intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Nguồn nhân lực chất lượng cao trong quá trình phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay

Chia sẻ: Nguyễn Văn H | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

87
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong bối cảnh hiện nay, để đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế nhằm thực hiện mục tiêu“tạo nền tảng để đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”và có thể phát triển đất nước bền vững, Đảng Cộng sản Việt Nam nhận thấy phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong ba đột phá chiến lược của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 – 2020

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Nguồn nhân lực chất lượng cao trong quá trình phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay

Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật<br /> <br /> NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO TRONG<br /> QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC<br /> Ở VIỆT NAM HIỆN NAY<br /> Hoàng Xuân Sơn∗, Hồ Thị Thanh Trúc ∗∗<br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Trong bối cảnh hiện nay, để đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước<br /> và hội nhập quốc tế nhằm thực hiện mục tiêu“tạo nền tảng để đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản<br /> trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”và có thể phát triển đất nước bền vững, Đảng<br /> Cộng sản Việt Nam luôn chú trọng đến phát triển con người nói chung, phát triển nguồn nhân lực<br /> nói riêng, trong đó phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong ba đột phá chiến lược<br /> của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) và Chiến lược<br /> phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 – 2020.<br /> Từ khóa: nguồn nhân lực chất lượng cao, kinh tế tri thức, Việt Nam<br /> <br /> HIGH QUALITY HUMAN RESOURCE DEVELOPMENT IN QU1<br /> KNOWLEDGE ECONOMY IN VIETNAM TODAY<br /> ABSTRACT<br /> In this context, to promote the industrialization and modernization of the country and<br /> international integration to achieve the objective of “creating a foundation for 2020 put our<br /> country basically becomes an industrialized country modern” and maybe sustainable development<br /> of the country, the Communist Party of Vietnam has always focused on human development in<br /> general, human resource development in particular, in which the development of high quality<br /> human resources is a in three strategic breakthrough of the Platform for national construction in<br /> the transition to socialism and economic development strategy - social period 2011-2020.<br /> Keywords: high quality human resources, knowledge economy, Vietnam<br /> ∗<br /> <br /> ThS. Giảng viên khoa Lý luận chính trị, trường Đại học Kinh tế TP.HCM<br /> <br /> ∗∗<br /> <br /> ThS. Giảng viên Trường Cao đẳng Tài chính – Hải quan<br /> <br /> 94<br /> <br /> Nguồn nhân lực . . .