NHẬN THỨC CỦA NỮ SINH VIÊN<br />
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM, ĐẠI HỌC HUẾ VỀ SỨC KHỎE SINH SẢN<br />
TẠ THỊ KIM NHUNG<br />
Trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế<br />
Tóm tắt: Chúng tôi đã khảo sát nữ sinh viên của bốn khoa bao gồm Giáo<br />
dục Mầm non, Giáo dục Chính trị, Ngữ văn và Sinh học của trường Đại học<br />
Sư phạm, Đại học Huế để tìm hiểu nhận thức của sinh viên về các vấn đề<br />
liên quan đến sức khỏe sinh sản như: cấu tạo và chức năng của cơ quan sinh<br />
dục, tuổi dậy thì, chăm sóc sức khỏe sinh sản, quan hệ tình dục, mang thai,<br />
các biện pháp phòng tránh thai…Và tìm ra sự ảnh hưởng của nơi sống, thời<br />
gian học tập ở trường đại học cũng như yếu tố gia đình…tới nhận thức của<br />
nữ sinh viên về các vấn đề trên.<br />
Từ khóa: nhận thức, nữ sinh viên, trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế,<br />
sức khỏe sinh sản<br />
<br />
1. ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
Theo tổ chức Y tế thế giới (WHO), sức khỏe sinh sản được định nghĩađó là trạng thái<br />
khoẻ mạnh, hoàn hảo về thể chất, tinh thần và xã hội trong tất cả mọi khía cạnh liên<br />
quan đến hệ thống sinh sản, chức năng sinh sản và quá trình sinh sản chứ không phải<br />
chỉ là không có bệnh tật hay tổn thương ở bộ máy sinh sản. Sức khoẻ sinh sản bao gồm<br />
nhiều khía cạnh, trong đó có cả khía cạnh liên quan đến sức khoẻ tình dục[1]. Sức khoẻ<br />
sinh sản có tầm quan trọng đặc biệt đối với con người về cả mặt sinh lí cũng như tâm lí.<br />
Nữ giới là người giữ vai trò trực tiếp trong việc mang thai và sinh con, duy trì nòi giống<br />
nên cần phải hiểu rõ về sức khỏe sinh sản (SKSS) [2]. Trường đại học sư phạm có số<br />
lượng lớn nữ sinh viên, là nơi đào tạo các giáo viên tương lai, ngoài nâng cao kiến thức<br />
về SKSS để bảo vệ bản thân thì họ còn có nhiệm vụ giáo dục SKSS cho học sinh sau<br />
này, đặc biệt là sinh viên các ngành Sinh học, Giáo dục chính trị. Trong những năm gần<br />
đây, số lượng sinh viên mang thai ngoài ý muốn, phải kết hôn sớm và sinh con trong khi<br />
còn đi học có xu hướng gia tăng. Những sinh viên đó phải gián đoạn quá trình học tập,<br />
trong số đó có nhiều sinh viên đã không thể tiếp tục trở lại trường đi học do phải chăm<br />
con nhỏ và kinh tế khó khăn. Nguyên nhân chủ yếu của việc trên là do nhận thức về tình<br />
yêu, về tình dục, biện pháp phòng tránh thai cũng như bảo vệ bản thân còn hạn chế. Bên<br />
cạnh đó, với sự phát triển của kinh tế thị trường, thông tin đa dạng và đa chiều cũng<br />
phần nào ảnh hưởng đến lối sống của sinh viên hiện nay mặc dù Trường Đại học Sư<br />
phạm, Đại học Huế được đóng trên vùng đất vẫn còn giữ được nhiều nét văn hóa truyền<br />
thống. Để tìm hiểu rõ hơn nhận thức của sinh viên về sức khỏe sinh sản và những yếu tố<br />
