].<br />
Tình yêu luôn được thể hiện ở nhiều cung bậc<br />
tình cảm khác nhau như: nỗi nhớ, niềm mong,<br />
nỗi da diết khôn nguôi, sự đợi chờ đau đáu và<br />
có một cái gì đó rất bản năng, rất mãnh liệt<br />
luôn cháy bỏng trong lòng: Anh yêu em/Như<br />
con sói đói mồi/Như con trâu đói cỏ/Như con<br />
hổ đói ăn/Như con gấu đói mật [6, tr54].<br />
Cách so sánh, cách diễn đạt và hình ảnh thơ<br />
mà tác giả đã sử dụng rất đặc biệt (so sánh với<br />
những con vật khỏe mạnh, dữ dội như: sói,<br />
hổ, gấu... ở trong rừng) - là một người con<br />
của núi rừng nên tác giả mới có cách so sánh<br />
như vậy! Vì thế mà những sắc thái của tình<br />
yêu ở đây cũng mang đậm sắc màu miền núi.<br />
Nhưng có khi tình yêu lại được so sánh với<br />
những vật, những thứ hoa, quả... rất ngọt<br />
ngào, đầy vẻ lãng mạn và thật cháy bỏng, bạo<br />
liệt: Em như khe suối bên rừng/Anh vừa trông<br />
thấy muốn dừng uống ngay/Em như đào mận<br />
trên cây/Anh vừa trông thấy muốn tay vịn<br />
cành/Em như hoa nở mùa xuân/Anh vừa<br />
trông thấy âm thầm bén duyên/Em như câu<br />
hát tháng giêng/Anh vừa trông thấy ngả<br />
nghiêng đất trời [12, tr124]; Em như là ngày<br />
tết/Đẹp như cái bánh chưng/Em như con<br />
đường dốc/Làm lòng anh rối bời (Em như là<br />
ngày tết - Lò Ngân Sủn).<br />
Viết về tình yêu, về nỗi nhớ, tác giả luôn tìm<br />
tòi và sáng tạo ra những hình ảnh độc đáo như:<br />
Lăn lóc trong trăn trở/Quay cuồng trong nỗi<br />
nhớ [7, tr120]; Em như chum rượu ắp đầy/Để<br />
cho anh uống anh say suốt đời [5, tr58]…<br />
<br />
58<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.Lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />