intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Nhà giáo Chu Văn An

Chia sẻ: Trọng Tử | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:24

144
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Chu Văn An (chữ Hán: 朱文安; 1292–1370), tên thật là Chu An, hiệu là Tiều Ẩn (樵隱), tên chữ là Linh Triệt (靈澤), là một nhà giáo, thầy thuốc, đại quan nhà Trần trong lịch sử Việt Nam, được phong tước Văn Trinh Công nên đời sau quen gọi là Chu Văn An. Quê ông ở làng Văn Thôn, xã Quang Liệt, huyện Thanh Đàm (nay thuộc xóm Văn, xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Nhà giáo Chu Văn An

  1. Chu Văn An Chu Văn An (chữ Hán: 朱文安; 1292–1370), tên thật là Chu An, hiệu là Tiều Ẩn (樵隱), tên chữ là Linh Triệt (靈澤), là một nhà giáo, thầy thuốc, đại quan nhà Trần trong lịch sử Việt Nam, được phong tước Văn Trinh Công nên đời sau quen gọi là Chu Văn An. Quê ông ở làng Văn Thôn, xã Quang Liệt, huyện Thanh Đàm (nay thuộc xóm Văn, xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội. Là người chính trực, đã từng đỗ Thái học sinh nhưng không ra làm quan mà mở trường dạy học ở làng Huỳnh Cung, bên kia sông Tô Lịch, ông có công lớn trong việc truyền bá, giáo dục tư tưởng đạo đức Khổng giáo vào Việt Nam. Vua Trần Minh Tông (1300–1357) vời ông ra làm tư nghiệp Quốc tử giám, dạy cho Thái tử Trần Vượng, tức là vua Trần Hiến Tông tương lai. Đến đời Dụ Tông, ông thấy quyền thần làm nhiều điều vô đạo, ông dâng Thất trảm sớ xin chém 7 tên gian nịnh, nhưng vua không nghe. Ông chán nản từ quan về ở núi Phượng Hoàng (Chí Linh, Hải Dương), lấy hiệu là Tiều ẩn (người đi ẩn hái củi), dạy học, viết sách cho tới khi mất. Vinh danh Cuộc đời thanh bạch và tiết tháo của ông là tấm gương sáng của thời phong kiến Việt Nam. Ông là một trong số rất ít bậc hiền nho được thờ ở Văn Miếu. Sự nghiệp của ông được ghi lại trong văn bia ở Văn Miếu-Quốc Tử Giám. Hiện nay còn lăng mộ và đền thờ của ông nằm trên núi Phượng Hoàng, thuộc xã Văn An; cách khu di tích Côn Sơn khoảng 4 km. Đây là một điểm di tích văn hoá và danh thắng, với cảnh rừng thông đẹp trùng điệp, có đền thờ cũ và mới xây xong năm 2007. Lăng mộ Chu Văn An nằm trong khu di tích này. Lễ hội vào tháng tám và tháng một, trọng hội vào ngày 25-8 và 26-11. Khu di tích được xếp hạng năm 1998. Câu đối thờ Chu An: Trần vãn thử hà thời, dục vịnh đại phi hiền giả lạc Phượng sơn tồn ẩn xứ, trĩ lưu trường ngưỡng triết nhân phong Dịch : Cuối đời Trần là thời nào, ngâm vịnh rong chơi há chẳng phải là cái thú vui của bậc hiền giả?
  2. Núi Phượng vẫn còn dấu vết ở ẩn, đỉnh non vẫn mãi mãi ngưỡng mộ phong thái của kẻ triết nhân ! Ông được Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chép An (người Thanh Đàm), tính cương nghị, thẳng thắn, sửa mình trong sạch, bền giữ tiết tháo, không cầu lợi lộc. Ông ở nhà đọc sách, học vấn tinh thông, nổi tiếng gần xa, học trò đầy cửa, thường có kẻ đỗ đại khoa, vào chính phủ. Như Phạm Sư Mạnh, Lê Quát đã làm hành khiển mà vẫn giữ lễ học trò, khi đến thăm thầy thì lạy hỏi ở dưới giường, được nói chuyện với thầy vài câu rồi đi xa thì lấy làm mừng lắm. Kẻ nào xấu thì ông nghiêm khắc trách mắng, thậm chí la hét không cho vào. Ông là người trong sạch, thẳng thắn, nghiêm nghị, lẫm liệt đáng sợ đến như vậy đấy. Minh Tông mời ông là Quốc Tử giám tư nghiệp, dạy thái tử học. Dụ Tông ham chơi bời luời chính sự, quyền thần nhiều kẻ làm trái phép nước, An khuyên can, [Dụ Tông] không nghe, bèn dâng sớ xin chém bảy tên nịnh thần, đều là những kẻ quyền thế được vua yêu. Người bấy giờ gọi là "Thất trảm sớ". Sớ dâng lên nhưng không được trả lời, ông liền treo mũ về quê. Ông thích núi Chí Linh, bèn đến ở đấy. Khi nào có triều hội lớn thì đến kinh sư. Dụ Tông đem chính sự trao cho ông, ông từ chối không nhận. Hiến Từ thái hoàng thái hậu bảo: "Ông ta là người không thể nào bắt làm tôi được, ta sai bảo thế nào được ông ta?". Vua sai nội thần đem quần áo ban cho ông. Ông lạy tạ xong, liền đem cho người khác hết. Thiên hạ đều cho là bậc cao thượng. Đến khi Dụ Tông băng, quốc thống suýt mất, nghe tin các quan đến lập vua, ông mừng lắm. Chống gậy đến xin bái yết, xong lại xin trở về quê, từ chối không nhận chức gì. Khi ông mất Vua sai quân đến tế, ban tặng tên thụy, ít lâu sau có lệnh cho tòng tự ở Văn miếu. Tác phẩm - Thất trảm sớ Thất trảm sớ là tờ sớ do Chu Văn An soạn và dâng lên vua Trần Dụ Tông để đề nghị chém 7 người mà ông cho là nịnh thần (Mai Thọ Đức, Trâu Canh, Bùi Khâm, Văn Hiến, Nguyễn Thanh Lương, Tâm Đức Ngưu, Đoàn Nhữ Cẩu[cần dẫn nguồn]). Ban đầu, Dụ Tông còn ít tuổi, có thượng hoàng Trần Minh Tông lo việc triều chính. Sau khi thượng hoàng Minh Tông mất (1357), Dụ Tông tự mình cầm quyền chính. Nhưng Dụ Tông không có tài trị nước. Trong thời gian Trần Dụ Tông trực tiếp cầm quyền trị vì, tình cảnh xã hội rất nhiễu nhương. Dụ Tông là người ăn chơi thích tửu sắc hát xướng. Cận thần nhiều người bất tài,
  3. lo bế vua để lộng hành. Dân tình đói khổ. Nhiều trung thần nghĩa sĩ bị làm hại. Các quan ngự sử vốn chuyên lo việc can ngăn vua nhưng cũng không làm theo. Chu Văn An vốn là người thẳng thắn ngạch trực, có uy tín cao trong triều. Ông đã dũng cảm dâng sớ xin chém bảy nịnh thần. Sớ thất trảm ấy bị thất truyền, không rõ nội dung như thế nào; ngay đương thời cũng ít người được biết ông đã xin chém những ai. Nhưng tờ sớ đă gây chấn động dư luận. Do Thất trảm sớ không được thực hiện, Chu Văn An đã lui về ở ẩn tại tại núi Phượng Hoàng, Chí Linh, Hải Dương. - Tiều ẩn thi tập - Tiều ẩn quốc ngữ thi tập - Tứ thư thuyết ước - Giang đình tác - Linh sơn tạp hứng - Miết trì - Nguyệt tịch bộ Tiên Du sơn tùng kính - Thứ vận tặng Thủy Vân đạo nhân - Xuân đán Tiểu sử thầy Chu Văn An và Thất trảm sớ Chu Văn An (chữ Hán: 朱文安; 1292–1370), tên thật là Chu An, hiệu là Tiều Ẩn (樵隱), tên chữ là Linh Triệt (靈澤), là một nhà giáo, thầy thuốc, đại quan nhà Trần trong lịch sử Việt Nam, được phong tước Văn Trinh Công nên đời sau quen gọi là Chu Văn An. Quê ông ở làng Văn Thôn, xã Quang Liệt, huyện Thanh Đàm (Thanh Trì), nay thuộc xóm Văn, xã Thanh Liệt,huyện Thanh Trì, Hà Nội. Dân ta khi nói về thầy Chu Văn An, ai cũng một lòng ngưỡng mộ, vì thầy là một bậc hiền nho, một tấm gương tiết tháo, suốt đời không màng lợi danh. Thầy có công lớn trong việc truyền bá, giáo dục tư tưởng đạo đức Khổng giáo. Nhận thấy tài năng và đức độ của thầy, vua Trần Minh Tông(1314-1329) mời ra làm Tư nghiệp trường Quốc Tử Giám, dạy học cho thái tử. Đến đời Dụ Tông-thời kỳ suy sụp nhà Trần- tình hình thế sự thay đổi, vua quan ăn chơi sa đoạ, bọn gian thần tham nhũng, đục khoét dân nghèo ngày một nhiều.Cảm xót trước vận mệnh nước nhà, thầy đã nhiều lần can ngăn và dâng sớ chém 7
