intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Nhà tạo lập thị trường - P.3

Chia sẻ: Nguyen Nhi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:17

140
lượt xem
41
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tôi tiếp tục loạt bài về nhà tạo lập thị trường. Loạt bài này đã được thực hiện từ năm 2005, do đó sẽ có những thông tin chưa được cập nhật kịp thời. Mong các bạn Saganors tham khảo và ghi nhận hạn chế này. Hệ thống tạo lập thị trường tập trung trên sàn giao dịch cổ điển đấu giá theo lệnh (khớp lệnh) Thuật ngữ sàn giao dịch cổ điển nhằm chỉ sàn giao dịch có địa điểm cụ thể, nơi tập trung các nhà môi giới sàn, các thành viên của sàn…, đây có thể coi...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Nhà tạo lập thị trường - P.3

  1. Nhà tạo lập thị trường - P.3 Tôi tiếp tục loạt bài về nhà tạo lập thị trường. Loạt bài này đã được thực hiện từ năm 2005, do đó sẽ có những thông tin chưa được cập nhật kịp thời. Mong các bạn Saganors tham khảo và ghi nhận hạn chế này. Hệ thống tạo lập thị trường tập trung trên sàn giao dịch cổ điển đấu giá theo lệnh (khớp lệnh) Thuật ngữ sàn giao dịch cổ điển nhằm chỉ sàn giao dịch có địa điểm cụ thể, nơi tập trung các nhà môi giới sàn, các thành viên của sàn…, đây có thể coi là mô hình đầu tiên của thị trường chứng khoán. Tất cả các nhà đầu tư đều có thể tiến hành giao dịch trực tiếp với nhau, họ tiến hành đặt lệnh mua, lệnh bán với các giá mức giá yết. Tất cả các lệnh giới hạn mua và lệnh giới hạn bán tại bất kỳ thời điểm nào đều được ghi lại trong “sổ ghi lệnh giới hạn”. Nhà tạo lập thị trường sẽ ở trực tiếp tại sàn trong thời gian giao dịch, nhận các lệnh từ phía các nhân viên môi giới sàn và các lệnh do hệ thống điện tử đưa đến. Nhà tạo lập thị trường trong hệ thống này phải thực hiện việc liên tục báo giá thông qua tổng hợp thông tin từ sổ ghi lệnh giới hạn và từ nhu cầu mà các nhân viên môi giới sàn đặt lên. Như thế, công việc chính của các nhà tạo lập thị trường loại này là tiến hành hỗ trợ tìm và khớp các lệnh đối ứng. Họ chỉ sử dụng chứng khoán trong tài khoản (trong kho) của mình để tiến hành giao dịch (hay hỗ trợ thanh khoản) khi mức cung hay cầu với một loại chứng khoán giảm xuống và không tìm được lệnh đối ứng phù hợp, nhà tạo lập thị trường phải tham gia để đảm bảo tính thanh khoản thị trường và duy trì mức giá cân bằng phù hợp.
  2. Sự can thiệp của nhà tạo lập thị trường vào thị trường khi có dấu hiệu cho thấy thị trường có khả năng giảm tính thanh khoản đảm bảo cho chi phí giao dịch được giữ ổn định và luôn thấp hơn so với những thị trường giao dịch tập trung thuần tuý không có sự can thiệp của nhà tạo lập thị trường. Thêm vào đó, do nhà tạo lập thị trường là tổ chức duy nhất có quyền theo dõi và nắm bắt tình hình cung cầu trên thị trường giao dịch tập trung, đồng thời nhà tạo lập thị trường cũng luôn có quan hệ với các nhân viên môi giới sàn, nên nhà tạo lập thị trường hoàn toàn có thể hạn chế được rủi ro của mình bằng cách duy trì một thị trường cân bằng. Nhà tạo lập thị trường có trách nhiệm phải báo các mức giá mua và bán đại diện cho các mức giá tốt nhất trong sổ ghi lệnh giới hạn (lệnh được chuyển đến tự động) và cho xu hướng chung của các nhân viên môi giới sàn. Ngoài ra, như đã nói ở phần trước, nhà tạo lập thị trường ở thị trường này còn có chức năng thông qua tài khoản của chính mình để can thiệp vào các giao dịch đóng vai trò người mua hoặc người bán, hoặc tham gia vào thị trường khi có những giao dịch nhạy cảm có thể gây ảnh hưởng tiêu cực đến giá cân bằng của thị trường. Nhà tạo lập thị trường ở đây còn có một chức năng khác là thông báo giá mở cửa cho các thị trường đấu thầu hay thị trường giao dịch định kỳ. Theo thống kê, số lượng giao dịch được thực hiện ở dây thường nhỏ hơn so với các thị trường khớp giá điện tử, tuy nhiên giá trị giao dịch lại lớn hơn nhiều do các nhà đầu tư có tổ chức thường đặt lệnh thực hiện các giao dịch lớn ở thị trường này. (Giá trị giao dịch tại NYSE chiếm đến 60% tổng giá trị giao dịch chứng khoán hàng ngày tại Mỹ). Với thị trường như NYSE hay AMEX, sẽ có một “chuyên gia” của sở GD làm nhiệm vụ tạo lập thị trường cho một loại cổ phiếu nhất định. Chuyên gia này sẽ lưu lại các lệnh giới hạn, các lệnh này sẽ giúp xác
  3. định mức giá mua cao nhất hay mức giá bán thấp nhất để tiến hành một cuộc giao dịch. Những nhà môi giới sẽ đặt các lệnh thị trường, đây là những lệnh sẽ được tiến hành với mức giá thích hợp nhất tại thời điểm mà lệnh đó được đặt, người chuyên gia sẽ nối mỗi lệnh thị trường này với lệnh giới hạn phù hợp nhất, giao dịch được thực hiện anh ta được nhận hoa hồng. Trong trường hợp các lệnh giới hạn đặt ra thiếu so với các lệnh thị trường, người chuyên gia sẽ phải đóng vai trò đối tác để tiến hành giao dịch đối với lệnh chuyển tới mà không có lệnh giới hạn nào đáp ứng, điều nay sẽ đảm bảo được tính thanh khoản cho thị trường.Có thể coi nhà chuyên gia là nhà tạo lập thị trường nhưng cho một loại cổ phiếu nhất định hay cũng có thể coi họ là người điều hành cuộc đấu giá. Hệ thống tạo lập thị trường trên sàn giao dịch điện tử, đấu giá theo giá Trong thị trường này nhà đầu tư công chúng hầu như sẽ không thể giao dịch trực tiếp với nhau. Để có thể tiến hành mua hay bán chứng khoán, nhà đầu tư phải liên hệ trực tiếp với nhà tạo lập thị trường (các công ty giao dịch), những công ty giao dịch sẽ sử dụng những chứng khoán trong kho của mình để tiến hành giao dịch với khách hàng. Với một hệ thống đấu giá theo giá, thường có nhiều nhà tạo lập thị trường cùng một lúc thực hiện tạo lập thị trường cho một loại chứng khoán nhất định, những nhà tạo lập thị trường này liên tục báo các chào mua và chào bán với một khối lượng chứng khoán tại các mức giá xác định. Trong hệ thống này, nhà tạo lập thị trường chính là bộ phận tạo lên gần như toàn bộ tính thanh khoản của thị trường thông qua việc yết các mức giá và khối lượng sẵn sàng giao dịch ở một phía mua hoặc bán. Để thực hiện giao dịch với khách hàng, các nhà tạo lập thị trường phải cạnh tranh lẫn nhau yết các mức chào mua/chào bán cạnh tranh nhất để có thể thu hút các lệnh đặt giao dịch từ phía khách hàng. Nhà tạo lập thị trường có trách nhiệm liên tục yết các chào mua và chào bán với khoảng chênh lệch thích hợp và tiến hành giao dịch với đồng thời những lệnh thị trường và lệnh giới hạn của nhà tạo lập thị trường khác và nhà đầu tư. Giá đặt mua
  4. (đặt bán) của một nhà tạo lập thị trường không được cao hơn (thấp hơn) giá đặt bán (đặt mua) của tất cả các công ty giao dịch khác trên thị trường. Các nhà tạo lập thị trường không phải trả bất kỳ loại phí giao dịch nào, hơn nữa họ có quyền chỉ đặt chào mua hoặc chào bán trên một phía của thị trường để thu hút khách hàng, điều này cũng giúp cho nhà tạo lập thị trường có thể hạn chế được các rủi ro khi rơi vào các tình trạng mất cân bằng chứng khoán trong kho một cách bị động.Một lợi thế rất lớn cho nhà tạo lập thị trường là khi tham gia vào cơ chế thị trường này, họ luôn có một nguồn ổn định các lệnh đặt đến từ phía khách hàng để tiến hành cạnh tranh. Điểm tạo ra lợi thế này là ở các lệnh đặt ra trên thị trường này chủ yếu là các lệnh thị trường, còn đối với các thị trường khớp lệnh, các lệnh đặt ra chủ yếu là lệnh giới hạn – loại lệnh này thường thường không tạo được tính cạng tranh cao và do đó ít tạo được tính thanh khoản. Ví dụ với mô hình thị trường này là NASDAQ và LSE (London Stock Exchange). NASDAQ là mô hình thị trường OTC điển hình, tên gọi thị trường “phi tập trung” xuất phát từ điểm khác biệt với vai trò của các chuyên gia trên sàn NYSE, nơi mà tất cả các giao dịch đều tập trung vào thông qua người chuyên gia. Trên thị trường này có những nhà tạo lập thị trường, họ không ở tập trung một chỗ, và cũng không có yêu cầu họ phải cố định. Những nhà tạo lập thị trường có thể tham gia thị trường thông qua hệ thống giao dịch điện tử từ bất kỳ máy tính nào, đồng thời họ cũng có thể can thiệp ngay lập tức vào lệnh mà những công ty giao dịch vừa đặt. Nasdaq được hình thành vào năm 1968 khi những nhà quản lý thị trường cố gắng thống nhất và tăng cường vai trò của thị trường OTC. NASD bên cạnh nhiệm vụ quản lý nhân viên hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán và giám sát các công ty môi giới, nó còn được giao thêm chức năng theo dõi và thúc đẩy hoạt động giao dịch dần tự đông hóa. Đến năm 1980, bước ngoặt lớn nhất trong điều chỉnh đối với thị trường này diễn ra, đối với mỗi loại chứng khoán mỗi nhà tạo lập thị trường được phép đặt các mức giá chào bán thấp nhất và giá đặt mua cao nhất của riêng
  5. mình. Với hình thức này, các công ty giao dịch sẽ tham khảo các mức giá mà nhà tạo lập thị trường đặt, các lệnh này hiện ra trên màn hình máy tính, lựa chọn và đặt lệnh khi họ chọn được mức giá cạnh tranh nhất đáp ứng nhu cầu mua hay bán của mình. Như thế Nasdaq là một hệ thống vi tính tinh vi có thể tự động đưa ra các mức giá các nhà tạo lập thị trường. Bản thân Nasdaq không đóng bất cứ một vai trò nào giống như một nhà chuyên gia trên sàn giao dịch, việc đáp ứng và thực hiện các lệnh hoàn toàn do các nhà tạo lập thị trường tiến hành. Nasdaq phát triển đặc biệt nhanh vào những năm 80 cùng với sự gia tăng nhanh chóng của các công ty công nghệ cao. Nhìn chung, các yêu cầu đặt ra để được niêm yết trên Nasdaq là tương đối thấp do đó Nasdaq là lựa chọn trước tiên của các công ty nhỏ họat động trong các ngành công nghệ thông tin và công nghệ sinh học chứ không phải là NYSE. Từ năm 1984 đến 1995, doanh số giao dịch trên Nasdaq tăng từ 153 tỉ đôla với 4097 công ty niêm yết lên 2400 tỉ đôla với 5122 công ty, với mức giao dịch bìnhquân mỗi ngày là hơn 400 triệu cổ phần. giá trị thị trường của Nasdaq vào tháng 6 năm 1994 chỉ đạt 738.4 tỉ đôla, chưa bằng một phần năm giá trị 4.3 nghìn tỉ đôla của NYSE cùng thời điểm chứng tỏ đa số các công ty trên Nasdaq đều là các công ty nhỏ. Do các yêu cầu niêm yết thấp, qui mô Nasdaq gia tăng nhanh chóng. Năm 1989, NASD buộc phải thắt chặt hơn các qui định, bao gồm cả việc quản lý các công ty tham gia làm môi giới và tạo lập thị trường, Đến 1995, NASD đã cấp 510000 giấy phép môi giới, đồng thời SEC cũng thông qua NASD để quản lý chặt chẽ Nasdaq hơn. Tuy nhiên NASD luôn cố gắng tạo sự chủ động cho hoạt động của Nasdaq. Sự khác biệt lớn nhất giữa thị trường đấu giá và thị trường giao dịch là ở số lựợng nhà tạo lập thị trường cho một loại chứng khoán. Rõ ràng, nếu như số lượng nhà tạo lập thị trường cho một loại chứng khoán lớn thì tính thanh khoản của nó sẽ cao
  6. hơn rất nhiều so với việc chứng khoán đó chỉ được một nhà tạo lập thị trường duy nhất thực hiện – nhà chuyên gia – trên sàn NYSE. Tuy nhiên điều này chưa hẳn là đã có lợi. Trong khi NYSE và AMEX là các thị trường khớp lệnh, Nasdaq lại là dạng thị trường khớp giá. Lợi nhuận của những công ty giao dịch trên thị trường OTC phụ thuộc vào khoảng chênh lệch giữa mức giá chào mua và mức giá chào bán hay còn gọi là chênh lệch mua-bán. Chênh lệch mua-bán được coi là khoản đền bù cho các công ty này khi họ tạo được thị trường cho loại chứng khoán đó và đền bù cho rủi ro mà họ chấp nhận trong thời gian cầm giữ chứng khoán trước khi bán ra. Chênh lệch mua-bán còn được gọi là “chênh lệch bên trong”, khoản chênh này thể hiện mức lợi nhuận lớn nhất mà một công ty tiến hành tạo lập thị trường có thể thu được. Mặt khác, trong khi trên thị trường đấu giá, các lệnh giới hạn hầu như chiếm vị trí tuyệt đối, thì trên Nasdaq hầu như rất ít có các lệnh giới hạn. Nasdaq thiếu một cơ chế tập trung để xử lý các lệnh giới hạn, do đó các lệnh giới hạn chỉ có thể xuất hiện trên hệ thống máy tính của NASD hoặc là trong hệ thống máy nội bộ của mỗi nhà tạo lập thị trường. Kết quả là những nhà tạo lập thị trường trên Nasdaq có thể giao dịch với các mức giá họ đã chào ra, bỏ qua các mức giá do các lệnh giới hạn đặt, cho dù các lệnh này có lợi hơn đối với nhà đầu tư. Hệ thống của Nasdaq được xác lập tương đối khác thường: nó coi các lệnh giới hạn là những lệnh gây cản trở cho quá trình xác định đúng giá trị của các chứng khoán đang giao dịch. Những giá được hiện ra trên màn hình giao dịch cũng không phản ánh hoàn toàn chính xác tất cả các những lệnh mà tất cả các thành viên tham gia trên thị trường sẵn sàng chấp nhận giao dịch. Hơn nữa, Nasdaq duy trì hai cơ chế khác nhau cho việc giao dịch các lệnh khối lượng lớn (hơn 1 triệu cổ phiếu) và các lệnh nhỏ: các giao dịch khối lượng lớn được thực hiện thông qua thương lượng trực tiếp giữa nhà tạo
  7. lập thị trường và người môi giới đại diện cho nhà đầu tư; các lệnh nhỏ được thực hiện qua hệ thống “Giao dịch lênh nhỏ” (Small Order Execution System-SOES). Hệ thống tạo lập thị trường tập trung trên sàn giao dịch điện tử khớp lệnh. Hệ thống nhà tạo lập thị trường với mô hình thị trường này có chức năng giống như trong hệ thống tạo lập thị trường tập trung trên sàn giao dịch cổ điển khớp lệnh. Điểm khác biệt duy nhất là ở đây không có sàn thật và cũng không có các nhân viên môi giới sàn. Hệ thống này được áp dụng ở Sàn giao dịch Amsterdam (AMS) cho đến năm 2001, nhà tạo lập thị trường gọi tên là “Hoekman” với vai trò là người trung gian đáp ứng lại các lệnh điện tử được chuyển đến. Hiện nay, sàn AMS đã không còn hoạt động, hoạt động của thị trường chứng khoán Hà Lan, Pháp, Bỉ và Bồ Đào Nha đã được hợp nhất thành thị trường Euronext Hệ thống tạo lập thị trường phi tập trung trên sàn giao dịch điện tử khớp lệnh. Nhà tạo lập thị trường trong mô hình thị trường này phải sử dụng tài khoản của mình, liên tục yết các lệnh giới hạn chào mua, chào bán với khối lượng theo quy định của sàn. Với mỗi loại chứng khoán có thể có nhiều nhà tạo lập thị trường cùng tham gia tạo lập thị trường. Đối nghịch với hệ thống tập trung, so với những nhà nhà đầu tư khác nhà tạo lập thị trường ở đây không sở hữu bất kỳ dạng thông
  8. tin độc quyền nào về các lệnh được đặt vào hay về sổ ghi lệnh. Những nhà tạo lập thị trường này cũng phải cạnh tranh để nhận được các lệnh đặt từ phía khách hàng. Đối với hình thức thị trường này, khả năng tiếp cận đến thông tin trong sổ ghi lệnh của nhà tạo lập thị trường là tương đương với các nhà đầu tư thông thường, trong giao dịch không bên nào có đặc quyền về thông tin và do đó có lợi thế ngang nhau. Quá trình xác định giá cân bằng hoàn toàn do tác động của tất cả các thành viên trên thị trường cùng tham gia xác lập. Nhà tạo lập thị trường vẫn phải liên tục yết các mức giá mua và bán để đảm bảo tính thanh khoản và tính cạnh tranh trên thị trường. Cách thức tổ chức này thị trường một mặt đảm bảo được tính công bằng trên thị trường, nhưng mặt khác lại chỗ những tác động của nhà tạo lập thị trường hầu như chỉ có hiệu quả với những chứng khoán có khối lượng giao dịch nhỏ, hơn nữa nếu nhà tạo lập thị trường không có động lực, những lệnh mà họ đặt ra có thể hạn chế tính cạnh tranh của thị trường. Mô hình tương tự được sử dụng tại Euronext với tên gọi của nhà tạo lập thị trường ở đây là “tổ chức cung cấp thanh khoản”, ở Ý với tên gọi là “Chuyên gia”, Ở Athens với tên là “Nhà tạo lập thị trường”. Trong hệ thống thị trường này, trong các phiên giao dịch, nhà tạo lập thị trường có trách nhiệm phải liên tục yết các mức giá mua hoặc bán một mặt để tạo môi trường liên tục về lệnh, mặt khác sẽ đáp ứng những lệnh của nhà đầu tư. Các lệnh mà nhà tạo lập thị trường đặt khi tiến hành giao dịch đều sẽ sử dụng chính tài khoản của mình và phải tuân theo một số quy định cụ thể về khối lượng yết tối thiểu, khoảng chênh lệch tối đa, số lượng giao dịch tối thiểu phải tiến hành giao dịch trong ngày, và thời gian tối đa giữa hai lần yết giá mới của nhà tạo lập thị trường.
