intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Nguồn gốc và cách làm việc của lốp xe?

Chia sẻ: Nguyen Nhi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

166
lượt xem
36
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đầu tiên hơi lốp xe được tạo ra bởi Scot John Boyd Dunlop để hỗ trợ cho chiếc xe đạp của con trai ông ấy. Con trai ông ấy thường xuyên than phiền là bị đau đầu do sự xóc khi đi trên đường. Nhưng chính thức thì Robert William Thomsom được công nhận là người phát minh ra ý tưởng của lốp xe Các công ty về lốp xe bắt đầu thành lập từ đầu thế kỹ 20. Kể từ sau đó thì các nhà chế tạo lốp xe đã phát triển nhanh chóng và ba công ty hàng...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Nguồn gốc và cách làm việc của lốp xe?

  1. Nguồn gốc và cách làm việc của lốp xe? Đầu tiên hơi lốp xe được tạo ra bởi Scot John Boyd Dunlop để hỗ trợ cho chiếc xe đạp của con trai ông ấy. Con trai ông ấy thường xuyên than phiền là bị đau đầu do sự xóc khi đi trên đường. Nhưng chính thức thì Robert William Thomsom được công nhận là người phát minh ra ý tưởng của lốp xe Các công ty về lốp xe bắt đầu thành lập từ đầu thế kỹ 20. Kể từ sau đó thì các nhà chế tạo lốp xe đã phát triển nhanh chóng và ba công ty hàng đầu đã cho biết họ đã và đang cung cấp cho thị trường toàn cầu khoảng 60% về sản phẩm lốp xe. Hơn 400 công ty về lốp xe sản xuất hơn 1 tỷ lốp xe hàng năm.
  2. Thông tin về kích cỡ, an toàn, tải trọng và áp suất lốp xe Các lốp xe được tạo bởi cao su dẻo, liên kết với dây và khung kết cấu. Các lốp xe của ô tô thì hỗ trợ trong việc thắng, tải trọng, kéo và lái xe. Các bánh xe cũng làm nhiệm vụ hấp thụ dao động do các va đập trên mặt đường và giúp cho xe có thể chạy êm ái. Các kiểu lốp xe khác nhau được sử dụng phụ thuộc vào tính chất mặt đường yêu cấu. Các lớp của lốp xe là lớp cao su đặc, lớp bố sợi dệt chéo và lớp trong cùng gọi là lớp bố ngang.
  3. Kết cấu cơ bản của lốp xe Chúng ta có thể giảm thiểu việc kiểm tra và sữa chữa cho xe bằng cách kiểm tra áp suất lốp xe một cách thường xuyên với một thiết bị đo áp suất lốp xe. Sau khi kiểm tra áp suất xong, ráp lại nắp của van hơi để ngăn hơi ẩm vào bên trong van. Các lốp xe có thể có tuổi thọ khác nhau tùy thuộc vào thói quen lái xe và tình trạng mặt đường. Kiểm tra dạng mòn của lốp xe, điều này có thể cảnh báo về việc có thể có vấn đề ở hệ thống treo hoặc hệ thống lái. Click this bar to view the original ima ge of 610x373px.
  4. Các dạng mòn của lốp xe Thỉnh thoảng lốp xe sẽ có các dạng vệt mòn không bình thường như các vệt mòn phẳng, vệt sâu hay vệt mòn quá lớn trên một bề mặt của lốp xe. Nhưng tất cả chúng đều có thể trở thành dấu hiệu của xe sự quá tải, vấn đề cân bằng, hư hỏng ở các bộ phận của hệ thống treo phía trước hoặc sự sai lệch. Kiểm tra các lốp xe xem có các lỗ thủng nhỏ, các vết cắt và các vật đâm vào như vít, đinh, thủy tinh vỡ và kim loại. Một lỗ thủng nhỏ có thể làm cho hơi bay hết ra ngoài, có thể kiểm tra bằng cách phun nước xà phòng lên khu vực khả nghi và tìm các bong bóng nổi lên. Các miếng dán vá lốp có thể được dán bên trong lốp xe. Dụng cụ ghim lốp xe cũng được sử dụng trong bộ dụng cụ vá xe và có thể được sử dụng để sữa chữa các lỗ nhỏ. Bất cứ khi nào kiểm tra các lốp của xe hãy để xe trên một bề mặt phẳng, phái trước các lốp xe phải là những mặt phẳng. Các lốp xe được thiết kế để hoạt động với một áp suất hơi đặc biệt phù hợp với sức nặng của xe. Nếu các lốp xe được bơm quá căng, nó sẽ là nguyên nhân làm cho các lốp xe mau chóng mòn. Việc bơm quá căng có thể cũng là nguyên nhân làm lốp bị hỏng do nổ lớp.
