50 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
NGỮ PHÁP CỦA THƠ – NHÂN ĐỌC MỘT LIÊN THƠ<br />
TRONG BÀI BẠCH ĐẰNG HẢI KHẨU CỦA NGUYỄN TRÃI<br />
<br />
Lê Thời Tân, Nguyễn Thị Thanh Huyền<br />
Trường Đại học Thủ đô Hà Nội<br />
<br />
<br />
Tóm tắt: Sự miêu tả trong thơ khác sự miêu tả của văn xuôi. Ngữ pháp câu thơ cho phép<br />
tạo nên những cấu trúc ẩn dụ đa tầng, phản ánh cách tri cảm đặc biệt của nhà thơ. Việc<br />
tập trung phân tích một liên thơ trong bài “Bạch Đằng hải khẩu” (Nguyễn Trãi) góp<br />
phần cho thấy điều đó.<br />
Từ khóa: Đối ngẫu, miêu tả, văn xuôi, Bạch Đằng hải khẩu<br />
<br />
Nhận bài ngày 03.3.2018; gửi phản biện, chỉnh sửa, và duyệt đăng ngày 25.3.2018<br />
Liên hệ tác giả: Lê Thời Tân; Email: lttan@daihocthudo.edu.vn<br />
<br />
<br />
<br />
1. GIỚI THIỆU<br />
<br />
Bạch Đằng hải khẩu của Nguyễn Trãi là một bài thơ vịnh sử tiêu biểu trong thơ ca<br />
trung đại Việt Nam. Là một bài thơ Đường luật, bài thơ mang đặc trưng thi pháp riêng của<br />
thể thơ, đồng thời cũng chứa đựng nét đặc trưng thi pháp thơ ca nói chung. Đặc trưng thi<br />
pháp chung đó bộc lộ trước hết ở bút pháp ẩn dụ thể hiện qua cấu trúc ngữ pháp đặc thù<br />
của câu thơ. Có thể thấy được điều đó qua việc chọn phân tích liên thơ thứ hai của bài<br />
thơ này.<br />
Nguyên văn liên thứ hai của bài thơ :<br />
鱷斷鯨刳山曲曲<br />
戈沉戟折岸層層<br />
Phiên âm Hán Việt:<br />
Ngạc đoạn kình khoa sơn khúc khúc,<br />
Qua trầm kích chiết ngạn tầng tầng.<br />
Tạm diễn nghĩa:<br />
Cá sấu đứt thây, cá kình phanh xác núi non lởm chởm<br />
Giáo chìm kích gãy bờ sông lớp lớp<br />
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 22/2018 51<br />
<br />
Cả liên thơ thường được xem là một đối ngẫu, trình bày một sự đẳng lập đồng liệt hai<br />
hình tượng thơ: rặng núi và bờ sông. Sự đẳng lập đồng liệt hai hình tượng hàm chứa một<br />
quan hệ đối sánh. Nhưng ngay trong mỗi câu thơ cũng có cấu trúc đẳng lập hai hình ảnh:<br />
Ngạc đoạn kình khoa và Sơn khúc khúc; Qua trầm kích chiết và Ngạn tầng tầng.<br />
<br />
2. NỘI DUNG<br />
<br />
Bản dịch Nguyễn Đình Hồ “mô phỏng” tốt nhất ngữ pháp và cách biểu đạt của nguyên<br />
tác. Biểu đạt của nguyên tác phản ánh sự luân chuyển giao hoán của tri giác thực tế. Nhà<br />
thơ với hồi ức cảnh chiến thuyền quân Nguyên bị tấn công, đã nhìn những dãy núi hiểm trở<br />
với hình dung ác ngư bị giết chết, nhìn bờ sông chập chùng với kí ức bãi chiến trường xưa.<br />
Dĩ nhiên đây chỉ là một cố gắng hình dung lại trường tri cảm của nhà thơ. Xem chú thích<br />
từ ngữ cụ thể, ta còn thấy có thêm một cách lí giải khác nữa về ấn tượng sơ khởi của nhà<br />
thơ - cái ấn tượng được kích gợi vừa từ hồi ức lịch sử vừa từ thực cảnh trước mắt. Chú<br />
thích này như sau: “Kình, ngạc: ý nói chiến thuyền của địch (như cá kình, cá ngạc) bị tan<br />
rã như núi non đứt đoạn”. Nếu chấp nhận chú thích này ta sẽ thấy câu thơ gợi lên không<br />
phải chỉ là song hành của hai hình tượng (kình ngạc và núi non) mà thực tế còn hàm chứa<br />
một cấu trúc ẩn dụ đa tầng: chiến thuyền bị tấn công của địch - cá kình cá ngạc - núi non<br />
lởm chởm. Bất kể là thế nào đi nữa thì ta hoàn toàn có thể nói các hình ảnh thơ đó đã đồng<br />
thời xuất hiện trùng lồng vào nhau trong một tri cảm tức thời. Lối diễn nôm câu thơ ra văn<br />
xuôi cũng như cách đặt câu hỏi giảng văn kiểu “Hãy cho biết nhà thơ đã sử dụng biện pháp<br />
tư từ ẩn dụ hay so sánh hay như thế nào?” hoàn toàn không giúp ích gì cho việc cảm nhận<br />
