intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Nhãn quan ngôn ngữ của Nguyễn Tuân

Chia sẻ: Le Lan | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:11

134
lượt xem
10
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

"Nghề văn là nghề của chữ... Nó là cái nghề dùng chữ nghĩa sinh sự để sự sinh" (1). Ý kiến này của Nguyễn Tuân một mặt, đã nêu được bản chất lao động của nhà văn, mặt khác, chỉ ra chất liệu đặc thù của văn học. Thực tế, không phải người cầm bút nào cũng hiểu thấu đáo đặc điểm chất liệu mà họ dùng để tạo nên sản phẩm nghệ thuật. Chỉ những ai thực tài, có quan niệm thẩm mỹ riêng, có ý thức trau dồi nghề nghiệp bền bỉ mới mong nắm được công...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Nhãn quan ngôn ngữ của Nguyễn Tuân

  1. Nhãn quan ngôn ngữ của Nguyễn Tuân "Nghề văn là nghề của chữ... Nó là cái nghề dùng chữ nghĩa sinh sự để sự sinh" (1). Ý kiến này của Nguyễn Tuân một mặt, đã nêu được bản chất lao động của nhà văn, mặt khác, chỉ ra chất liệu đặc thù của văn học. Thực tế, không phải người cầm bút nào cũng hiểu thấu đáo đặc điểm chất liệu mà họ dùng để tạo nên sản phẩm nghệ thuật. Chỉ những ai thực tài, có quan niệm thẩm mỹ riêng, có ý thức trau dồi nghề nghiệp bền bỉ mới mong nắm được công năng cũng như hạn chế của vật liệu và mới có thể hình thành nhãn quan ngôn ngữ qua sáng tạo văn học. Một đời làm nghề văn, Nguyễn Tuân có nhiều dịp phát biểu những suy nghĩ về công việc viết lách; về những sở trường sở đoản; những thị hiếu sở thích cá nhân; những hay dở, thành bại; những kinh nghiệm, những ngón nghề…và nhất là về tiếng Việt, thứ bảo vật truyền đời mà ông hết lòng yêu quý. Nguyễn Tuân từng nguyện đem tâm lực của mình góp phần "xây cao thêm cái lâu đài ngôn ngữ dân tộc lung linh diễm lệ". Từ những lời "tán" tuỳ hứng và phóng túng nhưng thể hiện sự am tường rất sâu về tiếng Việt đến những sản phẩm nghệ thuật phong phú, đa đạng thuộc nhiều thể loại, Nguyễn Tuân đã tự bộc lộ nhãn quan ngôn ngữ độc đáo của mình. 1. Trước cách mạng, với sự tôn sùng cái đẹp vô vụ lợi, ít nhiều Nguyễn Tuân đã thể hiện thiên hướng duy mỹ. Sau cách mạng, ông vẫn là một trong những nhà văn hàng đầu say mê săn tìm cái đẹp. Tuy nhiên, cái đẹp lọt vào "nhỡn tuyến" của Nguyễn
  2. Tuân dù lắm hình nhiều vẻ, nhưng vẫn cho thấy sự đãi lọc rất kỹ lưỡng của một người có gu thẩm mỹ, có quan niệm riêng. Với Nguyễn Tuân, cái đẹp, có khi là một lối sống thanh cao, một khí phách cứng cỏi, một tài năng phi phàm, một đồ vật tuyệt kỹ, một hương vị thuần khiết, một cảnh sắc kỳ thú… Và rất nhất quán, một trong những cái đẹp đã hút hồn Nguyễn Tuân chính là lời ăn tiếng nói của dân tộc mà ông gọi một cách âu yếm, tự hào: "tiếng ta". Hiếm có nhà văn nào thổ lộ lòng yêu tiếng Việt một cách nồng nàn như Nguyễn Tuân. Với một mỹ cảm riêng, trong tay Nguyễn Tuân, ngôn ngữ không chỉ là phương tiện biểu đạt nội dung mà chính nó cũng là thông tin thẩm mỹ. Điều tưởng chỉ có được ở địa hạt thơ trữ tình hoá ra lại rất phổ biến trong văn xuôi Nguyễn Tuân. Nó mở ra một khoảng trời tự do, cho phép ông "hành xử" với chất liệu theo ý thích chủ quan của mình, phá tung mọi khuôn khổ của thể loại, tạo nên một thi pháp có đặc trưng riêng. Thâm nhập vào thế giới nghệ thuật của Nguyễn Tuân, người ta nhận ra chất thơ trong văn xuôi tự sự, truyện thì đậm chất tuỳ bút, trong ký có yếu tố tiểu thuyết… Chính ở chỗ "hỗn mang" bất định này, ngôn ngữ nghệ thuật của Nguyễn Tuân đã phô bày hết mọi sắc màu, mọi phẩm chất thẩm mỹ của nó. Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn sớm tán đồng quan điểm: cái đẹp trong ngôn ngữ nghệ thuật trước hết phải trong sáng. Thậm chí, ông còn yêu cầu sự trong sáng phải đạt đến mứclinh diệu. "Tôi vẫn là một kẻ thèm khát về sự trong sáng trong tiếng nói Việt Nam. Thèm được xem (nghe thì đúng hơn là xem) một vở kịch nói thật trong sáng về ngôn ngữ. Mà những trang văn xuôi ấy được nói lên bằng những cách nói nhiều sáng tạo âm nhịp và dấu chấm dứt của những diễn viên cũng bậc thầy về ngôn ngữ Việt Nam" (2). Tuy nhiên, theo Nguyễn Tuân, trong sáng không
  3. đồng nghĩa với sự đơn giản. Ông cho rằng: "Trong sáng không khi nào lại có nghĩa là đạm bạc, là nghèo còm trong từ vựng đem ra dùng, trong cách cảm, cách nghĩ, nhất là trong cách nói ra những cảm nghĩ đó" (3). Vậy là, trong sáng phải đi đôi với sự giàu có, đa dạng; và sự giàu có đa dạng của ngôn ngữ nghệ thuật được thể hiện trên tất cả các cấp độ. Về mặt từ vựng, Nguyễn Tuân đã tự trang bị cho mình một vốn liếng có lẽ không thua kém bất cứ nhà văn nào cùng thời. Ông biết "làm giàu" bằng nhiều cách: thâu góp từ ngữ trong cuộc đời sinh động và qua sách vở; vận dụng tối đa các phương thức tạo từ trong tiếng Việt để tạo từ mới, lạ; có thái độ hết sức cởi mở đối với lớp từ vay mượn, nhất là từ Hán - Việt… Ông xem sự bề bộn, phong phú, phức tạp là dấu hiệu của sự "ăn nên làm ra". Đọc văn Nguyễn Tuân, nhiều lúc ta bắt gặp những tiếng Tây, tiếng Tàu được ông phiên âm để làm nổi bật cái sắc màu phương xa xứ lạ, và những từ như vậy đã được dùng một cách tối ưu. Cũng không phải vô cớ trong văn Nguyễn Tuân, từ Hán - Việt, nhất là những từ mới mẻ, lạ tai, có thể còn xa lạ đối với nhiều người được ông sử dụng một cách thật phóng túng, chẳng hạn: mệnh đường, thừa nhàn, chính tích, phát du, phụ chấp, phả khuyến, quan phu, đối ngạn, quần phong, văn hoả, nhật kì, lộng hiểm, triệt soạn, quyện huyệt, liễm kết, thiên trường hận ca, nhập nhĩ nhập nhỡn, hỗn thế hỗn trần…Không dễ cảm thụ tác phẩm nếu thiếu sự chú giải cẩn thận. Đáng kể nhất là những tìm tòi sáng tạo của Nguyễn Tuân về cách nói. Ông gọi thuốc lào là cỏ tương tư, trí thức là bọn bán óc, thơ lục bát là cách nói sáu tám, chết được gọi là mạch sống đứt phựt, đưa năm được dùng thay cho tiễn năm cũ, khuôn mặt được gọi là khổ mặt, tàu hoảthành ô-tô ray, đèn pha ô-tô được thay bằng con mắt điện… Có thể tìm thấy vô số những dẫn chứng kiểu này trong văn