tác động đến quá trình nhận thức đó chúng tôi đã tiến hành khảo sát nữ sinh viên năm<br />
thứ nhất và năm thứ tư.<br />
<br />
Tạp chí Khoa học và Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Huế<br />
ISSN 1859-1612, Số 03(35)/2015: tr. 98-107<br />
<br />
NHẬN THỨC CỦA NỮ SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM, ĐẠI HỌC HUẾ...<br />
<br />
99<br />
<br />
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br />
Đối tượng nghiên cứu: Nhận thức của nữ sinh viên khoa Ngữ văn, khoa Giáo dục Mầm<br />
non (GDMN), khoa Sinh học và khoa Giáo dục Chính trị (GDCT), trường Đại học Sư<br />
phạm, Đại học Huế về vấn đề sức khỏe sinh sản.<br />
Khách thể nghiên cứu bao gồm 475 bạn sinh viên nữ (SVN) năm 4 và năm 1 với đặc<br />
điểm như sau:<br />
Bảng 1. Thông tin về đối tượng nghiên cứu<br />
Stt<br />
1<br />
<br />
2<br />
<br />
3<br />
<br />
4<br />
<br />
5<br />
<br />
6<br />
<br />
Nội dung<br />
Thành thị<br />
Nơi ở<br />
Miền núi<br />
Nông thôn<br />
Cán bộ<br />
Lao động chân tay<br />
Nghề nghiệp bố mẹ<br />
Buôn bán<br />
Dư giả<br />
Thu nhập gia đình<br />
Đủ ăn<br />
Khó khăn<br />
Ở trọ bên ngoài<br />
Kí túc xá<br />
Nơi ở khi học đại học<br />
Ở với gia đình<br />
Khác<br />
Chưa có người yêu<br />
Đang có người yêu<br />
Tình yêu sinh viên<br />
Có người yêu nhưng đã chia tay<br />
Đã có chồng<br />
Hòa thuận<br />
Hay cãi nhau<br />
Tình trạng hôn nhân<br />
Ly thân<br />
của bố mẹ<br />
Ly hôn<br />
Góa bụa<br />
<br />
Số lượng<br />
92<br />
62<br />
321<br />
71<br />
279<br />
125<br />
33<br />
389<br />
53<br />
263<br />
45<br />
153<br />
14<br />
212<br />
174<br />
77<br />
12<br />
395<br />
36<br />
8<br />
6<br />
30<br />
<br />
Tỉ lệ (%)<br />
19,4<br />
13,1<br />
67,6<br />
14,9<br />
58,7<br />
26,3<br />
6,9<br />
81,9<br />
11,2<br />
55,4<br />
9,5<br />
32,2<br />
2,9<br />
44,6<br />
36,6<br />
16,2<br />
2,5<br />
83,2<br />
7,6<br />
1,7<br />
1,3<br />
6,3<br />
<br />
Nhìn chung khách thể nghiên cứu khá đa dạng về nhiều đặc điểm (cá nhân, gia đình,<br />
nhà trường và xã hội). Điều này có thể sẽ ảnh hưởng đến mức độ nhận thức, thái độ và<br />
hành vi của các bạn về SKSS.<br />
- Phương pháp nghiên cứu<br />
Phương pháp chính chúng tôi sử dụng để nghiên cứu là phương pháp điều tra bằng<br />
phiếu hỏi. Dữ liệu thu được qua phiếu hỏi được xử lí bằng phần mềm SPSS 17.0.<br />
<br />
100<br />
<br />
TẠ THỊ KIM NHUNG<br />
<br />
3. NHẬN THỨC CỦA SINH VIÊN NỮ VỀ SỨC KHỎE SINH SẢN<br />
3.1. Tự đánh giá của sinh viên nữ về SKSS<br />
Bảng 2. Tự đánh giá mức độ nhận thức của SVN về SKSS<br />
Tiêu chí<br />
Khoa<br />
<br />
Năm<br />
Nghề nghiệp bố mẹ<br />
<br />
Đối tượng<br />
GDMN<br />
VĂN<br />
GDCT<br />
SINH<br />
1<br />
4<br />
Cán bộ<br />
Lao động tay chân<br />
Kinh doanh<br />
<br />
Số lượng<br />
280<br />
77<br />
58<br />
60<br />