  9. Bên cạnh những quy định định lượng xác định trách nhiệm của nhà tạo lập thị trường trong phiên giao dịch, nhà tạo lập thị trường ở đây cũng có trách nhiệm thông báo cho nhà đầu tư tình trạng báo cáo tài chính của những công ty niêm yết mà họ chịu trách nhiệm. Trong hệ thống tạo lập thị trường phi tập trung, nhà tạo lập thị trường không phải chịu các loại phí giao dịch, đồng thời họ cũng có một ưu tiên là chứng khoán "trong kho" của họ luôn cân bằng và việc này được đảm bảo do họ luôn nắm các thông tin độc quyền về công ty niêm yết mà họ chịu trách nhiệm (sàn Italia), hoặc do chính các cổ đông chính tại công ty đảm bảo (Euronext, Athens, Italia). Trong bảng 1, bảng 2 và bảng 3 so sánh về các thị trường và các thành viên tham gia trên thị trường. Bảng 1 mô tả tên nhà tạo lập thị trường tương ứng ở mỗi dạng thị trường và thời gian tồn tại của thị trường ấy. Bảng 2 mô tả cơ chế hoạt động của nhà tạo lập thị trường. Bảng 3 mô tả quyền lợi và trách nhiệm của nhà tạo lập thị trường trên mỗi thị trường. Bảng 1 Sàn giao Sàn giao Dạng thị dịch điện tử Sàn giao dịch điện tử đấu dịch thủ Thời gian trường đấu giá theo giá theo lệnh công đấu giá tồn tại giá theo lệnh Phi tập trung Tập trung Tập trung Từ thế kỷ Chuyên gia NYSE 19
  10. Công ty giao 1971 NASDAQ dịch Công ty giao 1986 LSE dịch Tổ chức môi TK 19, Nhà bảo trợ Deutsche giới chính Xetra chỉ định Borse thức 1997 Amsterdam Stock Hoekman đến 2001 Exchange Tổ chức cung cấp thanh 2001 Euronext khoản Italia Stock Chuyên gia 2001 Exchange Bảng 2
  11. Hệ thống tạo lập thị Hệ thống tạo lập thị Hệ thống tạo lập thị Hệ thống tạo lập thị trường trên sàn điện trường phi tập trung trường tập trung trên trường tập trung trên tử đấu giá thao giá trên sàn giao dịch điện sàn giao dịch điện tử sàn thủ công, khớp (khớp giá) tử khớp lệnh (Sàn khớp lệnh (Sàn lệnh (NYSE và Athens, Euronext, Amsterdan trước đây) Deutsche Borse) Italia) Các nhà tạo lập thị Các nhà tạo lập thị trường cạnh tranh với chính các nhà đầu tư công trường (hầu như) chúng. Nhà đầu tư khi đặt lệnh (lệnh giới hạn) thì cũng đồng thời cùng chỉ cạnh tranh lẫn với nhà tạo lập thị trường tạo tính thanh khoản cho thị trường. Với mỗi nhau để nhận lệnh giao dịch, thường cả hai phía đối tác đều là nhà đầu tư công chúng, nhà từ phía nhà đầu tư. tạo lập thị trường thưởng chỉ thực hiện chức năng môi giới hoặc tự Nhà đầu tư cũng động kết nối các lệnh tương thích. không thể tiến hành giao dịch với nhau do trong các giao dịch luôn có một nhà tạo lập thị trường đóng vai trò đối tác ở một trong hai phía (giao dịch bằng tài khoản của chính công ty đó)
  12. Một hoặc một số nhà Chỉ có một nhà tạo lập thị trường duy nhất làm tạo lập thị trường sử chức năng người quản lý hay người xướng giá dụng chứng khoán để nhận và kết hợp các lệnh phù hợp. Giá yết trong tài khoản của lên thường phản ánh mức giá đặt lên tốt nhất mình để liên tục yết giá. có trong sổ ghi lệnh giới hạn. Nhà tạo lập thị Nhà tạo lập thị trường trường ở đây chỉ tham gia thực hiện các giao chỉ phỉa tuân theo quy dịch khi các lệnh đặt lên trong sổ ghi lệnh định về khối lượng đặt không cung cấp đủ tính thanh khoản. giao dịch nhỏ nhất và khoảng chênh lệch mua/bán lớn nhất Không có sàn thực và Sàn giao dịch là nơi cũng không có nhân mà các nhân viên môi viên môi giới sàn. Các giới sàn có thể thương lệnh thông qua hệ lượng trực tiếp một thống điện tử được cách hiệu quả mà chuuyển trực tiếp đến không sợ bị lộ các nhà tạo lập thị trường. mục đích của mình ra Họ sẽ đóng cai trò như ngoài. Nhà tạo lập thị
