intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Nhận thức lại vấn đề sức khỏe/bệnh tật dưới góc độ sinh thái học chính trị - xã hội và nhân văn trong thời đại ngày nay

Chia sẻ: Hạnh Hoa | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

45
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết "Nhận thức lại vấn đề sức khỏe/bệnh tật dưới góc độ sinh thái học chính trị - xã hội và nhân văn trong thời đại ngày nay" giới thiệu đến bạn đọc những nội dung sau: Quan niệm về sức khỏe và bệnh tật trong lịch sử loài người, sức khỏe và bệnh tật trước hết mang tính chất xã hội, phương pháp tiếp cận mac‐xit trong nghiên cứu xã hội học sức khỏe ‐ bệnh tật, thực tế Việt Nam, một số định hướng chiến lược đào tạo nguồn nhân lực ngành y tế theo tiến trình đổi mới căn bản và toàn diện hệ thống giáo dục Việt Nam trong tương lai. Mời các bạn cùng tham khảo bài viết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Nhận thức lại vấn đề sức khỏe/bệnh tật dưới góc độ sinh thái học chính trị - xã hội và nhân văn trong thời đại ngày nay

YHọcTP.HồChíMinh*Phụ Bản Tập18*Số 6*2014 <br /> <br /> Tổng Quan<br /> <br /> NHẬN THỨC LẠI VẤN ĐỀ SỨC KHỎE / BỆNH TẬT DƯỚI GÓC ĐỘ <br /> SINH THÁI HỌC CHÍNH TRỊ – XàHỘI VÀ NHÂN VĂN  <br /> TRONG THỜI ĐẠI NGÀY NAY <br /> Lê Thế Thự* <br /> Khái niệm về sức khoẻ và bệnh tật ngày nay <br /> không tồn tại một cách trừu tượng mà luôn gắn <br /> kết  với  các  điều  kiện  sống  cả  về  mặt  vật  chất <br /> cũng  như  tinh  thần.Quan  điểm  hiện  đại  về  sức <br /> khoẻ  và  bệnh  tật  được  hình  thành  từ  các  lý <br /> thuyết, trường phái khác nhau.  <br /> <br /> phối hợp nghiên cứu trên lĩnh vực đa ngành và <br /> là  cơ  sở  khoa  học  đầu  tiên  cho  những  nghiên <br /> cứu xã hội học về sức khỏe và bệnh tật mà mãi <br /> tới  thế  kỷ  XX  lĩnh  vực  này  mới  được  xem  xét <br /> trong mối quan hệ của các nhân tố xã hội và văn <br /> hoá. <br /> <br /> QUAN  NIỆM  VỀ  SỨC  KHỎE  VÀ  BỆNH <br /> TẬT TRONG LỊCH SỬ LOÀI NGƯỜI <br /> <br /> Ngày nay, do tác động của cuộc cách mạng <br /> khoa  học  kỹ  thuật  đã  đưa  đến  những  biến  đổi <br /> sâu sắc của đời sống xã hội trên bình diện toàn <br /> cầu.  Các  vấn  đề  về  sức  khoẻ  và  y  tế  không <br /> những chỉ phát triển trong phạm vi của từng cá <br /> thể, từng quốc gia và khu vực mà còn ngày càng <br /> phát triển trong kế hoạch toàn cầu. Tại Hội nghị <br /> Quốc  tế  của  Liên  Hiệp  Quốc  ở  Viene  tháng  8 <br /> năm 1979, đề tài “Vai trò của khoa học trong việc <br /> giải quyết các vấn đề có tính chất toàn cầu trong <br /> thời đại ngày nay”được đưa ra thảo luận và y tế <br /> được coi là vấn đề toàn cầu cùng với các vấn đề <br /> bảo  vệ  môi  trường,  dân  số  học,  vấn  đề  dinh <br /> dưỡng,  khủng  hoảng  năng  lượng,…  Tầm  quan <br /> trọng về mặt xã hội của y tế cũng đặc biệt tăng <br /> lên  thể  hiện  ở  nhu  cầu  ngày  