  4. nịnh thần nhưng đều bất thành nên cáo quan về dạy học, viết sách cho tới khi mất. Sự nghiệp của thầy con ghi và thờ tại Văn Miếu Quốc Tử Giám. Ngày nay khi nhắc đến thầy Chu Văn An, chúng ta thường liên tưởng tới “Thất trảm sớ” với nội dung xin chém 7 nịnh thần. Đây là một tờ sớ mang dấu ấn lịch sử rất quan trọng , người xưa chỉ nghe tiếng “Thất trảm sớ” thôi là đã ca ngợi rồi, nhà sử học Lê Tung(thế kỷ XV) viết, “Thất trảm chi sớ nghĩa động quỷ thần”, danh sĩ Nguyễn Văn Lý(thế kỷ XX) có thơ “Thất trảm vô vi tồn quốc luận/ Cô vân tuy viễn tự thân tâm”, nghĩa : sớ Thất trảm không được thi hành, cả nước bàn luận/Đám mây lẻ loi tuy xa vẫn tự có tinh thần trong lòng. Rất tiếc cho đến nay nội dung tờ sớ đó không ai biết, có thể lúc đó bọn gian thần đã hủy đi để bịt miệng dư luận hoặc ai đó hủy đi để bảo vệ ông cũng nên. Còn vua Dụ Tông thì hoảng sợ, không đủ quyền lực để ra tay. Theo sử sách ghi lại, nhà Trần trải qua 12 đời vua, từ vua đầu tiên Trần Thái Tông năm 1225, đến vua cuối cùng là Trần Thiếu Đế năm 1400. Như vậy nhà Trần kéo dài được 175 năm. Sau đó vào năm 1400 bị Hồ Quý Ly cướp ngôi. Cụ Chu Văn An sinh ra vào thời vua thứ 6 của nhà Trần, tức vua Trần Minh Tông, trải qua đời vua Trần Dụ Tông, và mất vào đời vua thứ 8 của nhà Trần, tức vua Trần Nghệ Tông, năm 1370. Thời vua Trần Dụ Tông là thời kỳ bắt đầu suy sụp của nhà Trần, và cũng chính lúc này thầy Chu Văn An dâng Sớ xin vua Trần Dụ Tông chém 7 tên gian thần, để mong cứu vãn nhà Trần. Như đã nói, chính sử không nêu nhưng trong dân gian vẫn truyền tụng nhiều. Theo cuốn "Vương triều sụp đổ", tiểu thuyết lịch sử của nhà văn Hoàng Quốc Hải, NXB Phụ nữ - 2006, thì bảy tên gian thần bị Chu Văn An xin nhà vua xử trảm, như sau: 1. Hoạn quan chi hậu cục Mai Thọ Đức, kẻ cai quản phi tần và tuyển chọn mỹ nữ, đã lạm dụng chức quyền bắt về vô số con gái nhà lương dân. Để nhiều người chết trẻ, chết già vì mòn mỏi trong cung thất; lại bày ra các trò dâm ô trác táng dẫn Hoàng thượng vào con đường vô đạo. 2. Trâu Canh, viên ngự y phạm tội làm cho Hoàng thượng liệt dương từ năm 3 tuổi, lại bày trò phục dương cho bề trên khi 15 tuổi. Y đã bắt cóc 21 đứa trẻ khỏe mạnh con nhà lương dân, giết đi lấy mật làm thang cho bài thuốc hồi dương của quan gia. Rồi y bày trò cho quan gia thông dâm với chị ruột mình, nói là phương thuốc chữa trị. Trong khi chữa trị cho quan gia, y lại thông dâm với cung nhân của chính quan gia. Trâu Canh là người Hán, cháu nội Trâu Tôn đi theo quân nhà Nguyên vào xâm lược Đại Việt, năm Ất Dậu (1285) thất trận bị quân Đại Việt bắt, y đã xin hàng, lại xin được cư trú. Nay Trâu Canh lộng hành, dẫn dắt đức vua vào con đường thương luân bại lý.
  5. 3. Bùi Khoan, Chính chưởng phụng ngự. Y bày trò cờ bạc rượu chè dơ dáy ngay trong cung thất, dẫn đức vua vào mê lộ, bê tha như đám dân đen ngu muội. 4. Văn Hiến hầu can tội gây bè đảng khiến các đại thần chia rẽ, ngờ vực lẫn nhau, làm cho đức vua khó phân biệt người ngay kẻ nịnh. 5. Hành khiển tả ty lang trung Nguyễn Thanh Lương, xảo trá, dẫn vua vào con đường ăn chơi xa xỉ, tới cạn kiệt quốc khố. 6. Hành khiển hữu ty, hữu bộc xạ Tâm Đức Ngưu đồng lõa với Nguyễn Thanh Lương tìm đủ mọi cách tăng thu thuế khóa, tăng các sắc thuế từ thượng cổ chưa từng có, để bòn rút của dân, lấy tiền chi vào các cuộc ăn chơi trác táng của hoàng thượng. Kể cả những năm mất mùa đói kém, dân chết đói đầy đường, chúng cũng không tha giảm. 7. Đoàn Nhữ Cẩu, Đồng binh chương sự, bòn rút khẩu phần của lính, các đồ binh khí đã cũ hỏng vẫn không chịu thay thế, để lấy tiền công bỏ túi. Y sao nhãng việc luyện tập canh phòng biên cương phía Bắc, phía Nam gần như bỏ ngỏ. Hiện thời Chiêm Thành đang ráo riết nhòm ngó miền châu Hóa. Lũ gian thần này mượn danh Hoàng thượng để làm các việc, mà nhìn bề ngoài thiên hạ cứ ngỡ là chúng làm vì Hoàng thượng. Nhưng kỳ thực, các khoản chi tiêu cho Hoàng thượng chỉ một phần, còn vào túi chúng tới chín phần. Vì vậy thầy giáo Chu Văn An sau khi vạch tôi đã viết, “Để giữ nghiêm phép nước, nối dòng đại thống từ Thái tông cao hoàng đế tới nay, xin bệ hạ cho chém đầu bảy tên gian thần trên, và tịch thu sản nghiệp của chúng, sung quốc khố, để làm gương răn đe kẻ khác". Dù chỉ là huyền sử nhưng với những tên người cụ thể, với những cáo trạng như vậy cũng là một “giải mả thú vị”, thoả mãn lòng dân. Điều quý hơn hết là dân ta đã một lòng ca ngợi và xem thầy như sao Đấu, sao Khuê, Cao Bá Quát cũng từng viết, Thất trảm yêu ma phải rợn long Trời đất soi chung vầng hào khí Nước non còn mãi nếp cao phong
  6. Nhà giáo Chu Văn An - Người thầy chuẩn mực của Việt Nam muôn đời Chu Văn An (1292 - 1370) còn được gọi là Chu An, Chu Văn Trinh, tự là Linh Triệt, hiệu là Tiều Ẩn, người thôn Văn, xã Quang Liệt, huyện Thanh Đàm (nay là Thanh Trì), Hà Nội. Những ghi chép về nghiệp học của ông thuở thiếu thời hiện không thống nhất. Có sách ghi ông thi đỗ Thái học sinh (Tiến sỹ), lại có ý kiến khác cho rằng ông không đỗ đạt gì. Đời Vua Trần Minh Tông, Chu Văn An được mời ra giữ chức Tư nghiệp Trường Quốc Tử Giám. Đến đời Trần Dụ Tông, ông từ chức về ở ẩn tại Làng Kiệt Đặc, Huyện Chí Linh (Hải Dương), làm nhà ở giữa hai ngọn núi Kỳ Lân – Phượng Hoàng và mở trường dạy học. Ít năm sau khi lên ngôi, Vua Trần Dụ Tông có chỉ triệu Chu Văn An hồi triều nhưng ông từ chối nên Vua tỏ ý giận dữ. Thân mẫu Vua là Hoàng Thái hậu Bảo Từ khuyên: “Người ấy là bậc cao hiền, Thiên tử không có quyền bắt người ta làm tôi được”. Khi Trần Nghệ Tông lên ngôi, có mời nhưng ông chỉ về Kinh chúc mừng, rồi trở lại núi cũ, không nhận chức tước. Sau khi Chu Văn An mất, ông được triều đình truy tặng tước Văn Trinh Công (tên gọi Chu Văn Trinh là do sự ân tặng này). Ông được ban tên thụy là Khanh Tiết và thờ ở Văn Miếu. Nét nổi bật hơn cả ở con người Chu Văn An đó là một người thầy mẫu mực trong lịch sử đất nước ta. Từ trước đời Trần, có biết bao nhiêu người thầy với những cống hiến lớn lao, và các triều đại về sau lại càng nhiều những bậc tôn sư đạo cao đức trọng, thế nhưng không ai có thể so sánh được với Chu Văn An. Người thầy này có nhiều điều đáng quý: Ông đã dạy các lứa học trò từ bậc cao nhất cho đến lớp học trò bình thường ở nông thôn. Ông là thầy (Tư phó) ở Trường Quốc Tử Giám dạy con em các vua quan. Ông đã mở một trường tư nhỏ tại huyện Thanh Đàm, lấy tên là trường Huỳnh Cung (làng Cung Huỳnh, cạnh làng Văn, huyện trên, nơi Chu Văn An làm nhà đọc sách). Tuy trường nhỏ nhưng đã thu nạp hàng ngàn môn sinh đến chật cửa. Chính từ trường Huỳnh Cung này mà Chu Văn An nức tiếng, được Vua mời về Quốc Tử Giám. Nội dung dạy học của ông ngày nay không còn được biết đến một cách đầy đủ, nhưng chắc chắn ông đã nỗ lực giảng giải học thuyết kinh điển của Nho gia, tạo điều kiện cho lý thuyết Khổng – Mạnh dần dần chiếm thế độc tôn. Ta biết rằng, dưới thời Lý cũng như thời Trần, đạo Phật là Quốc giáo. Nhiều vị vua đi sâu vào Phật học và có những lý thuyết riêng cho Phật giáo Việt Nam, dân chúng cũng rất mộ Phật. Để làm cho Nho học có một vị trí lớn trong giáo dục thời bấy giờ không phải là điều đơn giản, nhưng Chu Văn An đã làm được điều này, khiến cho mọi tầng lớp Vua quan sùng Nho về sau đều biết ơn ông.
  7. Ta không thấy ông trực tiếp bài bác Phật giáo, nhưng các học trò được ông dạy dỗ, khi ra làm quan lại phê phán đạo Phật. Bởi vì bài Phật để tôn Nho là theo đúng phương hướng, ý chí người thầy của họ. Về phương pháp dạy học, Chu Văn An có một phong cách đặc biệt hấp dẫn, khiến cho mọi người đều phải kính nể, tôn phục. Tài liệu xưa còn ghi lại, ông rất nghiêm nghị và gương mẫu. Những học trò cũ đã làm quan to như Phạm Sư Mạnh, Lê Quát lúc về thăm ông vẫn phải khép nép giữ gìn, và sau khi có điều gì chưa đúng phép, ông vẫn nghiêm khắc dạy bảo. Sự nghiêm minh này càng khiến ông được học trò kính mến hơn. Có giai thoại kể rằng, ông có người học trò vốn là Thủy thần, đã biến hình để xin được vào trường học. Câu chuyện khó tin, nhưng lại khẳng định: Cái đức và cái tài của Chu Văn An khiến quỷ thần cũng phải tìm đến để xin thụ giáo. Hơn ai hết, chỉ riêng Chu Văn An mới có được câu chuyện về đạo đức siêu trần này. Phải như thế mới hiểu được vì sao mà chung quanh thầy giáo Chu Văn An người đời đã thêu dệt nhiều truyện hoang đường kỳ dị. Còn một số tài liệu cho biết thêm rằng, Chu Văn An cũng là một nhà nghiên cứu Đông y, đã biên soạn cuốn “Y học yếu giải tập chu di biên”, sách “Thanh Trì Quang Liệt Chu thị di thư” cũng nói như vậy. Vấn để này còn phải được thẩm định thêm. Sinh thời, Chu Văn An luôn luôn được dân chúng ca ngợi về phẩm chất thanh cao tuyệt vời của ông. Ông được tôn là Vạn thế sư biểu, nghĩa là người thầy chuẩn mực của Việt Nam muôn đời. Sau khi ông qua đời, triều đình đã đưa ông vào thờ ở Văn Miếu, xem ông ngang hàng với những bậc Thánh hiền ngày xưa. Trần Nguyên Đán đánh giá về những đóng góp của ông: Nhờ có ông mà “bể học xoay làn sóng, phong tục trở lại thuần hậu”. Nhà sử học Ngô Sỹ Liên đời Lê Thánh Tông đã phải khen: “… Những nhà Nho ở nước Việt ta được dùng ở đời không phải không nhiều, có kẻ chỉ nghĩ đến công danh, kẻ thì chuyên lo về phú quý, kẻ lại a dua với đời, có kẻ chỉ biết ăn lộc giữ thân. Người chịu để tâm đến đại đức, suy nghĩ đến việc giúp Vua nêu đức tốt cho dân được nhờ ơn, Chu Văn An ở đời Trần có lẽ gần được như thế…”. Người dân vùng quê Thanh Đàm thờ ông làm Thành hoàng và gọi là đức Thánh Chu. Việt Nam có những thánh võ như Thánh Dóng, Thánh Trần, thì cũng phải có cả Thánh văn. Thánh văn là nhà giáo, là thầy Chu Văn An. Những di tích trong nước có liên quan đến ông đều gắn với uy danh người thầy giáo: Đền Thanh Liệt, Đền Huỳnh Cung, Đền Văn Điển, Đền Phượng Sơn, Mả Thuồng Luồng, Đầm Mực, Linh Đàm, v.v… Vị trí của ông trong lịch sử giáo dục Việt Nam hoàn toàn được khẳng định./. PGS Vũ Ngọc Khánh
  8. Chu Văn An - Nhà giáo dục đầu tiên của Việt Nam Chu Văn An (còn gọi là Chu An) người thôn Văn, Xã Quang Liệt, nay là Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội (quê mẹ). Theo Đăng khoa học bổ dị, từ 14, ông thi đậu Thái học sinh (như tiến sĩ) nhưng không ra làm quan. Ông mở trường dạy học trên một cánh đồng tại làng Huỳnh Cung, giáp với thôn Văn. Học trò của ông rất đông, nhiều người thành đạt như Phạm Sư Mạnh, tể tướng đời Trần Dụ Tông, Lê Bá Quát làm thượng thư. Ông dạy học rất nghiêm, lấy mình làm gương mẫu cho học trò noi theo. Tể tướng Phạm Sư Mạnh, Thượng thư Lê Bá Quát, những khi về trường thăm thầy, được thầy khuyên bảo, khen chê đều rất phấn khởi. Tài đức của Chu Văn An đến tai nhà vua. Trần Minh Tông (1300 - 1357) mời ông ra làm tư nghiệp trường Quốc Tử Giám (như phó giám đốc trường đại học) và dạy thái tử học. Thái tử Vượng lúc đó mới khoảng 5 - 6 tuổi. Cho nên ông giảng dạy ở Quốc Tử Giám là chính. 10 tuổi, thái tử Vượng lên ngôi (Trần Hiếu Tông). Vượng mất, Dụ Tông (1336 - 1369) lên nối ngôi khi mới 8 tuổi. Minh Tông vẫn làm Thượng hoàng đến năm 1457 thì mất, chính sự từ đó đổ nát. Dụ Tông trở nên hư đốn, suốt ngày cờ bạc rượu chè. Ông ta thường gọi bọn nhà giàu vào cung đánh bạc; bắt các quan thi uống rượu, ai uống được 100 thăng (chén to) thì thưởng cho hai trật; bắt các công chúa, vương hầu phải hát tuồng trong cung v.v... Chu Văn An nhiều lần khuyên can nhưng không được. Ông dâng sớ xin chém 7 tên nịnh thần. Dụ Tông không nghe. Ông bèn trả lại áo mũ, từ quan về quê. Chu Văn An ở nhà ít lâu, rồi đi chơi đây đó. Đến vùng Chí Linh, Hải Dương thấy thắng cảnh đẹp, ông liền dựng nhà ở núi Phượng Hoàng, thuộc làng Kiệt Đắc. Ông lấy hiệu là Tiều Âấn và mở trường dạy học, sống một cuộc đời thanh đạm. Sau đó, Dương Nhật Lễ cướp ngôi nhà Trần. Hoàng tử Phủ con Trần Minh Tông đánh tan được bọn Nhật Lễ, lên ngôi (Nghệ Tông). Chu Văn An từ Chí Linh chống gậy ra mừng vua. Trần Nghệ Tông (1320 - 1394) muốn mời ông ra tham dự việc triều chính nhưng ông từ chối. Bà hiến Từ hoàng thái hậu đã nói một câu chí lí: "Người ấy là bậc cao sĩ, thanh thiết, nhà vua không thể bắt làm bầy tôi được đâu...". Vua thưởng cho mũ áo, ông nhận và lạy tạ nhưng đem về cho người khác. Ông vui sống với học trò ở núi Phượng Hoàng, rồi mất vào khoảng cuối tháng 11-1370, thọ 78 tuổi (theo Đại Việt sử ký toàn thư).
  9. Trong quá trình dạy học, Chu Văn An đã soạn ra bộ Tứ thư thuyết ước. Theo tên sách ta có thể biết đây là tập giáo trình đầu tiên bàn về bốn quyển sách qui định trong chương trình giảng dạy: Đạ học, Trung Dung, Luật Ngữ và Mạnh Tử. Tiếc thay tập giáo trình này đã bị nhà Minh lấy mất. Nếu còn bộ sách, chúng ta sẽ hiểu cụ thể quan điểm của ông. Ơở miếu thờ Chu Văn An ở làng Huỳnh Cung còn ghi lời của Bùi Huy Bích (1744 - 1802) có đoạn, tạm dịch: Kính nghĩ phu tử, tinh thông về lý học, khi ra đời (xuất thế) cũng vì Lễ, khi ở ẩn (thoái ẩn) cũng vì nghĩa. Những học trò của ngài đã đem bày tỏ rõ ràng được đạo Nho, chống lại tà thuyết, gạt bỏ mê tín. Phong thái và ảnh hưởng của ngài dù đến trăm năm sau cũng cảm thấy như chính mình đang ở gần ngài. Trong Kinh thi, chẳng đã có câu: Núi cao, ngửa trông thấy càng cao, đường lớn càng đi càng thấy xa... Chu Văn An là chủ xướng 4 quan điểm sau: Cùng lý: bàn cãi cho biết lý lẽ của sự vật. Chính tâm: luôn luôn giữ lòng mình cho chính, không làm điều gì trái với lương tâm. Tịch tà: chống lại tà thuyết, những điều nhảm nhí. Cự bí: đấu tranh vượt mọi khó khăn, chống lại những sự việc làm hại đến nhân tâm. Ơở bốn quan điểm này, chúng ta thấy Chu Văn An quan tâm đầy đủ cả hai mặt trí dục và đức dục, học và hành. Chu Văn An là một nhà giáo tài đức trọn vẹn, có đóng góp to lớn với đất nước và đạo học. Có thể coi ông là nhà giáo dục học đầu tiên của Việt Nam vì có nhiều trò giỏi và những công trình biên soạn lớn. Bốn câu thơ sau đây của Đặng Minh Khiêm (nhà vịnh sử đời Lê) có lẽ đã tóm tắt được một phần cuộc đời và con người của ông. Tạm dịch như sau: Sớ thất trảm xong rồi, treo mũ từ quan Trên núi Chí Linh tiên sinh đã vẹn tiết của mình rất thong thả, Phong thái trong sạch và tiết tháo cứng rắn của tiên sinh từ nghìn xưa cũng hiếm có Lòng ngưỡng mộ tiên sinh của các sĩ phu ngun ngút như đỉnh núi Thái Sơn. (Giáo dục - Thời đại 20/11/1998)
  10. Từ bài học về Người Thầy mẫu mực Chu Văn An (Dân trí) - Nhà giáo mẫu mực về nhân cách và khí phách Chu Văn An (1292-1370) nêu tấm gương sáng cho muôn đời: “Làm Thầy giáo giỏi của một đời, để đạt tới làm Thầy giáo giỏi của muôn đời”, đúng như lời bình của Nhà Sử học Phan Huy Chú. Nguyên là đại quan đời Trần, khi Cụ mất, vua Trần đã dành cho Cụ niềm vinh dự lớn bậc nhất đối với một “nguyên khí quốc gia”, một đại trí thức thời đó, và được tôn thờ ở Văn Miếu. Vua còn ban tặng Cụ một tuyên danh, là Văn Trinh. Ông Ngô Thế Vinh - nhà văn học VN nổi tiếng thế kỷ 19, trong bài văn bia ở đền Phương Sơn đã giải nghĩa hai chữ “Văn Trinh”, tóm tắt như sau: Văn - đức chi biểu dã; Trinh - đức chi chính cổ dã. Được hiểu: Văn là sự bên ngoài (thuần nhất) của đức; Trinh là tính chính trực (kiên định) của đức. Danh xưng như vậy nhằm tôn vinh một nhân cách đã kết hợp được hai mặt của tài đức: nhất quán từ văn phong (thuần nhã, hiền hòa,…) ở bên ngoài với bên trong (chính trực, kiên định, thanh khiết). Lịch sử giáo dục nước nhà cũng đặc biệt tôn xưng Cụ ở địa vị cao quý khả kính nhất, xứng đáng đứng đầu các bậc Nhà giáo Danh nhân đất Việt từ xưa tới nay. Sử sách cho biết lúc còn trẻ, Chu Văn An đã nổi tiếng là người cương trực, giữ lòng trong sạch, trau dồi tiết tháo, không màng danh lợi, lo chăm chỉ đọc sách. Sau khi đỗ đạt khoa bảng, dù được vua trân trọng mời nhưng Cụ không ra làm quan, mà về làng mở trường dạy học. Học trò nhiều nơi tìm đến theo học rất đông. Trong số đó có nhiều người thành đạt, thi đỗ ra làm quan to của triều đình, như Phạm Sư Mạnh, Lê Quát khi về thăm Cụ vẫn giữ lễ, trọng đạo thầy trò.
  11. Tranh Chu Văn An trong Văn Miếu, thờ tại Quốc Tử Giám - Hà Nội. Đến triều vua Trần Minh Tông (1314-1329) vời Cụ vào làm Tư nghiệp ở Quốc tử giám, dạy cho Thái tử Trần Vượng, tức là vua Trần Hiến Tông sau này. Thịnh một thời, nhưng tới đời vua Dụ Tông, triều đình thối nát. Thấy quyền thần làm nhiều điều vô đạo, Cụ can gián nhưng vua không nghe. Cuối cùng, Cụ dâng Thất Trảm Sớ xin chém 7 tên gian thần, vua không chịu. Cụ chán nản từ quan, về ở núi Phượng Hoàng (Chí Linh, Hải Dương) dạy học, làm thuốc, viết sách cho tới khi mất. Cuộc đời thanh bạch và tiết tháo của Cụ là tấm gương chói lọi của mọi thời. Sự nghiệp vinh hiển của Cụ đã vượt qua ngưỡng: làm Thầy giáo giỏi của một đời, để đạt tới làm Thầy giáo giỏi của muôn đời, như Nhà Sử học Phan Huy Chú đã ca ngợi như thế về Cụ. …Tấm gương đó cũng cho ta bài học về ngành Sư phạm và nghề Dạy học trong thời buổi hiện nay, khi mà nền giáo dục nước nhà đang có nhiều bất cập. Xã hội đang yêu cầu chấn hưng nền giáo dục như là mệnh lệnh từ cuộc sống. Đòi hỏi đó đã được đưa ra từ nhiều năm nay, nhưng xem ra chưa thay đổi đáng kể, mà hầu như vẫn trên đà suy thoái. Suy thoái nhất là về đạo đức. Ai cũng thấy, muốn chấn hưng nền giáo dục, trước hết phải chấn chỉnh ngành Sư phạm (NSP) và nghề Dạy học (NDH). Triết lý từ cuộc đời và sự nghiệp của Cụ Chu Văn An cho ta bài học rất Nhân Văn trong việc đào tạo người thầy và trong cách làm thầy. Đó là NSP phải đào tạo người thầy có nhân cách (thanh khiết, thuần nhã…) và có khí phách (chính trực, kiên cường…). Phải minh định cụ thể như thế, chứ không thể nói “hồng- chuyên” một cách chung chung, xa vời và trừu tượng.
  12. Cũng theo triết lý cụ thể đó thì các quan chức giáo dục cũng phải là những tấm gương về nhân cách và cả khí phách cho người thầy noi theo. Ít nhất là tránh lối chạy chức chạy quyền hoặc tắc trách trong quản lý đào tạo. Mặt khác, NSP và NDH (thông qua việc quản lý giáo dục) cũng lo chấn chỉnh làm sao để người Thầy không thể tự biến mình thành thợ dạy, càng không thể tự tầm thường hóa thành người bán chữ, bán điểm, bán bằng… vô tình bôi nhọ sự thanh cao của nghề giáo. Thời đại càng công bằng và văn minh, xã hội càng dân chủ và tiến bộ thì NSP và NDH càng được nhà nước quan tâm từ gốc : từ người thầy. Quan tâm không chỉ vì đây là một ngành nghề khơi dậy, ươm mầm, nuôi dưỡng và phát triển nguồn Nguyên Khí Quốc Gia, mà còn vì, đây là một ngành nghề hết sức đặc biệt. Đặc biệt ở chỗ, đối tượng hành nghề và sản phẩm lao động của nó chính là CON NGƯỜI, thay vì đồ vật ; lại là Tâm Hồn và Chất Xám chứ không phải than đá hay quặng nhôm… Còn đặc biệt ở chỗ, sản phẩm đó phải thông qua Giáo dục & đào tạo, nhất là thông qua Tự Giáo dục & Tự Đào tạo mới thành chính phẩm, mới Nên người cho xứng đáng Làm người. Thêm một điều đặc biệt nữa: Công cụ lao động chính của NSP và NDH không phải là bút giấy sách vở, là mô hình giáo cụ hay công nghệ thông tin… mà chủ yếu là TẤM GƯƠNG SÁNG của người Thầy, với toàn bộ những Phẩm chất và Năng lực của Nhà Giáo trước mặt học sinh. Sứ mệnh cao cả và Hào quang hiển vinh của NSP & NDH nằm ở chỗ đó. Xưa nay đã có rất nhiều danh nhân nói lên sự cao quý của NSP & NDH, miễn nhắc lại đây. Hễ ai có một phông văn hóa và một nền học vấn cơ bản đều nhận thức được rằng, để có được những học trò phẩm hạnh và sáng tạo thì phải có gương sáng từ những người thầy tốt về Nhân cách và mạnh về Khí phách.
  13. Bởi thế, sự nghiệp trồng người gắn chặt với sự nghiệp Trồng thầy, mà phải là những người Thầy vừa chân chính, vừa sáng tạo. Quang Dương (Nhà giáo hưu trí) LTS Dân trí - Nhà giáo mẫu mực Chu Văn An quả thật là tấm gương hết sức tiêu biểu và toàn diện để cho các thế hệ nhà giáo muôn đời sau noi theo. Đúng như nhà sử học nổi tiếng Phan Huy Chú đã từng ngợi ca sự nghiệp có ý nghĩa “vượt thời đại” của Cụ là “làm Thầy giáo giỏi của một đời, để đạt tới làm Thầy giáo giỏi của muôn đời”. Từ tấm gương Nhà giáo tiêu biểu Chu Văn An, tác giả bài viết trên đây đã rút ra bài học đích đáng, có tính thời sự, đối với sự nghiệp chấn hưng giáo dục ngày nay, trước hết là phải quan tâm đến việc đào tạo và xây dựng bằng được đội ngũ người thầy có nhân cách và khí phách, có đầy đủ phẩm chất và năng lực làm tấm gương sáng cho học sinh noi theo. Điều đó đòi hỏi các cấp lãnh đạo và quản lý nhận thức sâu sắc hơn tầm quan trọng đặc biệt của sự nghiệp “trồng người” cũng như yêu cầu có tính chuẩn mực rất cao đối với nghề dạy học, để từ đó có sự quan tâm đặc biệt đối với việc đào tạo, bồi dưỡng cũng như tạo điều kiện vật chất và tinh thần cho đội ngũ giáo viên luôn yên tâm gắn bó với nghề, dồn tâm huyết và sức lực cho sự nghiệp “trồng người”. Chu Văn An - người thầy mẫu mực của muôn đời Nhân kỷ niệm 720 năm ngày sinh nhà giáo Chu Văn An (1292 – 2012) và kỷ niệm 30 năm ngày Nhà giáo Việt Nam (1982 – 2012) chúng ta cùng nhớ về người thầy mẫu mực của Việt Nam muôn đời. Chu Văn An (1292 - 1370) còn được gọi là Chu An, Chu Văn Trinh, tự là Linh Triệt, hiệu là Tiều Ẩn, người thôn Văn, xã Quang Liệt, huyện Thanh Đàm (nay là Thanh Trì), Hà Nội. Những ghi chép về nghiệp học của ông thuở thiếu thời hiện không thống nhất. Có sách ghi ông thi đỗ Thái học sinh (Tiến sĩ), lại có ý kiến khác cho rằng ông không đỗ đạt gì.