  13. những nhà quản lý trường ở đây đóng vai thực hiện chức năng trò như một người kết nối các lệnh phù điều khiển cuộc đấu gá hợp. cho các lệnh mà các nhân viên môi giới chuyển lên. Bảng 3 NYSE : Liên tục yết các mức giá chào mua Đặc quyền nắm thông tin trong sổ ghi Chuyên gia hoặc chào bán bằng hoặc tốt hơn mức lệnh giới hạn; Nhận phần trăm hoa giá tốt nhất trong sổ ghi lệnh giới hạn ; hồng khi đóng vai trò đại lý để giao dịch Tự tham gia giao dịch và điền vào sổ với nhân viên môi giới sàn. Vị trí độc ghi giá yết khi có mất cân đối trong các quyền (duy nhất) lệnh đặt lên hoặc khi đóng trò là đại lý Không mất phí giao dịch. đối với các nhân viên môi giới sàn; Xác định giá mở cửa hàng ngày; Duy trì một thị trường cân bằng và liên tục. NASDAQ: Liên tục yết các mức giá chào mua Không mất phí giao Công ty giao dịch hoặc chào bán với khoảng chênh lệch dịch. Không cùng lúc thích hợp và tiến hành giao dịch với tiến hành giao dịch trên cả hai phía các lệnh giới hạn hoặc lệnh thị trường (cùng một lúc mua và bán một loại do các nhà tạo lập thị trường khác chứng khoán), điều này cũng giúp cho (công ty giao dịch) hoặc nhà đầu tư đặt. hạn chế rủi ro đối với các chứng khoán
  14. Giá đặt mua(bán) không được phép cao 'trong kho' (trong tài hơn (thấp hơn) giá đặt bán(mua) của khoản) các công ty giao dịch khác. Luôn chịu sự cạnh tranh thường xuyên từ phía các công ty giao dịch khác để nhận được lệnh do nhà đầu tư đặt. Lệnh giới hạn thường không được sử dụng nhiều và cũng kém cạnh tranh. LSE : Liên tục yết các mức giá chào mua Không mất phí giao hoặc chào bán với khoảng chênh lệch dịch. Không cùng lúc Công ty giao thích hợp và tiến hành giao dịch với tiến hành giao dịch trên cả hai phía dịch. các lệnh giới hạn hoặc lệnh thị trường (cùng một lúc mua và bán một loại do các nhà tạo lập thị trường khác chứng khoán), điều này cũng giúp cho (công ty giao dịch) hoặc nhà đầu tư đặt. hạn chế rủi ro đối với các chứng khoán 'trong kho' (trong tài khoản) Luôn chịu sự cạnh tranh thường xuyên từ phía các công ty giao dịch khác để nhận được lệnh do nhà đầu tư đặt. Lệnh giới hạn thường không được sử dụng nhiều và cũng kém cạnh tranh. Deutsche Borse Liên tục yết các mức giá chào mua Đặc quyền nắm thông tin trong sổ ghi Nhà môi giới hoặc chào bán bằng hoặc tốt hơn mức lệnh giới hạn ; Nhận phần trăm hoa giao dịch chính giá tốt nhất trong sổ ghi lệnh giới hạn; hồng khi đóng vai trò đại lý để giao dịch thức. Tự tham gia giao dịch và điền vào sổ với nhân viên môi giới sàn. Vị trí độc
  15. ghi giá yết khi có mất cân đối trong các quyền (duy nhất) lệnh đặt lên hoặc khi đóng trò là đại lý Không mất phí giao dịch. đối với các nhân viên môi giới sàn; Xác định giá mở cửa hàng ngày. Deutsche Borse Yết giá cùng lúc trên cả hai phía thị Không mất phí giao Nhà bảo trợ chỉ trường (mua và bán) khi có yêu cầu từ dịch. định phía các thành viên, khối lượng yết là Nắm bắt thông tin về đối tượng đặt tối thiểu nhưng khoảng chênh lệch là giá. Can thiệp vào thị trường báo tối đa. giá khi có dư thừa ở một phía. Đặt lệnh trên thị trường báo giá. Euronext tại Liên tục yết giá mua và giá bán với Không mất phí giao Paris/Amsterdam/ khối lượng nhỏ nhất và khoảng chênh dịch. Brussels và lệch lớn nhất để đảm bảo đạt được khối Chứng khoán trong tài khoản có thể do Lisbon : lượng giao dịch tối thiểu trong các cổ đông chính của công ty niêm yết ngày.