  4. Nguyễn Tuân. Càng về sau, tần số xuất hiện của chúng càng cao. Đây là một trong những "bí thuật" mà Nguyễn Tuân ưa dùng để làm giàu thêm vốn từ và luôn thay đổi "thực đơn" cho người thưởng thức, dẫu có lúc vì điều này mà ông không khỏi mang tiếng là cầu kỳ, là "vầy vò chữ nghĩa" và thiếu tính đại chúng. Một phong cách ngôn ngữ không dễ đáp ứng yêu cầu của những thị hiếu khác nhau. Nguyễn Tuân cũng có nhiều sáng tạo ở cấp độ câu. Dường như câu tiếng Việt có bao nhiêu kiểu cấu trúc thì có thể tìm thấy bấy nhiêu kiểu trong văn ông. Nguyễn Tuân đặc biệt thích viết những câu văn phức hợp, nhiều thành phần, trổ nhiều "cành nhánh", tạo ấn tượng lập thể, gợi liên tưởng nhiều chiều, tránh cái cảm giác đơn điệu, đơn giản, phẳng dẹt. Mỹ cảm Nguyễn Tuân còn bộc lộ rõ trong quan niệm của ông về tiết tấu câu văn. Ưa viết câu văn có nhịp điệu, vì thế ông rất ghét những câu văn trúc trắc mà ông gọi là mắc "chứng tê thấp". Ngược lại, ông cũng dị ứng với âm điệu du dương biền ngẫu mà ông chỉ đích danh là "con hoang của thể phú", mặc dầu trong một số truyện giai đoạn đầu, ông đã không tránh khỏi sự ảnh hưởng của nó. 2. Trong quan niệm của Nguyễn Tuân, vẻ đẹp của ngôn ngữ nghệ thuật không phải là cái gì mù mờ, sương khói, "khả giải bất khả giải chi gian" mà là điều có thể cảm nhận được bằng giác quan, phân tích được bằng lý trí. Phan Ngọc nhận xét: "Nguyễn là người đầu tiên nêu được cái đẹp ở khía cạnh kỹ thuật…Anh ra sức tìm hiểu chữ tại sao, đi vào kĩ thuật tạo ra cái đẹp" (4). Ý thức này của Nguyễn Tuân thể hiện không chỉ qua việc đánh giá hiệu quả ngôn ngữ trong tác phẩm của người khác, không chỉ trong việc khám phá cái đẹp tiềm ẩn của tiếng Việt, mà quan trọng hơn, nó thể hiện trong thao tác sử dụng ngôn ngữ của ông. Thực chất, những mặt ấy có tác dụng bổ trợ cho nhau một cách tích cực.
  5. Từ góc nhìn vật lý, Nguyễn Tuân giảng giải rất thuyết phục cái đẹp của câu thơ Chinh phụ ngâmTrống Tràng Thành lung lay bóng nguyệt: ánh trăng được nhìn "qua một lớp không khí đang bị xô dồn bởi nhiều vòng sóng âm toả ra từ một nhạc cụ trầm hùng"(5). Nguyễn Tuân đã tìm hiểu sự thú vị của tiếng Việt qua hiện tượng "díu ba", "díu tư". Bằng thống kê cẩn thận như thao tác của một nhà nghiên cứu ngôn ngữ và bằng ngữ cảm khá tinh tế, ông chỉ ra một nét nghĩa của những từ có phụ âm KH: "Khi lọc qua được cái bảng phụ âm kép trên đó thì tôi có cái ấn tượng là phụ âm kép KH hay nhấn vào khía tiêu cực của những biểu hiện sự sống, thông qua tiếng nói của lớp lớp thế hệ lao động nước ta, và thông qua ký hiệu của văn tự Việt Nam" (6). Giới nghiên cứu Việt ngữ đã có những ý kiến cho rằng trong tiếng Việt, có hiện tượng nghĩa gắn với phần vần (trường hợp từ láy) (7), bên cạnh những nét nghĩa gắn với cặp phụ âm ở những từ láy phụ âm đầu (8). Nguyễn Tuân có lẽ là người đầu tiên nêu lên nét nghĩa ở phụ âm trong lớp từ không phải là từ láy. Có thể xem đó là những gợi ý rất thú vị cho việc nghiên cứu ngữ nghĩa của từ tiếng Việt. Đặc biệt, những cảm nhận, những ấn tượng như trên đây đã góp phần mài sắc cái khả năng sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Tuân trong công việc viết văn. Trước khi truyền đến cho người đọc hiệu quả về sức mạnh ảo diệu của ngôn từ, chính tác giả đã thực sự trải nghiệm những cảm giác đó. Nguyễn Tuân chưa bao giờ quan niệm chữ là một thứ vật liệu vô hình thể, câm lặng. Trái lại, ông nhận rõ kích thước, hình hài, âm vang của chúng bằng chính những giác quan tinh nhạy. Ông nêu lên vai trò thẩm tra lời văn của cặp mắt soi xuống dòng trang; của đôi tai lọc bụi bặm trong từng lời từng tiếng; thậm chí còn phải ngửi, phải nếm để xem vị văn mặn nhạt ra sao; phải dùng lòng bàn tay mình sờ lại góc cạnh câu văn để quyết định mài dũa thế nào cho vừa ý người thưởng thức. "Có những