<br /> <br /> 1. Nguồn nhân lực chất lượng cao và<br /> kinh tế tri thức<br /> Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng<br /> sản xuất mới vào khoảng giữa thế kỷ XX đã<br /> dẫn tới một hình thái kinh tế mới. Đó là một<br /> nền kinh tế trong đó việc sáng tạo tri thức,<br /> sự lan truyền và quảng bá nhanh tri thức đưa<br /> vào ứng dụng là động lực chủ yếu của tăng<br /> trưởng kinh tế, tạo ra của cải, tạo ra việc làm<br /> cho tất cả các ngành kinh tế. Nhà kinh tế học<br /> P.F.Durker gọi đó là nền “kinh tế tri thức” và<br /> tên gọi này hiện nay đã trở thành phổ biến với<br /> việc sử dụng chính thức của Ngân hàng Thế<br /> giới (WB). Trong nền kinh tế mới, kinh tế tri<br /> thức sản xuất chủ yếu dựa vào nguồn lực tri<br /> thức. Tài nguyên và vốn dù quan trọng vẫn<br /> chỉ giữ vai trò thứ yếu.<br /> Trong tiến trình lịch sử phát triển của nhân<br /> loại, con người là động vật duy nhất có năng<br /> lực sáng tạo tri thức, do đó, biết lao động sản<br /> xuất và tiến dần tới nền kinh tế dựa vào tri<br /> thức là chính. Bởi vậy, kinh tế tri thức là một<br /> lịch sử tất yếu.<br /> Hiện nay, trên thế giới, khái niệm “kinh tế<br /> tri thức” có nhiều cách diễn đạt khác nhau. Tổ<br /> chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD)<br /> đưa ra định nghĩa: “Kinh tế tri thức là nền<br /> kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử<br /> dụng tri thức giữ vai trò quyết định đối với<br /> sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao<br /> chất lược cuộc sống”; còn Viện Ngân hàng<br /> Thế giới (WBI) lại cho rằng: “Nền kinh tế tri<br /> thức là nền kinh tế dựa vào tri thức như là<br /> động lực chính cho sự tăng trưởng kinh tế. Đó<br /> là nền kinh tế trong đó tri thức được lĩnh hội,<br /> sáng tạo, phổ biến và vận dụng để thúc đẩy<br /> phát triển”. Cũng có cách nêu ngắn gọn hơn<br /> là: “Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế mà tri<br /> thức là “đầu vào” (input) cơ bản của quá trình<br /> phát triển kinh tế”. Tuy cách diễn đạt có khác<br /> <br /> nhau, nhưng đều cho thấy điểm chung nhất<br /> trong nền kinh tế tri thức là công nghệ và tri<br /> thức đóng vai trò quyết định nhất đối với sự<br /> phát triển kinh tế.<br /> Tóm lại, có thể hiểu kinh tế tri thức là nền<br /> kinh tế mà sự phát triển của nó dựa chủ yếu vào<br /> tri thức, trên nền tảng tri thức; tri thức chiếm tỉ<br /> trọng lớn trong giá trị sản phẩm xã hội.<br /> Để cụ thể hóa trong việc đánh giá trình<br /> độ phát triển kinh tế tri thức của các nước<br /> trên thế giới, Ngân hàng Thế giới (WB) đưa<br /> ra chỉ số kinh tế tri thức KEI (Knowledge<br /> Economy Index), với thang điểm thấp nhất là<br /> 0 và cao nhất là 10. Theo đó, chỉ số KEI của<br /> Việt Nam năm 2012 còn rất thấp, chỉ là 3,4<br /> xếp thứ 104/145 quốc gia được xếp loại, tăng<br /> 9 bậc so với năm 2000, trong khi các nước có<br /> thu nhập trung bình chỉ số này là 4,1. Thêm<br /> vào đó, năng suất lao động của nước ta rất<br /> thấp. Theo Nghiên cứu của Tổ chức Lao động<br /> Quốc tế (ILO) công bố năm 2013 cho thấy<br /> năng suất lao động của Việt Nam năm 2013<br /> thuộc nhóm thấp nhất Châu Á – Thái Bình<br /> Dương – thấp hơn Singapore gần 15 lần, thấp<br /> hơn Nhật 11 lần và Hàn Quốc 10 lần. So với<br /> các nước láng giềng ASEAN có mức thu nhập<br /> trung bình, năng suất lao động của Việt Nam<br /> vẫn có khoảng cách lớn, chỉ bằng một phần<br /> năm Malaysia và hai phần năm Thái Lan14.