Đặt lệnh trên thị trường báo giá. Tổ chức cung cấp loại chứng khoán đó cung cấp. thanh khoản Sàn giao dịch Liên tục yết giá mua và giá bán với Đặc quyền nắm thông tin về công ty Italia : khối lượng nhỏ nhất và khoảng chênh niêm yết. Không mất phí giao dịch. Chuyên gia lệch lớn nhất để đảm bảo đạt được khối lượng giao dịch tối thiểu trong ngày; Lập hai bản báo cáo tài chính mỗi năm cho công ty niêm yết mà chuyên gia đó
  16. phụ trách. Tổ chức hai buổi gặp gỡ giữa ban lãnh đạo công ty và các nhà đầu tư chuyên nghiệp mỗi năm Sàn giao dịch "Gần như" liên tục yết giá mua và giá Cung cấp tính thanh khoản bằng cách Athens: Nhà tạo bán với khối lượng nhỏ nhất và khoảng mua lại các hợp đồng phái sinh; Miễn lập thị trường chênh lệch lớn nhất để đảm bảo đạt thuế; Chứng khoán trong tài khoản có được khối lượng giao dịch tối thiểu thể do các cổ đông chính của công ty trong ngày. niêm yết loại chứng khoán đó cung cấp. Nguồn các bảng: Marios Panayides and Andreas Charitou, Working Papers, 1994 Mỗi mô hình thị trường đều có những lợi thế và hạn chế nhất định. Sự khác nhau về tên gọi, cơ chế hoạt động, các quyền lợi và nghĩa vụ tạo ra cho nhà tạo lập thị trường ở mỗi thị trường những nét đặc trưng khác nhau. Một mô hình thị trường có tính cạnh tranh cao giữa các nhà tạo lập thị trường (các công ty giao dịch) như ở NASDAQ đã chứng minh những ưu thế của nó qua qui mô thị trường, qui mô giao dịch, qua tính chất phản ánh tự nhiên giá trị chứng khoán trên thị trường, qua tính thanh khoản, tuy nhiên một cơ chế cạnh tranh luôn tiềm ẩn những hành vi tiêu cực có thể của chính các nhà tạo lập thị trường chẳng hạn như sự thông đồng thao túng thị trường của các nhà tạo lập thị trường (Mahesh P. Sardesai – Michigan Journal of Economics), hoặc cũng có thể là từ các “mánh khoé” của nhà đầu tư nắm được những thông tin mang tính chất nội gián mà nhà tạo lập thị trường không nắm được, điều này làm tăng rủi ro đối với các chứng khoán “trong kho” của nhà tạo lập thị trường. Bên cạnh đó, với thị trường như NYSE, nhà tạo lập thị trường, hay ở đây được gọi là chuyên gia, sẽ hầu như không gặp phải rủi ro như nhà tạo lập thị trường ởp
  17. NASDAQ. Chuyên gia là người duy nhất nắm toàn bộ thông tin về duy nhất một loại chứng khoán do đó cũng khó có thể thông đồng với chuyên gia khác. Tuy nhiên mô hình này chỉ phù hợp với thị trường mà tất cả các chứng khoán đều có chất lượng cai, được giao dịch rất mạnh với khối lượng lớn, nếu không sẽ rất thiệt cho chuyên gia nào nhận tạo lập thị trường cho những loại chứng khoán kém chất lượng, và theo đó là kém thanh khoản. Mô hình thị trường với sàn điện tử đấu lệnh tập trung đã không còn tồn tại kể từ năm 2001, điều này rõ ràng thể hiện nó có những điểm không phù hợp với sự phát triển của thị trường chứng khoán. Trái lại mô hình tạo lập thị trường phi tập trung trên sàn điện tử đấu lệnh như Euronext hiện đang là một xu thế mới và được áp dụng rộng rãi, tuy nhiên đây lại là một mô hình tương đối linh động, mỗi thị trường có thể áp dụng theo các hình thức khác nhau với cơ chế hoạt động của nhà tạo lập thị trường có những điểm khác nhau nhất định.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2