  6. chữ, những tiếng mỗi lần vác trong kho dân tộc ra mà dùng cần phải gieo nó xuống, cần phải gõ nó lên mà đo lại những vòng ngân vang hưởng của nó".(9) Thật là công phu! Câu nói nổi tiếng của Đỗ Phủ: "Ngữ bất kinh nhân tử bất hưu" (chữ dùng không kinh người, chết không yên) quả có phần đúng với trường hợp Nguyễn Tuân. Tuy nhiên, sự khổ hạnh trong lao động tìm lời, chuốt chữ, đặt câu của Nguyễn Tuân vẫn khác biệt căn bản với kiểu "thôi xao" chữ nghĩa của người xưa. Sự khác biệt là ở cái nhìn kỹ thuật như đã nói trên. Nhãn quan kỹ thuật trong sáng tạo nghệ thuật là sản phẩm của thời hiện đại, khi con người đã có khả năng phân tích vật liệu (ở đây là ngôn từ) bằng những kiến thức khoa học. Những dẫn chứng nêu trên cho thấy Nguyễn Tuân đã có được những phẩm chất của một kiểu tư duy hiện đại trong quan niệm về ngôn ngữ. Trong mắt Nguyễn Tuân, dường như ngôn ngữ cũng là một kiểu "đồ vật" đặc biệt. Nó khiến ông có thể ngắm nghía, lật xoay, tỉa tót, chạm trổ, tháo lắp, tạo dáng cho phù hợp với mỹ quan của ông. Ông "gieo xuống", "gõ lên", lắng nghe độ vang ngân của chúng để mà đặt mỗi chữ, mỗi lời vào đúng chỗ thật đắc địa. 3. Sinh thời, trong cuộc sống và trong tác phẩm, Nguyễn Tuân không hề giấu giếm khao khát hưởng lạc. Hành lạc trong ẩm thực, trong xê dịch giang hồ, trong men rượu và khói thuốc phiện, trong thanh sắc ca nữ cô đầu…đã đành; lại còn một kiểu hưởng lạc khác lạ cũng được ông nói tới một cách rất thành thực: ấy là hưởng lạc trong viết văn (10). Ông tìm thấy những khoái thú đặc biệt trong việc tự biểu hiện cái cái bản ngã độc đáo vô song của m ình bằng sự hành ngôn. Ta mới hiểu tại sao Nguyễn Tuân vừa cảm thấy viết văn là một sự khổ hạnh, lại vừa "sung sướng đến
  7. chảy nước mắt ra đến nỗi có thể tưởng rằng mình sẽ chết ngay được nếu bị tước mất cái quyền viết" (Võng ngô đồng). Kiệm lời đến mức dè sẻn hay đa ngôn đến mức phóng túng - hai cách ứng xử với ngôn ngữ trái ngược nhau ấy hoàn toàn bình đẳng trong công việc làm ra sản phẩm nghệ thuật, miễn sao đạt đến những giá trị đích thực. Nguyễn Tuân theo hướng thứ hai, và cách lựa chọn ấy tỏ ra rất hợp với cá tính sáng tạo cũng như sở trường của ông. Trong viết văn, Nguyễn Tuân thuộc hạng "xài sang", nghĩa là rất tốn chất liệu. Lối viết này vừa cho phép nhà văn lật xoay mọi góc cạnh của đối tượng được miêu tả, lại vừa giãi bày miên man cái thế giới nội tâm phức tạp, những suy tưởng lạ lùng của mình. Nhờ đó, người đọc có thể hình dung "khuôn mặt tinh thần" của nhà văn qua "hình tượng ngôn từ" trong tác phẩm của ông. Suốt đời, Nguyễn Tuân phấn đấu cho sự giàu có, đa sắc, tinh tế của ngôn ngữ nghệ thuật là bởi lý do căn bản đó. Từng có lúc Nguyễn Tuân thú nhận: "Lòng kiêu căng của ta đã xui ta chỉ chơi có một lối độc tấu"(11). Chữ "độc tấu" mà Nguyễn Tuân dùng ở đây hàm chứa nhiều nghĩa. Xét về mặt ngôn ngữ, "độc tấu" là sự thể hiện bản sắc riêng, độc đáo của người nghệ sĩ. Với Nguyễn Tuân, dù là viết bút ký hay tuỳ bút, truyện ngắn hay tiểu thuyết, bao giờ lời văn của ông cũng vang lên một giọng