  14. Ở thế kỷ 13 (triều Trần), không khí học tập khá sôi nổi, nhưng trường thi ít, chỉ để dành cho các con vua, hoàng tộc, quan lại, quý tộc. Các làng có điều kiện mở trường trẻ do thầy đồ, thầy khóa, ông tú, ông cử... không ra làm quan mà ở nhà dạy học. Thầy Chu Văn An mở trường Huỳnh Cung ở một làng quê giáp với làng mẹ sinh sống. Trường của thầy có Hội đồng môn do thầy chọn trong các môn sinh. Và Hội đồng tôn suy tôn trưởng tràng là người giỏi giang và phẩm chất tốt. Do uyên bác, thầy Chu Văn An đủ sức dạy môn sinh học liền 10 năm để nộp quyển dự các kỳ thi hương, thi hội, thi đình, tức tú tài, cử nhân, tiến sĩ. Các môn sinh của thầy, sử sách còn ghi lại: Phạm Sư Mạnh, Lê Quát đỗ Thái học sinh đời vua Trần Anh Tông đã làm quan trong triều đến chức Hành Khiển (Tể tướng). Tiếng thơm của thầy Chu Văn An bay xa, lan tỏa đến cung đình, quan Tư đồ Trần Nguyên Đán (đời vua Trần Minh Tông) đã tìm đến trường Huỳnh Cung để trò chuyện như tìm được người bạn tri kỷ và ướm lời mai mốt nhà vua sẽ ra chiếu chỉ vời ông vào triều dạy học. Thực lòng, Chu Văn An không muốn thay áo đổi giầy (cởi áo the mặc áo dụng xanh, bỏ đôi giầy cỏ xỏ đôi hia hài), mà mừng là, tuy triều Trần đã bắt đầu suy vi nhưng vẫn còn Hoàng thượng thấy được việc học là trọng để duy trì xã tắc, nên muốn góp công vun đắp. Vì ông nghĩ, đất nước thanh bình và thịnh trị điều cơ bản phải có minh quân. Là minh quân thì vị vua ấy phải học, tức là phải học đạo đức, học văn hóa để trị quốc và bình thiên hạ. Vào triều, Trần Minh Tông hai lần đến gặp, trò chuyện, thăm dò tài cao đức trọng của thầy Chu Văn An. Hoàng thượng nói: Trẫm nghĩ không sai khi tuyển khanh vào để cùng với các đại quan chèo lái quốc gia. Nhưng trước mắt, việc của khanh là dạy Thái tử và giữ chức Tư nghiệp. Trần Minh Tông ủy thác cho thầy Chu dạy Trần Vượng. Qua quan Tư đồ Trần Nguyên Đán, Chu Văn An biết được những rắc rối trong việc lập Trần Vượng làm Thái tử, sau lên ngôi vua là Trần Hiến Tông, lúc 10 tuổi. Thầy Chu dạy Trần Vượng từ khi chưa được phong Thái tử. Đây là cậu hoàng tử chăm học, thông minh nên thầy gắng công dạy bảo, rèn dũa. Khi nhiếp chính Thái thượng Hoàng Minh Tông thấy lời lẽ của Hiến Tông rắn rỏi, nên đánh giá cao công lao dạy dỗ của thầy Chu Văn An. Mới ngoài 20 tuổi, Trần Hiến Tông đã theo tiên tổ về nơi chín suối. Sau Hiến Tông là Dụ Tông. Ông vua này cũng được Chu Văn An dạy dỗ. Sống trong hoàng cung và được làm bạn với quan Tư đồ Trần Nguyên Đán, Chu Văn An hiểu rõ tình thế nguy ngập, suy vong của triều đại Hiển Tông, Dụ Tông. Và nhìn lên từ đời Anh Tông, Minh Tông thấy trong triều đã nảy sinh những cận thần hèn kém, chuyên nghĩ cách làm thỏa mãn những thị hiếu của vua, còn những người thẳng thắng can ngăn thì bị cách chức. Anh Tông cách chức
  15. Phạm Mai, Minh Tông cách chức Nguyễn Trung Ngạn... Quan Tư đồ Trần Nguyên Đán thấy Chu Văn An kém vui, một hôm dù đã khuya, ông vẫn đến thăm thầy Chu và bày tỏ tâm can. Thấy có kẻ theo dõi, quan Tư đồ vội vã ra về. Còn lại một mình, Chu Văn An ngồi viết ''thất trảm sớ''. Ông cân nhắc từng chữ, từng tên người và sự việc, ý tứ chặt chẽ, tâm huyết sôi nổi, bày tỏ và hy vọng. Viết xong, ông đem đến để phòng riêng của Dụ Tông - nơi ông đặc cách đến dạy vua. Xong việc, ông thay quần đổi áo... và rời khỏi cung điện. Về thăm mẹ được ít ngày, nghĩ đến “Thất trảm sớ'' và sợ liên lụy cho mẹ, ông quyết định về sống ẩn dật ở Chí Linh, giao việc chăm sóc nuôi dưỡng mẹ cho một môn sinh mà ông có công nuôi dạy và được dân làng mời về dạy ở trường Huỳnh Cung. Dù thay tên là Tiều Ẩn (người kiếm củi ẩn dật) chỉ ít lâu sau, khắp vùng đồn đại tên tuổi thầy Chu Văn An. Người nọ mách người kia dắt con đến nhờ thầy dạy bảo. Vì vậy, ông lại mở trường dạy học. Những ngày thư nhàn, ông ngao du sơn thủy bầu bạn với non xanh nước biếc. Gặp lại Trần Nguyên Đán như gặp lại bạn bè tâm đắc keo sơn. Về đây, ngoài việc dạy học, Chu Văn An còn viết sách làm thơ. Ông viết "Tứ thư thuyết ước” tổng kết bài giảng cùng phương pháp dạy. Về thơ, có "Quốc âm thi tập", ''Tiều ẩn thi tập”. Thời gian ông ở Chí Linh, xảy ra việc Dương Nhật Lễ cướp ngôi Trần. Nhưng chỉ ít lâu sau, dưới sự chỉ huy của Trấn Thủ và chị gái là công chúa Thiên Ninh, lại được sự ủng hộ của Trần Nguyên Đán, Trần Ngạc … đã lấy lại được kinh đô Thăng Long. Trần Phủ lên ngôi, tức Trần Nghệ Tông, Chu Văn An chống gậy về triều chúc mừng. Và, sau đó một năm - năm Canh Tuất, ngày 28 tháng 11 (tức năm 1370), ông mất tại xã Kiệt Đắc, nay là xã Văn An, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, thọ 78 tuổi. Trân trọng tài năng, nhân cách và sự cống hiến của ông, vua Nghệ Tông đã ban tên Thụy là Văn Trinh và cho người mang lễ vật đến viếng và cho thờ ông ở Văn Miếu. Ở núi Phượng Hoàng, Chí Linh, Hải Dương, nơi ông về sống ẩn và dạy học cũng có đền thờ, ghi 8 chữ: "Chu Văn Linh tiên sinh ẩn cư xứ". Nội dung dạy học của ông ngày nay không còn được biết đến một cách đầy đủ, nhưng chắc chắn ông đã nỗ lực giảng giải học thuyết kinh điển của Nho gia, tạo điều kiện cho lý thuyết Khổng – Mạnh dần dần chiếm thế độc tôn. Ta biết rằng, dưới thời Lý cũng như thời Trần, đạo Phật là Quốc giáo. Nhiều vị vua đi sâu vào Phật học và có những lý thuyết riêng cho Phật giáo Việt Nam, dân chúng cũng rất mộ Phật. Để làm cho Nho học có một vị trí lớn trong giáo dục thời bấy giờ không phải là điều đơn giản, nhưng Chu Văn An đã làm được điều này, khiến cho mọi tầng lớp Vua quan sùng Nho về sau đều biết ơn ông. Ông trực tiếp bài bác Phật giáo, nhưng các học trò được ông dạy dỗ, khi ra làm quan lại phê phán đạo Phật. Bởi vì bài Phật để tôn Nho là theo đúng phương hướng, ý chí người thầy của họ. Về phương pháp dạy học, Chu Văn An có một phong cách đặc biệt hấp dẫn, khiến cho mọi người đều phải kính nể, tôn phục. Tài liệu xưa còn ghi lại, ông rất nghiêm nghị và gương mẫu. Những học trò cũ đã làm quan to như Phạm Sư Mạnh, Lê Quát lúc về thăm
  16. ông vẫn phải khép nép giữ gìn, và sau khi có điều gì chưa đúng phép, ông vẫn nghiêm khắc dạy bảo. Sự nghiêm minh này càng khiến ông được học trò kính mến hơn. Có giai thoại kể rằng, ông có người học trò vốn là Thủy thần, đã biến hình để xin được vào trường học. Câu chuyện khó tin, nhưng lại khẳng định: Cái đức và cái tài của Chu Văn An khiến thần linh cũng phải tìm đến để xin thụ giáo. Hơn ai hết, chỉ riêng Chu Văn An mới có được câu chuyện về đạo đức siêu trần này. Trong lịch sử giáo dục nước nhà, ông cũng đã giành được địa vị cao quí bậc nhất, xứng đáng đứng đầu các nhà giáo từ xưa tới nay. Ông đã vượt qua ngưỡng cửa: làm thầy giáo giỏi của một đời để đạt tới làm thầy giáo giỏi của muôn đời như Phan Huy Chú đã ngợi ca ông: "học nghiệp thuần túy, tiết tháo cao thượng, làng Nho nước Việt trước sau chỉ có mình ông, các ông khác không thể so sánh được". Chu Văn An - Người thầy mẫu mực dạy hai vua triều Trần Trên các báo còn ít bài viết đầy đủ về cuộc đời và sự nghiệp ""trồng người"" của nhà giáo Chu Văn An ở thế kỷ 13 mà thường nói đến sự kiện “Thất trảm sớ"và việc treo ấn từ quan của ông. Chuyện kể rằng, bà Lê Thị Chiêm - mẹ của Chu Văn An người làng Văn Thôn, xã Quang Liệt, huyện Thanh Đàm, nay là huyện Thanh Trì, Hà Nội, vào những ngày nông nhàn, từ sáng sớm bà đã đi chợ, cái thúng úp trên vai, trong thúng chỉ có cái đấu mang theo. Vốn liếng chẳng có, bà đến chỗ người có gạo nhà đem bán để mua chịu và đem ra góc chợ chờ người khác đến bán kiếm chút lãi nhỏ. Tan chợ, đầu đội thúng, tay cắp bó bã mía thu ở chợ về làm đồ đun. Bà Chiêm tuy không biết chữ, nhưng như con ong mật làm tổ xây đời, bà đã lo toan cho Chu Văn An học hành thành đạt, đậu Thái học sinh. Tiếng đồn khắp vùng, ông là người tài cao đạo trọng, nhiều người đã biện lễ (trầu, cau, chè) tìm đến xin thầy cho con mình được thọ giáo.