đặc sắc thực sự trong tri cảm và biểu đạt câu thơ.<br />
Ngữ pháp đặc thù của câu thơ cho thấy sự đồng hiện giải thích cho nhau giữa các hình<br />
tượng trong một trường tri giác tự nhiên không bị can thiệp bởi yếu tố suy luận so sánh<br />
logic (biểu thị ra ở những tư so sánh như / giống như). Hiệu quả biểu đạt đó chỉ có thể tạo<br />
ra ở trong thơ chứ không đạt tới khi dùng văn xuôi. So sánh bản dịch thơ với dịch nghĩa là<br />
đủ thấy vấn đề. Dịch nghĩa văn xuôi ta phải chọn một trong hai cách viết: 1) “Núi non<br />
trùng điệp như cá sấu bị chặt khúc, như cá kình bị phanh thây; Bờ sông chập chùng như<br />
giáo chìm kích gẫy chồng chất”; 2) Nhìn núi từng khúc, như cá mập, cá sấu bị chặt từng<br />
đoạn; Nhìn bờ từng lớp, như giáo kích gươm đao bị gãy chìm. Bản dịch thơ tốt nhất đã cố<br />
gắng tránh dùng từ so sánh biểu thị phán đoán logic và giữ nguyên trật tự đồng đẳng của<br />
cặp hình tượng trong mỗi câu thơ:<br />
Kình ngạc băm vằm non mấy khúc,<br />
Giáo gươm chìm gãy bãi bao tầng<br />
(Nguyễn Đình Hồ dịch) [1]<br />
52 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI<br />
<br />
<br />
Gần với cách dịch trên của Nguyễn Đình Hồ là một cách dịch khác:<br />
Ngạc chặt băm vằm non mấy khúc,<br />
Giáo chìm gươm gãy bãi dăng dăng.<br />
Kế đó có thể kể đến bản dịch của Bùi Hạnh Cẩn:<br />
Ngạc đứt kình phanh bao núi lớn,<br />
Giáo chìm kích gãy mấy bờ giăng [2]<br />
Bản dịch của Trần Đông Phong cũng cố gắng trung thành với nguyên tác:<br />
Sấu kình đứt đoạn núi quanh khúc<br />
Kích giáo gẫy chìm bãi xếp tầng<br />
Khác với các bản dịch trên, bản dịch nhóm Đào Duy Anh [3] đã hoán đổi vị trí hai<br />
hình ảnh núi non và kình ngạc nên lộ rõ ý suy đoán logic, và nhất là ở câu thứ hai đã ít<br />
nhiều sa vào nghĩa tả thực của văn xuôi:<br />
Chòm chòm núi đá kình rời đoạn,<br />
Lớp lớp bờ lau kiếm nát chồng<br />
Bản dịch của Lê Cao Phan có lẽ kém hơn cả. Câu thơ nặng nề và khô khan hẳn đi do<br />
việc sử dụng các từ “như”, “đòi”. Cặp hình ảnh đồng hiện trong một tưởng tượng đồng thời<br />
của nguyên tác giờ đã bị sắp thành trật tự trước sau:<br />
Núi như kình ngạc phân đòi đoạn<br />
Đất tựa kích đao rải ngổn ngang<br />
Riêng trường hợp bản dịch của Cao Nguyên lại là một kiểu riêng. Câu thứ nhất đảo<br />
hình ảnh núi lên trước. Và từ cấu trúc đồng liệt hai hình ảnh “Ngạc đoạn kình khoa”// “Sơn<br />
khúc khúc” chuyển thành câu chủ vị: “Núi uốn khúc” → “chia” → “kình”//“đoạn” → “ngạc”:<br />
Núi uốn khúc chia kình đoạn ngạc<br />
Đao chìm kích gãy bãi dăng dăng<br />
Việc dẫn đồng loạt các bản dịch ở đây không vì mục đích so sánh hơn thua, mà chủ<br />
yếu chỉ là để làm rõ thêm cái tính cách đặc biệt của cấu trúc ngữ pháp câu thơ trong<br />
nguyên tác. Chất thơ hoặc hiệu quả biểu đạt có tính thơ của thi ca được tạo ra từ tính cách<br />
ngữ pháp đặc thù đó.<br />
Có thể thấy lại bút pháp “tả cảnh” trên ở một bài thơ Đường luật khác cũng viết về<br />
Bạch Đằng giang - bài Qua sông Bạch Đằng của chí sĩ Dương Bá Trạc [4]. Ở đây, ta lại<br />
thấy những cặp hình ảnh hàm chứa quan hệ ẩn dụ nhưng đồng hiện trong từng câu thơ của<br />
một liên thơ:<br />
Sóng dồn lớp lớp làn tên bắn,<br />
Gió thổi ào ào tiếng trống rung<br />
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 22/2018 53<br />
<br />
Hình ảnh tả thực “sóng dồn lớp lớp” so sánh với “làn tên bắn” trong câu trên đối ngẫu<br />
với câu dưới đối sánh “gió thổi ào ào” với “tiếng trống rung”. Nhưng vì câu thơ đồng liệt<br />