điệu nhất quán, không lẫn với ai khác. Trong cuộc sống, mỗi người có một giọng nói với âm sắc riêng. Viết văn, Nguyễn Tuân như muốn đem cái âm sắc cá biệt, sinh động của mình vào mỗi chữ, mỗi lời trong tác phẩm. Quan sát trên bề mặt văn bản (nhất là truyện) của ông, ta dễ dàng nhận ra ranh giới hình thức của các lớp ngôn từ, nhưng thật khó mà nghe được âm vọng của những tiếng nói khác nhau trong đó. Một điều rất lạ: Nguyễn Tuân là nhà văn phức tạp, đa dạng, ấy thế mà lời văn của ông lại nhất quán ở tính đơn âm. Chính
  8. quan niệm "độc tấu" trong sáng tạo chứ không phải là cái gì khác đã đã quy định tính chất đơn âm trong lời văn Nguyễn Tuân. Phan Ngọc quả quyết: "Trong mọi tác phẩm của Nguyễn Tuân, không có ngôn ngữ nào khác ngoài ngôn ngữ của anh chàng Nguyễn". (12) 4. Tuy nhiên, cũng như những nhà văn tài năng khác, Nguyễn Tuân từng cảm thấy rất rõ sự hạn chế của chất liệu đối với yêu cầu biểu đạt. Thực ra, đây là vấn đề chung của mọi loại hình nghệ thuật. Chất liệu nào cũng có những hạn chế nhất định. Sáng tạo nghệ thuật, xét về một khía cạnh là nỗ lực tối đa của người nghệ sĩ trong việc khắc phục những hạn chế của chất liệu. Trong lịch sử triết học và lịch sử nghệ thuật, vấn đề quan hệ giữa ngôn ngữ và tồn tại từng thu hút sự quan tâm của nhiều nhà tư tưởng. Những hoài nghi triết học về khả năng của ngôn ngữ trong việc nhận thức chân lý, trong việc tái hiện hình ảnh của thế giới khách quan đã nảy sinh từ Platon, Lessing và gần đây là các nhà Giải cấu trúc luận như J. Derida, R. Barthes…Trong thiên tiểu luận viết dưới hình thức đối thoại Trên đường đến với ngôn ngữ, Martin Heidegger đã nói rõ về sự hạn chế của ngôn ngữ (không riêng gì tiếng Nhật, thứ tiếng được nhắc đến trong cuộc thảo luận mà là ngôn ngữ nói chung) trong việc "chỉ ra các sự vật trong mối liên hệ phụ thộc lẫn nhau giữa chúng"(13).Sở dĩ có tình trạng đó là bởi ngôn ngữ là một hệ thống kí hiệu, và theo F.D. Saussure, mối quan hệ giữa nó với cái được biểu đạt luôn luôn là quan hệ có tính võ đoán. Cho nên, cái gọi là tính chính xác trong sự biểu đạt, xét cho cùng cũng chỉ là cách nói có tính ước lệ. Dù không bày tỏ những hoài nghi triết học như một số nhà tư tưởng, nhưng trong thực tế sáng tác, nhiều lúc Nguyễn Tuân hiểu ra sự bất cập của ngôn từ đối với yêu cầu thể hiện những cảm nhận của mình trước đối tượng được miêu tả. Hãy xem
  9. ông loay hoay thế nào khi muốn diễn tả đúng nhất cái màu nước biển Cô Tô: "Cái màu xanh luôn luôn biến đổi của màu nước bể chiều nay trên biển Cô Tô như là thử thách cái vốn từ vị của mỗi đứa tôi đang nổi gió trong lòng. Biển xanh như gì nhỉ? Xanh như lá chuối non? Xanh như lá chuối già? Xanh như mùa thu ngả cốm làng Vòng? Nước biển Cô Tô đang đổi từ vẻ xanh này sang vẻ xanh khác. Nó xanh như cái màu áo Kim Trọng trong tiết Thanh minh? Đúng một phần thôi. Bởi vì con sóng đang dội lên kia đã gia giảm thêm một chút gì, đã pha biển sang màu khác. Thế thì nước biển xanh như cái vạt áo nước mắt của ông quan Tư Mã nghe đàn trên con sóng Giang Châu thì có đúng không? Chưa được ư? Thế thì nó xanh như một màu áo cưới, được không? Hay là nói thế này: nước biển chiều nay xanh như một trang sử của loài