YOMEDIA
Nguyên nhân Viêm khớp sinh mủ
Chia sẻ: Vien Sinh
| Ngày:
| Loại File: PDF
| Số trang:11
67
lượt xem
3
download
Download
Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ
Viêm khớp sinh mủ là viêm khớp do vi khuẩn sinh mủ
không đặc hiệu, không phải do lao, phong hay nấm,
ký sinh trùng hay virut gây nên mà nguyên nhân chính
là do tụ cầu vàng (50 - 70% trường hợp), liên cầu, phế
cầu, lậu cầu, não mô cầu...
AMBIENT/
Chủ đề:
Nội dung Text: Nguyên nhân Viêm khớp sinh mủ
- Viêm khớp sinh mủ
Viêm khớp sinh mủ là viêm khớp do vi khuẩn sinh mủ
không đặc hiệu, không phải do lao, phong hay nấm,
ký sinh trùng hay virut gây nên mà nguyên nhân chính
là do tụ cầu vàng (50 - 70% trường hợp), liên cầu, phế
cầu, lậu cầu, não mô cầu... Có khoảng 10% trường
hợp nhiễm đồng thời nhiều loại vi khuẩn, thường gặp
sau chấn thương. Bệnh có tỷ lệ cao trên nền bệnh
- nhân mắc viêm khớp dạng thấp, suy giảm miễn dịch,
đái tháo đường, bệnh lý mạch máu, dùng corticoid
kéo dài, loét da do viêm mạch, do tỳ đè...
Vi khuẩn xâm nhập khớp bằng cách nào?
Phần lớn các trường hợp mắc
bệnh do vi khuẩn lan truyền theo
đường máu xâm nhập vào khớp.
Thủ thuật dẫn lưu mủ ở
Có thể theo đường kế cận từ
tổn thương viêm khớp
nhiễm khuẩn xương hoặc phần
sinh mủ.
- mềm cạnh khớp hoặc nhiễm khuẩn trực tiếp sau chấn
thương, sau tiêm khớp hoặc sau phẫu thuật. Trong trường
hợp nhiễm khuẩn theo đường máu, vi khuẩn từ các mao
mạch màng hoạt dịch khớp xâm nhập vào màng hoạt
dịch, bám dính tại chỗ gây phản ứng tập trung bạch cầu
trung tính sau ít giờ. Trong vòng 48 giờ, sụn khớp bị tổn
thương do vi khuẩn kích thích các tế bào sụn giải phóng
các protease, các cytokin, do sự xâm nhập trực tiếp của vi
khuẩn và các tế bào viêm vào sụn. Trên mô bệnh học có
thể tìm thấy vi khuẩn ở lớp bề mặt màng hoạt dịch và sụn
khớp cũng như các ổ áp-xe nhỏ trên bề mặt màng hoạt
- dịch khớp, sụn khớp, thậm chí cả ở lớp xương dưới sụn
trong các trường hợp nặng. Màng hoạt dịch tăng sinh tạo
thành hình ảnh màng máu (pannus) phủ trên bề mặt sụn
khớp. Vi khuẩn cũng gây viêm tắc các mạch máu màng
hoạt dịch.
Bệnh biểu hiện tại khớp và cả ngoài khớp
Vị trí tổn thương: 90% bệnh nhân có tổn thương một
khớp, trong đó khớp gối hay gặp nhất, ít gặp hơn là các
khớp háng, vai, cổ tay, cổ chân, khuỷu tay... Các khớp
nhỏ của bàn tay hay bàn chân thường gặp trong những
- trường hợp tiêm tại chỗ trực tiếp hoặc do bị động vật cắn.
Trong trường hợp bệnh nhân có tiền sử dùng thuốc truyền
đường tĩnh mạch, tỷ lệ viêm khớp tại cột sống, khớp cùng
chậu, khớp ức đòn cao hơn viêm các khớp ngoại biên.
Viêm nhiễm khuẩn nhiều khớp hay gặp nhất ở bệnh nhân
viêm khớp dạng thấp.