276<br />
199<br />
71<br />
279<br />
125<br />
<br />
Điểm TB<br />
3,38<br />
3,42<br />
3,31<br />
3,45<br />
3,42<br />
3,34<br />
3,58<br />
3,31<br />
3,45<br />
<br />
Độ lệch chuẩn<br />
0,82<br />
0,73<br />
0,94<br />
0,81<br />
0,84<br />
0,79<br />
0,94<br />
0,76<br />
0,86<br />
<br />
Kết quả bảng trên cho thấy SVN tự đánh giá mức độ nhận thức của mình về SKSS khá<br />
tốt, có điểm trung bình 3.39. Trong đó sinh viên khoa Sinh học tự đánh giá mức độ nhận<br />
thức tốt nhất và thấp nhất là khoa GDCT. Năm 1 cũng tự đánh giá cao hơn năm 4, tuy<br />
nhiên tất cả sự chênh lệch này đều không có ý nghĩa thống kê. Xét theo khía cạnh nghề<br />
nghiệp của bố mẹ, phân tích phương sai một yếu tố cho thấy nhóm sinh viên có bố mẹ<br />
là nghề nghiệp cán bộ, kinh doanh có điểm trung bình cao hơn với nhóm sinh viên có bố<br />
mẹ làm các nghề lao động chân tay, (F (2; 2.31) = 3.47, p< 0.05).<br />
3.2. Nhận thức của SVN về cấu tạo và chức năng cơ quan sinh dục nữ, tuổi dậy thì<br />
Chúng tôi đã đưa ra 6 nội dung liên quan đến cấu tạo và chức năng của cơ quan sinh dục<br />
nữ gồm: Âm vật là nơi kích thích sẽ tạo ra khoái cảm, số sinh viên trả lời đúng chiếm<br />
76%; môi lớn, môi bé bảo vệ toàn bộ cơ quan sinh dục nữ 80%; lỗ âm đạo nơi đón dương<br />
vật khi giao hợp và là nơi máu kinh thoát ra ngoài 89,7%; lỗ niệu đạo là nơi dùng để tiểu<br />
tiện đạt 82,3%; buồng trứng là nơi sản sinh ra trứng và tiết ra hoocmon sinh dục nữ đạt<br />
93,5%; tử cung là nơi chứa thai nhi đạt 85,7%. Như vậy, các bạn sinh viên nữ đã có nhận<br />
thức khá tốt về cấu tạo và chức năng của các cơ quan sinh dục nữ với những nội dung<br />
được nói đến ở trên. Tỉ lệ sinh viên trả lời đúng các câu hỏi đều trên 80%, ngoại trừ nội<br />
dung “Âm vật là nơi kích thích tạo ra khoái cảm”. Nội dung “buồng trứng là nơi sản sinh<br />
ra trứng và tiết ra hoocmon sinh dục nữ” có tỉ lệ câu trả lời đúng cao nhất 93,5%.<br />
Tuổi dậy thì là một giai đoạn hết sức đặc biệt trong cuộc đời của mỗi bạn nữ. Nó đánh<br />
dấu một bước ngoặt trong quá trình phát triển của cơ thể, làm cho một bé gái trở thành<br />
một cô gái. Chúng tôi đã tiến hành khảo sát về dấu hiệu bắt đầu dậy thì và dấu hiệu dậy<br />
thì chính thức, kết quả thể hiện ở bảng sau.<br />
<br />
NHẬN THỨC CỦA NỮ SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM, ĐẠI HỌC HUẾ...<br />
<br />
101<br />
<br />
Bảng 3. Nhận thức về dấu hiệu dậy thì ở nữ<br />
Khoa<br />
Chỉ tiêu<br />
Dấu hiệu<br />
bắt đầu dậy<br />
thì (Tuyến<br />
vú bắt đầu<br />
phát triển)<br />
Dấu hiệu<br />
dậy<br />
thì<br />
chính thức<br />
(Xuất hiện<br />
kinh<br />
nguyệt lần<br />
đầu tiên)<br />
<br />
Chung<br />
<br />
GDMN<br />
SL<br />
(%)<br />
<br />
Ngữ văn<br />
SL<br />
(%)<br />
<br />
GDCT<br />
SL<br />
(%)<br />
<br />
Sinh học<br />
SL<br />
(%)<br />
<br />