<br /> Theo Ngân hàng Thế giới (WB), sự phát<br /> triển của nền kinh tế tri thức của một quốc gia<br /> dựa trên bốn trụ cột sau: lực lượng lao động<br /> trình độ cao, chất lượng cao; hệ thống sáng<br /> tạo và ứng dụng công nghệ có hiệu quả; hệ<br /> thống cơ sở hạ tầng, thông tin, tin học hiện<br /> đại; hệ thống thể chế xã hội và thể chế kinh tế<br /> hiện đại. Ngoài ra, kinh tế tri thức còn được<br /> xác định dựa trên bốn tiêu chí cơ bản như sau:<br /> 14 http://kinhdoanh.vnexpress.net/tin-tuc/doanh-nghiep/motnguoi-singapore-lam-bang-15-nguoi-viet-2989707.html; Ngày<br /> truy cập: 01/7/2015<br /> <br /> 95<br /> <br /> Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật<br /> <br /> ≥ 70% GDP do đóng góp của các ngành kinh<br /> tế tri thức; ≥ 70% giá trị gia tăng do lao động<br /> trí óc mang lại; ≥ 70% lực lượng lao động xã<br /> hội là lao động trí óc; ≥ 70% vốn sản xuất là<br /> vốn về con người.<br /> Như vậy, theo Ngân hàng Thế giới (WB),<br /> trụ cột quan trọng nhất của nền kinh tế tri thức<br /> chính là “lực lượng lao động trình độ cao, chất<br /> lượng cao”; còn trong bốn tiêu chí xác định<br /> nền kinh tế tri thức thì có đến ba tiêu chí liên<br /> quan đến nguồn nhân lực chất lượng cao. Qua<br /> đây chúng ta thấy rằng để phát triển được nền<br /> kinh tế tri thức thì nguồn nhân lực chất lượng<br /> cao đóng vai trò quan trọng nhất. Do vậy, phát<br /> triển kinh tế tri thức tốt nhất trong bối cảnh<br /> hiện nay của Việt Nam là phải thúc đẩy phát<br /> triển đội ngũ lao động chất lượng cao. Và, chỉ<br /> có phát triển đội ngũ lao động chất lượng cao<br /> để phát triển kinh tế tri thức, Việt Nam mới có<br /> thể thực hiện được mục tiêu “tạo nền tảng để<br /> đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành<br /> một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”<br /> hay xa hơn là “từ nay đến giữa thế kỷ XXI,<br /> nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện<br /> đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa”15.<br /> Vấn đề được đặt ra là, nguồn nhân lực chất<br /> lượng cao là gì? Theo cách hiểu mang tính<br /> chất định tính thì “nguồn nhân lực chất lượng<br /> cao là một bộ phận của lực lượng lao động, có<br /> khả năng đáp ứng những yêu cầu phức tạp của<br /> công việc, từ đó tạo ra năng suất và hiệu quả<br /> cao trong công việc, có những đóng góp đáng<br /> kể cho sự tăng trưởng và phát triển của cộng<br /> đồng cũng như của toàn xã hội”16.<br /> Mặt khác, mỗi quốc gia để phát triển bao<br /> giờ cũng phải có các nguồn lực cho sự phát<br /> triển. Trong bất kỳ hình thái kinh tế xã hội<br /> <br /> nào, trình độ và tính chất phát triển ra sao thì<br /> các nguồn lực cho sự phát triển vẫn là tư liệu<br /> sản xuất (đất đai, tài nguyên, máy móc thiết<br /> bị, công nghệ, tài chính...) và sức lao động<br /> (nguồn nhân lực và rộng ra là nguồn vốn con<br /> người, vốn xã hội, vốn thể chế...). Trong đó,<br /> sức lao động - nguồn nhân lực - con người là<br /> yếu tố động nhất, nguồn gốc của mọi của cải<br /> vật chất và sức sáng tạo ra các nền văn minh.<br /> Thực tiễn lịch sử phát triển của nhân loại cho<br /> thấy, sự thành bại của các quốc gia không thể<br /> là quá trình lịch sử tự nhiên, mà là một quá<br /> trình liên tục kế tiếp nhau của năng lực sáng<br /> tạo mang tính cách mạng của nhân loại qua<br /> các khúc quanh lịch sử. Một quốc gia giàu tài<br /> nguyên thiên nhiên, rất thuận lợi cho sự phát<br /> triển, nhưng chưa hẳn là quốc gia giàu có và<br /> ngược lại, Nhật Bản là một minh chứng rõ<br /> nhất cho vấn đề này.