Triệu chứng tại khớp: Viêm khớp biểu hiện bởi các triệu
chứng sưng, nóng, đỏ, đau. Có thể tràn dịch khớp, co cơ,
hạn chế vận động. Tuy nhiên trong trường hợp khớp nằm
ở vị trí sâu như khớp háng hoặc khớp cùng chậu thì khó
- phát hiện sưng khớp. Có thể gặp viêm mô tế bào, viêm
bao thanh dịch, cốt tuỷ viêm cấp với các triệu chứng lâm
sàng tương tự. Tuy nhiên các bệnh cảnh trên có thể phân
biệt với viêm khớp nhiễm khuẩn ở đặc điểm thường bệnh
nhân không hoặc ít hạn chế vận động khớp.
Triệu chứng ngoài khớp: Hội chứng nhiễm khuẩn với sốt
cao thường trên 38oC, có khi đến 40oC hoặc hơn, có khi
rét run. Tuy nhiên, sốt cao không thường gặp ở những
bệnh nhân già yếu, suy giảm miễn dịch hoặc đang mắc
bệnh viêm khớp dạng thấp.
- Ngoài ra, có thể chẩn đoán bệnh dựa vào các triệu chứng
cận lâm sàng như tế bào máu ngoại biên, chụp Xquang,
chụp cắt lớp vi tính, soi tươi, xét nghiệm dịch khớp...
Cần được phân biệt với:
Viêm khớp do gút cấp: Triệu chứng viêm rầm rộ, sưng
nóng đỏ, đau đột ngột, thường vị trí ở các khớp chi dưới,
đặc biệt bàn ngón chân. Tuy nhiên khi hỏi tiền sử thường
có những đợt viêm tương tự, thời gian kéo dài không quá
2 tuần, thường khởi phát sau bữa ăn thịnh soạn. Điều trị
- bằng colchicin hoặc chống viêm giảm đau không steroid
đáp ứng nhanh.
Viêm khớp do lao: Triệu chứng viêm kém rầm rộ, sưng
nóng đỏ, đau ít. Triệu chứng toàn thân kín đáo (sốt nhẹ về
chiều, gầy sút, hạch ngoại biên...), có thể gặp lao ở vị trí
khác (phổi). Các xét nghiệm về lao dương tính.
Viêm khớp do virut, nấm, kí sinh trùng: Dựa vào các triệu
chứng lâm sàng, đặc biệt nuôi cấy phân lập nguyên nhân
gây bệnh. Ngoài ra, cần phân biệt với một số bệnh khác
như viêm khớp phản ứng (soi, cấy dịch khớp luôn âm
- tính), cốt tuỷ viêm (có hình ảnh tổn thương xương trên
Xquang, chụp cắt lớp vi tính)...
Điều trị như thế nào?
Người bệnh cần được chẩn đoán bệnh sớm, dùng ngay
kháng sinh đường tĩnh mạch, dẫn lưu mủ khớp khi cần
thiết, bất động khớp tương đối có thể ngăn chặn được
tình trạng huỷ hoại khớp. Thực hiện ngay việc cấy máu,
lấy dịch khớp, làm xét nghiệm dịch khớp nhanh bằng
phương pháp soi tươi nhuộm gram tìm vi khuẩn. Căn cứ
kết quả soi tươi nhuộm gram kết hợp với các yếu tố nguy
- cơ dự đoán chủng vi khuẩn, từ đó lựa chọn ngay kháng
sinh thích hợp - trước khi có kết quả cấy máu hoặc dịch
khớp (thường có sau 3 - 5 ngày hoặc lâu hơn tuỳ loại vi
khuẩn). Lưu ý cần tránh việc sử dụng kháng sinh tiêm trực
tiếp vào khớp vì tác dụng không tốt hơn, thậm chí có thể
gây nên tình trạng viêm khớp do tinh thể thuốc.
Dự phòng
Thực hiện vô khuẩn tuyệt đối khi làm các thủ thuật, phẫu
thuật tiến hành tại khớp. Điều trị tốt các nhiễm khuẩn tại
- các cơ quan khác, đặc biệt tại da, phần mềm và xương.
Thêm tài liệu vào bộ sưu tập có sẵn:
Báo xấu
LAVA
ERROR:connection to 10.20.1.100:9315 failed (errno=111, msg=Connection refused)
ERROR:connection to 10.20.1.100:9315 failed (errno=111, msg=Connection refused)
Đang xử lý...