  17. Ở thể kỷ 13 (triều Trần), không khí học tập khá sôi nổi, nhưng trường thi ít chỉ để giành cho các con vua, hoàng tộc, quan lại, quý tộc. Các làng có điều kiện mở trường trẻ do thầy đồ, thầy khóa, ông tú, ông cử... không ra làm quan mà ở nhà dạy học. Thầy Chu Văn An mở trường Huỳnh Cung ở một làng quê giáp với làng mẹ sinh sống. Trường của thầy có Hội đồng môn do thầy chọn trong các môn sinh. Và Hội đồng tôn suy tôn trưởng tràng là người giỏi giang và phẩm chất tốt. Do uyên bác, thầy Chu Văn An đủ sức dạy môn sinh học liền 10 năm để nộp quyển dự các kỳ thi hương, thi hội, thi đình, tức tú tài, cử nhân, tiến sĩ. Các môn sinh của thầy, sử sách còn ghi lại: Phạm Sư Mạnh, Lê Quát đỗ Thái học sinh đời vua Trần Anh Tông đã làm quan trọng triều đến chức Hành Khiển (Tể tướng). Tiếng thơm của thầy Chu Văn An bay xa, lan tỏa đến cung đình, quan Tư đồ Trần Nguyên Đán (đời vua Trần Minh Tông) đã tìm đến trường Huỳnh Cung để trò chuyện như tìm được người bạn tri kỷ và ướm lời mai mốt nhà vua sẽ ra chiếu chỉ vời ông vào triều dạy học. Thực lòng, Chu Văn An không muốn thay áo đổi giầy (cởi áo the mặc áo dụng xanh, bỏ đôi giầy cỏ xỏ đôi hia hài), mà mừng là, tuy triều Trần đã bắt đầu suy vi nhưng vẫn còn Hoàng thượng thấy được việc học là trọng để duy trì xã tắc, nên muốn góp công vun đắp. Vì ông nghĩ, đất nước thanh bình và thịnh trị điều cơ bản phải có minh quân. Là minh quân thì vị vua ấy phải học, tức là phải học đạo đức, học văn hóa để trị quốc và bình thiên hạ. Vào triều, Trần Minh Tông hai lần đến gặp, trò chuyện, thăm dò tài cao đức trọng của thầy Chu Văn An. Hoàng thượng nói: Trẫm nghĩ không sai khi tuyển khanh vào để cùng với các đại quan chèo lái quốc gia. Nhưng trước mắt, việc của khanh là dạy Thái tử và giữ chức Tư nghiệp. Minh Tông ủy thác cho thầy Chu dạy Trần Vượng. Qua quan Tư đồ Trần Nguyên Đán, Chu Văn An biết được những rắc rối trong việc lập Trần Vượng làm Thái tử, sau lên ngôi vua là Trần Hiến Tông, lúc 10 tuổi. Thầy Chu dạy Trần Vượng từ khi chưa được phong Thái tử. Đây là cậu hoàng tử chăm học, thông minh nên thầy gắng công dạy bảo, rèn dũa. Khi nhiếp chính Thái thượng Hoàng Minh Tông thấy lời lẽ của Hiến Tông rắn rỏi, nên đánh giá cao công lao dạy dỗ của thầy Chu Văn An. Mới ngoài 20 tuổi, Hiến Tông đã theo tiên tổ về nơi chín suối. Sau Hiến Tông là Dụ Tông. Ông vua này cũng được Chu Văn An dạy dỗ. Sống trong hoàng cung và được làm bạn với quan Tư đồ Trần Nguyên Đán, Chu Văn An hiểu rõ tình thế nguy ngập, suy vong của triều đại Hiển Tông, Dụ Tông. Và, nhìn lên từ đời Anh Tông, Minh Tông thấy trong triều đã nảy sinh những cận thần hèn kém, chuyên nghĩ cách làm thỏa mãn những thị hiếu của vua, còn những người thẳng
  18. thắng can ngăn thì bị cách chức. Anh Tông cách chức Phạm Mai, Minh Tông cách chức Nguyễn Trung Ngạn... Quan Tư đồ Trần Nguyên Đán thấy Chu Văn An kém vui, một hôm dù đã khuya, ông vẫn đến thăm thầy Chu và bày tỏ tâm can. Thấy có kẻ theo dõi, quan Tư đồ vội vã ra về. Còn lại một mình, Chu Văn An ngồi viết ''thất trảm sớ''. Ông cân nhắc từng chữ, từng tên người và sự việc, ý tứ chặt chẽ, tâm huyết sôi nổi, bày tỏ và hy vọng. Viết xong, ông đem đến để phòng riêng của Dụ Tông - nơi ông đặc cách đến dạy vua. Xong việc, ông thay quần đổi áo... và rời khỏi cung điện. Về thăm mẹ được ít ngày, nghĩ đến “Thất trảm sớ'' và sợ liên lụy cho mẹ, ông quyết định về sống ẩn dật ở Chí Linh, giao việc chăm sóc nuôi dưỡng mẹ cho một môn sinh mà ông có công nuôi dạy và được dân làng mời về dạy ở trường Huỳnh Cung. Dù thay tên là Tiều Ẩn (người kiếm củi ẩn dật) chỉ ít lâu sau, khắp vùng đồn đại tên tuổi thầy Chu Văn An. Người nọ mách người kia dắt con đến nhờ thầy dạy bảo. Vì vậy, ông lại mở trường dạy học. Những ngày thư nhàn, ông ngao du sơn thủy bầu bạn với non xanh nước biếc. Gặp lại Trần Nguyên Đán như gặp lại bạn bè tâm đắc keo sơn. Về đây ngoài việc dạy học, Chu Văn An còn viết sách làm thơ. Ông viết "Tứ thư thuyết ước” tổng kết bài giảng cùng phương pháp dạy. Về thơ, có "Quốc âm thi tập", ''Tiều ẩn thi tập”. Thời gian ông ở Chí Linh xảy ra việc Dương Nhật Lễ cướp ngôi Trần. Nhưng chỉ ít lâu sau, dưới sự chỉ huy của Trấn Thủ và chị gái là công chúa Thiên Ninh, lại được sự ủng hộ của Trần Nguyên Đán, Trần Ngạc … đã lấy lại được kinh đô Thăng Long. Trần Phủ lên ngôi, tức Trần Nghệ Tông, Chu Văn An chống gậy về triều chúc mừng. Và, sau đó một năm - năm Canh Tuất, ngày 28 tháng 11 (tức năm 1370), ông mất tại xã Kiệt Đắc, nay là xã Văn An, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, thọ 78 tuổi. Trân trọng tài năng, nhân cách và sự cống hiến của ông, vua Nghệ Tông đã ban tên Thụy là Văn Trinh và cho người mang lễ vật đến viếng và cho thờ ông ở Văn Miếu. Ở núi Phượng Hoàng, Chí Linh, Hải Dương, nơi ông về sống ẩn và dạy học cũng có đền thờ, ghi 8 chữ: "Chu Văn Linh tiên sinh ẩn cư xứ". Nguyễn Đình Khản (Nguồn: www.cpv.org.vn) Giai thoại về nhà giáo Chu Văn An Chu Văn An (1292 - 1370) người làng Văn Thôn, huyện Thanh Đàm (nay là huyện