<br /> Tóm lại, về cơ bản chúng ta có thể khẳng<br /> định rằng, nguồn lực con người, vốn con người<br /> là hết sức quan trọng trong chiến lược và chính<br /> sách phát triển của mọi quốc gia. Theo Liên<br /> Hợp quốc thì “nguồn nhân lực là tất cả những<br /> kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm, năng lực và<br /> tính sáng tạo của con người có quan hệ tới sự<br /> phát triển của mỗi cá nhân và đất nước”. Ngân<br /> hàng Thế giới cũng cho rằng “nguồn nhân lực là<br /> toàn bộ vốn con người, bao gồm thể lực, trí lực,<br /> kỹ năng nghề nghiệp của mỗi cá nhân”. Như<br /> vậy, con người là tài nguyên đặc biệt và nguồn<br /> nhân lực là tổng hòa thể lực và trí lực của lực<br /> lượng lao động toàn xã hội. Nguồn nhân lực ấy<br /> kết tinh truyền thống, kinh nghiệm, trí tuệ của<br /> mỗi dân tộc và tinh hoa tri thức nhân loại được<br /> vận dụng để sản xuất ra của cải vật chất và tinh<br /> thần phục vụ cho nhu cầu phát triển hiện tại và<br /> tương lai của mọi quốc gia.<br /> Ðiều này càng hoàn toàn đúng và trở thành<br /> quan trọng hơn trong thời đại ngày nay, khi<br /> <br /> 15 Đảng CSVN (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần<br /> thứ XI, Nxb. CTQG, HN, tr.71<br /> 16 http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Nghiencuu-Traodoi/2014/30648/Giao-duc-dao-tao-voi-phat-trien-nguon-nhanluc-chat-luong.aspx; Ngày truy cập 27/6/2015<br /> <br /> 96<br /> <br /> Nguồn nhân lực . . .<br /> <br /> khoa học và công nghệ đã thực sự trở thành<br /> lực lượng sản xuất trực tiếp, kinh tế tri thức<br /> ngày càng chiếm ưu thế trong phát triển kinh<br /> tế - xã hội của mọi quốc gia - dân tộc; khi lợi<br /> thế cạnh tranh trong nền kinh tế toàn cầu hóa<br /> và hội nhập quốc tế đã không còn dựa trên<br /> con số cộng của các yếu tố cấu thành đầu vào<br /> như: đất đai, khai thác tài nguyên, lao động rẻ,<br /> nhiều vốn tài chính, mà là dựa trên công nghệ,<br /> tri thức, tư duy đổi mới và năng lực sáng tạo<br /> của chính con người. Nguồn nhân lực, nguồn<br /> vốn con người, theo đó, đang ngày càng được<br /> xác định là yếu tố trung tâm trong hệ thống<br /> các nguồn lực phát triển, nhân tố quyết định<br /> việc khai thác, sử dụng, bảo vệ và tái tạo các<br /> nguồn lực khác. Và điều quan trọng hơn, ngày<br /> nay, nguồn nhân lực được mọi quốc gia quan<br /> tâm tới không phải là nguồn nhân lực nói<br /> chung, mà là nguồn nhân lực chất lượng cao.<br /> Ðó là những người lao động có kỹ năng, các<br /> nhà kinh doanh năng động và tài ba, các nhà<br /> quản lý giỏi, các nhà khoa học và công nghệ<br /> xuất sắc, các nhà lãnh đạo chính trị có tầm<br /> nhìn chiến lược và tư duy đổi mới vượt trội.<br /> Do đó, cũng có thể nói, nguồn nhân lực chất<br /> lượng cao là nhân tài của các quốc gia, nhân<br /> tố quyết định năng suất, chất lượng, hiệu quả<br /> và khả năng cạnh tranh của mọi nền kinh tế;<br /> quyết định vận mệnh của các dân tộc và tương<br /> lai phát triển của nhân loại.<br /> 2. Chủ trương phát triển nguồn nhân<br /> lực chất lượng cao gắn vớiphát triển kinh<br /> tế tri thức ở Việt Nam nhằm đẩy mạnh<br /> công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước<br /> Nhận thức rõ vai trò của nguồn nhân lực<br /> đối với yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa,<br /> hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, tại Ðại hội<br /> VIII (1996), Ðảng đã đề ra quan điểm: “Lấy<br /> việc phát huy nguồn lực con người làm yếu<br /> tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền<br /> <br /> vững”17, và “nâng cao dân trí, bồi dưỡng và<br /> phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt<br /> Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công<br /> cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa”18. Ðồng<br /> thời, nhấn mạnh tầm quan trọng và ý nghĩa<br /> quyết định của nguồn nhân lực chất lượng cao<br /> trong điều kiện hội nhập quốc tế sâu rộng và<br /> lợi thế cạnh tranh quốc tế đã thuộc về công<br /> nghệ, tri thức, lao động có kỹ năng..., tại Ðại<br /> hội X (2006), Ðảng đã đề ra chủ trương “đổi<br /> mới toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển<br /> nguồn nhân lực chất lượng cao... chấn hưng<br /> nền giáo dục Việt Nam”19. Và, để thực hiện<br /> thắng lợi công cuộc đẩy mạnh công nghiệp<br /> hóa, hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức phải<br /> phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, tức<br /> là chuyển hướng chiến lược phát triển nguồn<br /> nhân lực từ theo chiều rộng sang chiều sâu,<br /> Ðảng chủ trương phải đặc biệt coi trọng và<br /> nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Theo<br /> tinh thần của Ðại hội X, Hội nghị Trung ương<br /> 7 khóa X đã ban hành Nghị quyết 27 (2009)<br /> về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ<br /> đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất<br /> nước, xác định rõ vai trò căn bản, động lực<br /> của việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng<br /> cao chính là xây dựng đội ngũ trí thức. Ðảng<br /> nhấn mạnh: “Trí thức Việt Nam là lực lượng<br /> lao động sáng tạo đặc biệt quan trọng trong<br /> tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại<br /> hóa đất nước và hội nhập quốc tế, xây dựng<br /> kinh tế tri thức, phát triển nền văn hóa Việt<br /> Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Xây<br /> dựng đội ngũ trí thức vững mạnh là trực tiếp<br /> nâng tầm trí tuệ của dân tộc, sức mạnh của đất<br /> nước, nâng cao năng lực lãnh đạo của Ðảng<br /> và chất lượng hoạt động của hệ thống chính<br /> 17 Đảng CSVN (200), Các nghị quyết của Trung ương Ðảng 19961999, Nxb. CTQG, HN, tr.85<br /> 18 Đảng CSVN (1996), Văn kiện Ðại hội đại biểu toàn quốc lần<br /> thứ VIII, Nxb. CTQG, HN, tr.21<br /> 19 Đảng CSVN (2006), Văn kiện Ðại hội đại biểu toàn quốc lần<br /> thứ X, Nxb. CTQG, HN, tr.91<br /> <br /> 97<br /> <br /> Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật<br /> <br /> trị. Ðầu tư xây dựng đội ngũ trí thức là đầu tư<br /> cho phát triển bền vững”20.<br /> Tại Ðại hội XI (2011) của Ðảng Cộng sản<br /> Việt Nam, xuất phát từ yêu cầu thực hiện mục<br /> tiêu tổng quát là “tạo nền tảng để đến năm<br /> 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành nước công<br /> nghiệp theo hướng hiện đại”, Ðảng đã xác<br /> định ba khâu đột phá chiến lược: hoàn thiện<br /> thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội<br /> chủ nghĩa; xây dựng và hoàn thiện kết cấu hạ<br /> tầng đồng bộ; và phát triển nhanh nguồn nhân<br /> lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao,<br /> trong đó phát triển và nâng cao chất lượng<br /> nguồn nhân lực chất lượng cao được xác định<br /> là “yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển và<br /> ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền<br /> kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và là<br /> lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm<br /> cho phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững”21.