các cặp hình ảnh và không sử dụng từ biểu thị phán đoán “như”, “tựa” hay “ngỡ”, nên mờ<br />
hồ hơn rất nhiều về nghĩa. Người đọc hoàn toàn có thể thực hiện các cách cắt nghĩa khác<br />
nhau: “Dưới sông lớp lớp sóng dồn, Trên bờ từng làn tên bắn; Trong không trung gió thổi<br />
ào ào, Trên các chiến thuyền tiếng trống rung từng hồi”; hoặc “Tên bắn từng làn trên lớp<br />
lớp sóng dồn; Tiếng trống rung lên hòa trong tiếng gió thổi ào ào”; thậm chí: “Sóng dồn<br />
từng lớp không ngăn được tên bắn thành làn; Tiếng gió thổi ào ào không át được tiếng<br />
trống rung”…<br />
Dĩ nhiên, một bài thơ Đường luật không phải toàn bộ đều buộc phải tuân theo bút pháp<br />
trên đây. Vào liên thơ kết, thay vì chỉ đồng liệt các hình tượng và để chúng thể hiện, phản<br />
ánh một trạng thái so sánh ngầm, nhà thơ đã đưa vào trong câu thơ yếu tố ngôn từ suy luận.<br />
Vào lúc đó, nếu vẫn dùng bút pháp ẩn dụ, nhà thơ đã có thể không ngại dùng từ biểu lộ<br />
hành động so sánh mà không sợ làm mất đi sự hàm súc tư tưởng. Liên thơ kết thúc bài<br />
Bạch Đằng giang của vua Trần Minh Tông là một ví dụ xuất sắc: 江水渟涵斜日影, 錯疑<br />
戰血未曾乾 (Giang thủy đình hàm tà nhật ảnh, Thác nghi chiến huyết vị tằng can - Nước<br />
sông chan chứa rọi bóng mặt trời buổi chiều đỏ ối, Còn ngỡ là máu chiến trường thuở<br />
trước chưa từng khô) [5]. Nhưng ngay cả trường hợp này vẫn tiếp tục cho ta thấy ngữ pháp<br />
của thơ đặc biệt như thế nào. Chính đó là điều phân biệt thơ ca với văn xuôi. Ít ra là qua<br />
các ví dụ dẫn ra từ hai thi tác viết về Bạch Đằng giang trên đây ta đã thấy sự miêu tả trong<br />
thơ khác sự miêu tả của văn xuôi như thế nào.<br />
<br />
3. KẾT LUẬN<br />
<br />
Việc dẫn ra đây sự miêu tả cùng chi tiết đã xuất hiện trong thơ mà sau đó lại xuất hiện<br />
trong văn xuôi - chẳng hạn Ngô Sĩ Liên đã thực hiện ở Đại Việt Sử kí toàn thư - “Hai vua<br />
đem quân tiếp đến, tung quân đánh lớn, quân Nguyên chết đuối nhiều không kể xiết, nước<br />
sông do vậy đỏ ngầu cả”…, cho thấy rằng việc tìm hiểu ngữ pháp của liên thơ, câu thơ…<br />
quan trọng nhường nào đối với việc hiểu đúng ý tưởng của người sáng tác. Thiết nghĩ,<br />
thẩm bình thơ ca là quyền riêng của mỗi người, nhưng tri thức về thi pháp, cấu trúc ngữ<br />
nghĩa của thơ ca cổ điển vẫn là điều cần coi trọng.<br />
<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
1. Thơ chữ Hán Nguyễn Trãi, - Nxb Văn hoá, 1962.<br />
2. Thăng Long thi văn tuyển (Bùi Hạnh Cẩn dịch), - Nxb Văn học, 2010.<br />
54 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI<br />
<br />
<br />
3. Nguyễn Trãi toàn tập, - Nxb Khoa học Xã hội, 1976.<br />
4. Chương Thâu (2004), Dương Bá Trạc, con người và thơ văn, - Nxb Phụ nữ.<br />
5. Nguyễn Huệ Chi, Trần Thị Băng Thanh, Đỗ Văn Hỷ, Trần Tú Châu (biên soạn) (1988), Thơ<br />
văn Lý - Trần (Quyển thượng), - Nxb Khoa học Xã hội.<br />
6. Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên soạn thảo, Đại Việt sử ký toàn thư, (Viện Khoa học<br />
Xã hội Việt Nam dịch), - Nxb Khoa học Xã hội, 1993.<br />
<br />
<br />
POETRY DUALITY OR POET'S PERCEPTION (READ “BACH<br />
DANG ESTUARY” OF NGUYEN TRAI)<br />
<br />
Abstract: Depiction in poetry is different from that in prose. Poetical grammar allows<br />
poet to create complex metaphor structure and reflect his perception. The analyzation of<br />
poem in “Bach Dang Estuary” helps illustrate this point.<br />
Keywords: Poetical grammar, depict, prose, Bach Dang Estuary.<br />