  19. Thanh Trì-Hà Nội) đương thời đã nổi tiếng là một nhà giáo tài đức, có nhiều học trò thành đạt. Đời vua Trần Minh Tông, ông được mời làm Tư nghiệp Quốc tử giám để dạy Thái tử học. Đến đời Trần Dụ Tông, triều chính suy vị, bị bọn gian thần lũng đoạn, ông dâng sớ Thất trảm (xin chém 7 kẻ nịnh thần). Vua không nghe, ông bỏ quan về ở ẩn. Với tài năng, đức độ và tính cương trực, ông được coi là tấm gương tiêu biểu cho nhà giáo Việt Nam. Trần vãn thử hà thời, dục vịnh đại phi hiền giả lạc Phượng sơn tồn ẩn xứ, trĩ lưu trường ngưỡng triết nhân phong. (Cuối Trần đó là thời nào, ngâm vịnh rong chơi đâu phải thú vui hiền giả. Non phượng còn dấu nơi ẩn, núi sông mãi mãi ngắm nhìn phong cách triết nhân). Đó là đôi câu đối mà người đời mãi mãi còn truyền tụng để tỏ lòng mến phục đối với Chu Văn An - nhà Nho, nhà hiền triết, nhà sư phạm mẫu mực cuối thời Trần. Chu Văn An tên hiệu là Tiều ẩn, tên chữ là Linh Triệt, người làng Văn Thôn, xã Quang Liệt, huyện Thanh Đàm (nay là huyện Thanh Trì - Hà Nội). Theo thần tích đình làng Thanh Liệt, nơi thờ ông làm thành hoàng, thì ông sinh năm Nhâm Thìn (1292) và mất năm Canh Tuất (1370). Chu Văn An ngay từ hồi còn trẻ đã nổi tiếng là một người cương trực, sửa mình trong sạch, giữ tiết tháo, không cầu danh lợi, chỉ ở nhà đọc sách. Khi thi đỗ Thái học sinh, ông không ra làm quan, mà trở về mở trường dạy học ở quê nhà. Học trò nhiều nơi tìm đến theo học rất đông. Trong số môn đệ ông có nhiều người thành đạt, thi đỗ ra làm quan to trong triều như Phạm Sư Mạnh, Lê Quát khi về thăm thầy vẫn giữ lễ, được thầy nói chuyện ít lời thì rất lấy làm mừng. Có những học trò cũ không tốt, ông thẳng thắn quở trách, thậm chí quát mắng không cho gặp. Tính nghiêm nghị, tư cách thanh cao và học vấn sâu rộng làm cho tiếng tăm ông ngày càng lan xa. Đức độ và uy tín của ông như vậy, khiến cho học trò đến theo học càng nhiều và có đủ các loại. Một huyền thoại vẫn được lưu truyền nói về ngôi trường và nhân cách, đạo đức của ông như sau: "Tương truyền khi Chu Văn An mở trường dạy học ở quê nhà, có nhiều học trò tìm đến theo học. Trong số này có một người sáng nào cũng đến thật sớm nghe giảng. Thầy dạy khen là chăm chỉ nhưng không rõ tông tích ở đâu. Ông bèn cho người dò xem thì cứ đến khu đầm Đại (khu đầm lớn hình vành khuyên, nằm giữa các làng Đại Từ, Tứ Kỳ, Huỳnh Cung) thì biến mất. Ông biết là thần nước. Gặp lúc đại hạn kéo dài, giảng bài xong ông tụ tập các trò lại hỏi xem ai có tài thì làm mưa giúp dân, giúp thầy. Người học trò kỳ lạ trước có vẻ ngần ngại, sau đứng ra xin nhận và nói với thầy: "Con vâng lời thầy là trái lệnh Thiên đình, nhưng con cứ làm để giúp dân. Mai kia nếu có chuyện gì không hay, mong thầy chu toàn cho". Sau đó người
  20. này ra giữa sân lấy nghiên mài mực, ngửa mặt lên trời khấn và lấy bút thấm mực vẩy ra khắp nơi. Vẩy gần hết mực, lại tung cả nghiên lẫn bút lên trời. Lập tức mây đen kéo đến, trời đổ mưa một trận rất lớn. Đêm hôm ấy có tiếng sét và đến sáng thấy có thây thuồng luồng nổi lên ở đầm. Chu Văn An được tin khóc thương luyến tiếc rồi sai học trò làm lễ an táng, nhân dân các làng lân cận cũng đến giúp sức và sau nhớ công ơn bèn lập đền thờ. Nay vẫn còn dấu vết mộ thần. Theo truyền thuyết, chỗ nghiên mực bị ném rơi xuống đã biến thành đầm nước lúc nào cũng đen, nên thành tên là Đầm Mực. Quản bút rơi xuống làng Tả Thanh Oai biến làng này thành một làng văn học, quê hương của Ngô Thì Sĩ, Ngô Thì Nhậm, v.v... Trong đền thờ thần còn đôi câu đối khá tiêu biểu ghi lại sự tích này. Mặc nghiễn khởi tường vân, nhất bút lực hồi thiên tự thuận. Chu đình lưu hóa vũ, thiên trù vọng thiếp địa phồn khô. (Mây lành từ nghiên mực bay lên, một ngọn bút ra công trời thuận theo lẽ phải. Mưa tốt giữa sân son đổ xuống, nghìn cánh đồng đội nước, đất nẻ trổ mùa hoa). (Chu đình có hai nghĩa: sân son và sân họ Chu, chỉ Chu Văn An). Câu chuyện trên đây chỉ là một giai thoại về Chu Văn An để nói rằng tài đức của họ Chu có sức mạnh cảm hóa được cả quỷ thần. Tuy nhiên, qua đó cũng thấy được đức độ của Chu Văn An lúc đương thời là rất lớn. Đến đời vua Trần Minh Tông, ông được mời vào làm Tư nghiệp ở Quốc Tử Giám để dạy Thái tử học. Ông đã cùng với Mạc Đĩnh Chi, Phạm Sư Mạnh, Nguyễn Trung Ngạn tham gia vào công việc củng cố triều đình lúc đó đang đi dần vào con đường khủng hoảng, suy thoái. Đến đời Dụ Tông, chính sự càng thối nát, bọn gian thần nổi lên khắp nơi. Chu Văn An nhiều lần can ngăn Dụ Tông không được, bèn dâng sớ xin chém bảy kẻ nịnh thần, đều là người quyền thế được vua yêu. Đó là Thất trảm sớ nổi tiếng trong lịch sử. Nhà vua không nghe, ông bèn "treo mũ ở cửa Huyền Vũ" rồi bỏ quan về ở ẩn tại núi Phương Sơn thuộc làng Kiệt Đắc, huyện Chí Linh (Hải Hưng) lấy hiệu là Tiều ẩn (người đi ẩn hái củi). Sau ông mất tại đó. Theo thư tịch cũ thì Chu Văn An viết nhiều sách, ông đã để lại cho đời sau những tác phẩm: hai tập thơ Quốc ngữ thi tập bằng chữ Nôm và Tiều ẩn thi tập bằng chữ Hán. Ông còn viết một cuốn sách biện luận giản ước về Tứ thư nhan đề Tứ thư thuyết ước. Theo một tài liệu nghiên cứu gần đây thì Chu Văn An còn là một nhà đông y đã biên soạn quyển Y học yếu giải tập chu di biên gồm những lý luận cơ bản về chữa trị bệnh bằng Đông y. Khi ông mất, vua Trần đã dành cho ông một vinh dự lớn bậc nhất đối với một trí thức là được thờ ở Văn Miếu. Vua còn ban tặng tên thụy cho ông là Văn Trinh. Ngô Thế Vinh, nhà văn học nổi tiếng thế kỷ 19 trong bài văn bia ở đền Phương
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2