  5. Nếu bơm các bánh xe quá mềm, nó sẽ là nguyên nhân làm cho các bánh xe làm việc quá sức của chính nó và kết quả là hư hỏng bên trong lốp xe. Bánh xe mềm có thể là nguyên nhân làm tiêu hao nhiên liệu do sức cản lăn của xe. Một thiết bị đo áp suất lốp xe dùng để kiểm tra áp lực bên trong lốp xe. Áp suất lốp xe chính xác là điều cốt yếu để xe hoạt động chính xác và tăng cao tuổi thọ cũng như tính năng tốt nhất. Một thiết bị đo áp suất được cấu tạo với một màng nhỏ kèm theo một thiết bị đo. Kiểu thiết bị đó có thể khác nhau từ kĩ thuật số đến dạng kim trượt bên trong. Một thiết bị đo áp suất có thể đo chính xác tới +/- 3 PSI, tuy nhiên có những đời mới hơn với những tính năng mới có thể đo chính xác tới +/- PSI. Nếu các lốp xe trở nên mòn ở mặt trước hoặc mặt sau của lớp, điều đó có nghĩa là có thể xảy ra một trong hai trường hợp sau. Nếu các bánh xe mòn bên ngoài của lớp thì nó có thể là do sự điều chỉnh góc “ toed-in” hoặc và góc Camber +. Nếu các bánh xe mòn bên trong thì có nghĩa là do sự điều chỉnh ở góc “ Toed out” hoặc góc Camber -. Có những thứ có thể là nguyên nhân làm lốp mòn không giống như 2 trường hợp trên, đó là hư hỏng ở hệ thống treo, như vậy phải kiểm tra hệ thống treo trước khi thực hiện hiệu chỉnh. Các vệt lõm của lốp là môt tình trạng do lốp nhanh chóng nảy lên và xuống như lúc lái xe. Nếu các bánh xe có dấu hiệu xuất hiện vệt lõm, điều này có nghĩa là lốp xe không cần bằng một cách chính xác hoặc các phuộc giảm xóc bị hư hỏng làm mất khả năng giữ cứng cho bánh xe, kết quả là xảy ra tình trạng các vệt lõm.
  6. Đo vết mòn lốp xe Các dạng mòn của lốp xe có thể được kiểm tra với thiết bị đo chiều sâu vỏ lốp xe. Một khi độ sâu là nhỏ nhất so với qui định thì nên thay lốp xe. Hầu hết các lốp xe nên được đảo theo khuyến cáo của nhà chế tạo Thông thường có ba kiểu đảo lốp xe: Kiểu đảo hướng trước ra sau, sau ra trước; kiểu đảo không theo hướng mà chéo nhau, hoặc đảo luân phiên nhau, như hình bên dưới.
  7. Các dạng đảo lốp Ở kiểu đảo theo hướng trước sau thì bánh trước được đổi với bánh xe (không chéo nhau). Ở kiểu không theo hướng thì các bánh trước và sau được đổi chéo nhau và cứ nhưu vậy. Sau khi các bánh xe được đảo thì áp suất của bánh xe nên được kiểm tra lại và hiệu chỉnh theo yêu cầu kĩ thuật. Lốp “ Run Flat”: Một khái niệm khá mới về cấu tạo của loại lốp “ run flat” nó có thể tiếp tục được lái ở một giới hạn về thời gian khi lốp còn ít hoặc hết hơi. Có hai loại lốp “ run flat”: Một loại cấu tạo gồm có ruột bên trong, được điền đầy hơi và được sử dụng khi lốp chính mất hết hơi.
  8. Một loại lốp “Run Flat” Một loại lốp “ run flat” khác thì được cấu tạo bởi một lớp cao su, lớp cao su này sẽ đỡ và giữ xe bởi sức nặng của xe, trong một giới hạn về thời gian khi lốp non hơi hoặc hết hơi mà vẫn tiếp tục chạy xe. Cả hai loại lốp này đều đắt hơn so với lốp nguyên bản. Khi sự phổ biến của các lốp xe tăng lên thì giá cả sẽ trở nên hợp lí hơn bởi vì tiến trình chế tạo có thể được phát triển hiệu quả hơn. Nếu xe được trang bị lốp “run flat” từ nhà sản xuất, thông thường không có lốp dự phòng cho xe.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2