người, lúc con người phải viết vào thân tre? Nghe hơi trừu tượng quá phải không? Mà kìa, nhìn cho kĩ mà xem, nước biển đang xanh như cái màu xanh dầu xăng của những người thiếu quê hương. Cũng không phải là sợ lai căng, nhưng nghe có vẻ vẫn chưa trúng, vẫn chưa ổn phải không? Sóng vẫn kế tiếp cái xanh muôn vẻ mới, và nắng chiều nay luôn thay màu cho sóng. Mà chữ thì không tài nào tuôn ra kịp với nhịp sóng" (Cô Tô). Đoạn văn trên đây bộc lộ hai điều trái ngược: sự giàu có và sự bất lực của ngôn từ Nguyễn Tuân khi cần định danh thật chính xác một sắc màu. Đây hoàn toàn không phải chuyện khoe chữ, làm dáng, mà là chân thành thú nhận sự thất bại khi "đua tranh với tạo hoá" (chữ của Nguyễn Đăng Mạnh). Cái bảng màu của Nguyễn Tuân dù phong phú đến đâu thì cũng chỉ là những tín hiệu ngôn ngữ, sản phẩm của tư duy, không thể nào trùng khít với cái màu thực của đối tượng trong thế giới khách quan. Nhà văn càng cố tìm cách so sánh, liên tưởng bao nhiêu, càng xa bản chất sự vật bấy
  10. nhiêu. Cho nên, đặt vấn đề tính chính xác của ngôn từ trong những trường hợp như thế này dễ rơi vào cảm tính, chủ quan. Không bao giờ có sự đồng nhất giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt. Cũng bởi điều này mà suốt cuộc đời cầm bút, không ít lần Nguyễn Tuân trải nghiệm cái cảm giác bất lực về mặt ngôn từ. Mỗi lần ngồi trước trang giấy là một lần ông cảm thấy như đối diện với "pháp trường trắng", cũng như nhiều lúc ông rơi vào cảnh ngộ của "một kẻ cùng đường bên dòng sông chữ quạnh vắng thê lương". Đó là tâm thế của một nghệ sĩ trung thực và có yêu cầu rất cao trong nghề nghiệp. Những điều đã trình bày trên đây cho thấy Nguyễn Tuân là nhà văn định hình một nhãn quan ngôn ngữ rất rõ nét. Nó thể hiện sự ý thức sâu sắc của ông về chất liệu của thứ nghệ thuật mà ông đã "đặt cược" cả đời mình vào đó. Nhãn quan ấy dĩ nhiên đã chi phối sự lựa chọn thể loại trong quá trình sáng tác và chi phối mọi cấp độ ngôn từ trong tác phẩm của Nguyễn Tuân. Và chính nó là yếu tố hàng đầu quyết định sự hình thành một phong cách ngôn ngữ độc đáo vào bậc nhất trong văn học Việt Nam hiện đại. ----- Chú thích: (1) Dẫn theo Vương Trí Nhàn, Một thời đại mới trong văn học (nhiều tác giả), NXB Văn học, 1995, tr 234. (2), (3), (5), (6), 9), (10) Nguyễn Đăng Mạnh sưu tầm, biên soạn, Nguyễn Tuân bàn về văn học nghệ thuật, NXB Hội nhà văn, 1999, tr 636, tr 637, tr 630, tr 660, tr 635, tr 740.
  11. (4) Phan Ngọc, Thử xét văn hoá văn học bằng ngôn ngữ học, NXB Thanh niên, 2000, tr 202. (7) Phi Tuyết Hinh, Vai trò của các nguyên âm trong sự tạo nghĩa của từ láy tiếng Việt, TC Ngôn ngữ số 4/1985, tr 56-57. (8) Trần Ngọc Thêm, Bàn về hình vị tiếng Việt dưới góc độ ngôn ngữ học đại cương: thảo luận chuyên đề "tiếng, hình vị và từ trong tiếng Việt", TC Ngôn ngữ số 1/1984, tr 51-62. (11) Lữ Huy Nguyên tuyển chọn, Tuyển tập Nguyễn Tuân, tập 1, NXB Văn học, 1998, tr 352. (12) Phan Ngọc, Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều, NXB KHXH, 1985, tr 111. (13) M.Heidegger, Trên đường đến với ngôn ngữ, Trương Đăng Dung dịch và giới thiệu, TC Văn học nước ngoài số 1/1999, tr 116-156.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2