SL<br />
<br />
(%)<br />
<br />
139<br />
<br />
49,6<br />
<br />
18<br />
<br />
23,4<br />
<br />
16<br />
<br />
27,6<br />
<br />
10<br />
<br />
16,7<br />
<br />
183<br />
<br />
38,5<br />
<br />
236<br />
<br />
84,3<br />
<br />
53<br />
<br />
68,8<br />
<br />
43<br />
<br />
74,1<br />
<br />
48<br />
<br />
80,0<br />
<br />
380<br />
<br />
80,0<br />
<br />
Về dấu hiệu bắt đầu dậy thì ở nữ lựa chọn đúng có tỉ lệ khá thấp 38,5%, có thể do đặc<br />
điểm này xuất hiện sớm khi các bạn nữ còn ít tuổi nên ít được chú ý. Nghiên cứu cũng<br />
cho thấy mức độ nhận thức về dấu hiệu bắt đầu dậy thì có sự khác biệt giữa các khoa,<br />
trong đó khoa GDMN có mức độ nhận thức cao nhất, khoa Sinh thấp nhất theo kết quả<br />
kiểm định Chi-bình phương(χ2(3) = 37,1; p< 0,001).Dấu hiệu dậy thì chính thức ở nữ là<br />
dấu hiệu khá đặc biệt và dễ nhận biết nên lựa chọn đúng có tỉ lệ khá cao 80%.<br />
3.3. Nhận thức của SVN về tình dục<br />
Chúng tôi đã tiến hành khảo sát sinh viên nữ về quan niệm cho phép “quan hệ tình dục<br />
trước hôn nhân”, kết quả cho thấy phần lớn các bạn nữ chọn đáp án không đồng ý và có<br />
tỉ lệ tương đồng giữa các khoa, một số ít bạn phân vân và đồng ý, số lượng bạn nữ rất<br />
đồng ý rất thấp. (Bảng 4)<br />
Bảng 4. Mức độ đồng ý với quan niệm cho phép quan hệ tình dục trước hôn nhân<br />
Mức độ<br />
1. Rất đồng ý<br />
2. Đồng ý<br />
3. Phân vân<br />
4. Không đồng ý<br />
<br />
GDMN<br />
SL<br />
%<br />
SL<br />
%<br />
SL<br />
%<br />
SL<br />
%<br />
<br />
20<br />
7,1<br />
30<br />
10,7<br />
33<br />
11,8<br />
197<br />
70,4<br />
<br />
Khoa<br />
VĂN<br />
GDCT<br />
9<br />
4<br />
11,7<br />
6,9<br />
10<br />
5<br />
13,0<br />
8,6<br />
18<br />
10<br />
23,4<br />
17,2<br />
40<br />
39<br />
51,9<br />
67,2<br />
<br />
SINH<br />
9<br />
15,0<br />
8<br />
13,3<br />
8<br />
13,3<br />
35<br />
58,3<br />
<br />
Chung<br />
42<br />
8,8<br />
53<br />
11,2<br />
69<br />
14,5<br />
311<br />
65,5<br />
<br />
Khi đề cập đến vấn đề như thế nào là quan hệ tình dục có trách nhiệm có 314 bạn<br />
<br />
102<br />
<br />
TẠ THỊ KIM NHUNG<br />
<br />
(66,1%) trả lời phù hợp, tức là quan hệ tình dục sau khi kết hôn. Với kết quả trên cho<br />
thấy SVN đã có nhận thức ở mức khá khi xác định thời điểm phù hợp để quan hệ tình<br />
dục theo quan niệm và văn hóa của người Việt. Kết quả kiểm định Chi bình phương, xét<br />
theo góc độ ngành học cho thấy, tỉ lệ sinh viên trả lời đúng có khác biệt (χ2(3) = 22.7;<br />
p< 0.001); sinh viên khoa GDMN có tỉ lệ câu đúng cao nhất và thấp nhất vẫn là sinh<br />
viên khoa Sinh học.<br />
Trong quan hệ tình dục không chỉ cần có trách nhiệm mà cần phải an toàn. Chúng tôi<br />
cũng tiến hành khảo sát sự hiểu biết của nữ sinh viên về quan hệ tình dục an toàn, kết<br />