<br /> Khâu đột phá này chính là bước ngoặt quan<br /> trọng nhằm tập trung nâng cao sức mạnh nội<br /> sinh: tri thức - trí tuệ của dân tộc Việt Nam<br /> để thích ứng và đột phá phát triển trong một<br /> thế giới năng động, của thời đại khoa học và<br /> công nghệ phát triển như vũ bão; và chỉ có<br /> như vậy, nền kinh tế nước ta mới có được sự<br /> tăng trưởng nhanh, hiệu quả, có chất lượng và<br /> bền vững; mới có thể thoát ra khỏi nguy cơ<br /> rơi vào bẫy thu nhập trung bình đang hiện hữu<br /> và sớm đưa nước ta trở thành một nước công<br /> nghiệp theo hướng hiện đại.<br /> Quán triệt Nghị quyết Đại hội XI, Chính<br /> phủ đã có hai văn bản rất quan trọng nhằm<br /> phát triển nguồn nhân lực Việt Nam là: Chiến<br /> lược phát triển nhân lực Việt Nam thời kỳ<br /> 2011-2020 đã được Chính phủ thông qua<br /> trong Quyết định số 579/QĐ-TTg, ngày 194-2011 và Quy hoạch phát triển nhân lực Việt<br /> <br /> Nam giai đoạn 2011-2020 cũng đã được Thủ<br /> tướng Chính phủ ký tại Quyết định 1216/QĐTTg, ngày 22-7-2011. Gần đây nhất là việc<br /> Ban Chấp hành Trung ương Đảng thông qua<br /> Nghị quyết 29-NQ/TW về “Đổi mới căn bản,<br /> toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu<br /> cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều<br /> kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội<br /> chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”, Đảng không<br /> chỉ coi giáo dục là quốc sách hàng đầu, là sự<br /> nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân,<br /> mà còn nhấn mạnh ưu tiên đầu tư phát triển<br /> giáo dục trong các chương trình, kế hoạch<br /> phát triển kinh tế - xã hội; chuyển mạnh quá<br /> trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức<br /> sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm<br /> chất người học, học đi đôi với hành, lý luận<br /> gắn với thực tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp<br /> với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội. Đó<br /> là những văn bản pháp lý quan trọng có tính<br /> định hướng để phát triển nhân lực Việt Nam<br /> đến năm 2020 nhằm phát triển kinh tế tri thức<br /> và phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện<br /> đại hóa đất nước.<br /> 3. Thực trạng đào tạo và phát triển<br /> nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam<br /> thời gian qua<br /> Hiện tại, Việt Nam đang sở hữu một nguồn<br /> nhân lực khá dồi dào về số lượng nhưng lại<br /> rất hạn chế về mặt chất lượng. Cả nước có<br /> khoảng 14.000 tiến sĩ và tiến sĩ khoa học;<br /> 1.432 giáo sư; 7.750 phó giáo sư; 16.000 thạc<br /> sĩ; 30.000 cán bộ hoạt động khoa học và công<br /> nghệ; 52.129 giảng viên đại học, cao đẳng,<br /> trong số đó 49% giảng viên đại học có trình<br /> độ thạc sĩ trở lên. Cả nước hiện có 14.000 giáo<br /> viên trung cấp chuyên nghiệp; 11.200 giáo<br /> viên dạy nghề và 925.000 giáo viên hệ phổ<br /> thông. Trong số 9.000 tiến sĩ được điều tra thì<br /> có 70% giữ chức vụ quản lý, chỉ có 30% thực<br /> <br /> 20 Sđd, tr.91<br /> 21 Ðảng CSVN (2011), Văn kiện Ðại hội đại biểu toàn quốc lần<br /> thứ XI, Nxb. CTQG, HN, tr.130<br /> <br /> 98<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
5=>2