quả cho thấy, tỉ lệ SVN có câu trả lời đúng hoàn toàn chỉ đạt dưới mức trung bình<br />
37,1%. Có 20% chọn phương án quan hệ tình dục có sử dụng bao cao su và 4% các bạn<br />
nữ cho rằng quan hệ tình dục không giao hợp nhưng vẫn đạt khoái cảm bằng cách ôm<br />
hôn vuốt ve là an toàn mới chỉ đúng một phần. Khi so sánh giữa các khoa, chúng tôi<br />
nhận thấy có sự khác biệt, kết quả theo thứ tự là: GDMN cao nhất (44,3%), khoa sinh<br />
(33,3%), GDCT (25,9%) và khoa văn (22,1%) với χ2(3) = 17,2; p< 0,001. Như vậy, có<br />
thể thấy kiến thức về quan hệ tình dục an toàn của các bạn nữ sinh viên vẫn chưa đầy<br />
đủ. Phần lớn các bạn cho rằng quan hệ tình dục là phải có giao hợp hay quan hệ tình dục<br />
an toàn chỉ nghĩa là không để mang thai hay khi đã đủ lớn, thường sau 18 tuổi. Chính vì<br />
vậy, khi bước vào một mối quan hệ tình cảm với bạn khác giới và để xảy ra quan hệ tình<br />
dục, nếu bạn nữ không biết rõ cách thức để bảo vệ bản thân, quan hệ tình dục không an<br />
toàn thì nguy cơ mang thai ngoài ý muốn và bị các bệnh lây qua đường tình dục rất cao.<br />
Đây là vấn đề đáng lưu tâm trong GDSKSS cho sinh viên.<br />
Chúng tôi cũng đưa ra một số bệnh lây qua đường tình dục để khảo sát. Kết quả cho<br />
thấy đa số các bạn sinh viên đã biết khá tốt về các bệnh lây qua đường tình dục, đó là<br />
bệnh lậu, giang mai, mụn rộp, sùi mào gà, hạ cam, viêm gan B, HIV/AIDS. Một số ít<br />
các bạn chỉ biết được một số bệnh, trong đó HIV/AIDS được chú ý nhiều hơn. Các bạn<br />
cũng biết được những con đường lây các căn bệnh này, trong đó quan hệ tình dục không<br />
an toàn đóng vai trò quan trọng.<br />
Quan hệ tình dục đồng giới là một vấn đề khá mới mẻ ở Việt Nam, chúng tôi cũng khảo<br />
sát quan niệm của các bạn nữ về vấn đề này. Kết quả cho thấy có nhiều ý kiến trái chiều<br />
nhau về quan hệ đồng tính, tỉ lệ sinh viên có câu trả lời phù hợp chỉ có 28,8%, còn lại<br />
cho rằng không thể chấp nhận được hay không quan tâm. Có 17 sinh viên cho các ý<br />
kiến khác nhau như: không bình thường, thấy thương cảm, ghê sợ, bệnh hoạn… Kết quả<br />
cũng có sự khác biệt giữa các ngành học, (χ2(9) = 28,06; p< 0,001). Khi hỏi về thuật<br />
ngữ chỉ quan hệ đồng tính nữ có 320 (67,4%) sinh viên có đáp án đúng là Lesbian.<br />
Như vậy nhìn chung các bạn nữ sinh viên vẫn chưa có cái nhìn đầy đủ về vấn đề này.<br />
Hiện nay, các quan niệm về giới, giới tính và quan hệ đồng tính… đã cởi mở hơn. Tình<br />
yêu đồng tính được xem là mối quan hệ bình thường giống như tình yêu dị tính hay tình<br />
yêu của người chuyển giới. Tuy nhiên ở Việt Nam, những định kiến không tốt về các<br />
mối quan hệ này vẫn còn khá nặng nề. Khi xét theo ngành học chúng tôi nhận thấy kết<br />
quả có sự khác biệt về câu trả “bình thường”, trong đó sinh viên khoa GDCT và Ngữ<br />
văn có thái độ cởi mở hơn, sinh viên khoa Sinh học khắt khe hơn.<br />
<br />