càng  tăng  đối  với <br /> việc bảo đảm cho nhân dân quyền được bảo vệ <br /> sức  khỏe  như  một  trong  những  quyền  cơ  bản <br /> trong  xã  hội  của  con  người  và  trở  thành  một <br /> khẩu hiệu chính trị – xã hội quan trọng ở tất cả <br /> các nước đã có chế độ xã hội khác nhau. Trong <br /> bối cảnh của những biến đổi sâu sắc của thế giới <br /> ngày  nay,  nhiều  người  đã  hiểu  ra  rằng  xã  hội <br /> đang  quyết  định  tình  trạng  sức  khoẻ  của  nhân <br /> dân.Ảnh hưởng của xã hội và sự văn minh hóa <br /> ngày càng được coi như là những yếu tố cơ bản <br /> của  bệnh  lý.Phạm  trù  sức  khoẻ  không  chỉ  là <br /> phạm  trù  sinh  học  mà  còn  là  phạm  trù  xã  hội <br /> học và chính trị học. <br /> <br /> Kể  từ  thuở  bình  minh  của  nhân  loại,  con <br /> người đã tìm mọi cách để lý giải về bệnh tật và <br /> các  phương  sách  chống  lại  chúng.  Đạo  Thiên <br /> Chúa  quan  niệm  bệnh  tật  là  sự  làm  trong  sạch <br /> tâm hồn qua sự chịu đựng khổ đau để được gần <br /> với  Chúa  hơn  và  về  với  Chúa  một  cách  thanh <br /> thản. Lần đầu tiên trong lịch sử cổ đại, người Hy <br /> Lạp  đã  quan  sát  và  lý  giải  về  sự  phát  bệnh  và <br /> cách phòng ngừa, kết thúc thời kỳ nô lệ của con <br /> người vào bệnh tật, để đi đến một lý thuyết đặc <br /> trưng của thời kỳ này là y học và sức khoẻ dựa <br /> trên sự cân bằng của 4 dịch thể trong cơ thể là: <br /> máu, đờm dãi, mật xanh và mật vàng. <br /> Sau thời kỳ phục hưng (khoảng giữa thế kỷ <br /> XVII  –  XVIII),  các  nhà  khoa  học  đã  nghiên  cứu <br /> và  khẳng  định  chức  năng  của  tim  và  sự  tuần <br /> hoàn  của  máu.  Năm  1847,  Ignas  Semmelweis, <br /> một  bác  sĩ  người  Hungary  đã  phát  hiện  ra <br /> nguyên  nhân  chết  của  nhiều  sản  phụ  tại  bệnh <br /> viện của ông ở nước Áo là do các bác sĩ không <br /> rửa tay trước khi đỡ đẻ cho họ. Đó chính là dự <br /> báo ra đời của thuyết vi trùng học đầu tiên. Và <br /> chỉ một năm sau đó, năm 1848, Louis Pasteur đã <br /> tìm  ra  nguyên  nhân  của  bệnh  than  (anthrax)  là <br /> do vi trùng. Lý thuyết về vi trùng của L. Pasteur <br /> thực  sự  đã  trở  thành  một  cái  mốc  lịch  sử,  một <br /> điểm son chói lọi trong lịch sử của y học thế giới. <br /> Nó  góp  phần  chấm  dứt  cách  nhìn  siêu  thực  về <br /> sức  khoẻ  và  bệnh  tật,  đặt  nền  móng  cho  việc <br /> *<br /> <br /> Những thay đổi cấu trúc xã hội, phân bố dân <br /> số, điều kiện sống và làm việc, và những yếu tố <br /> xã hội khác đã tạo ra bệnh tật và mô hình bệnh <br /> <br />  Viện Y tế công cộng TP. HCM <br /> <br /> Chuyên Đề Y Tế Công Cộng <br /> <br /> 1<br /> <br /> Tổng Quan <br /> <br /> YHọcTP.HồChíMinh*Phụ Bản Tập18*Số 6*2014<br /> <br /> tật mang tính đặc thù của các giai cấp khác nhau <br /> trong xã hội hiện đại. Những giai cấp thấp ít có <br /> khả năng tiếp cận với hệ thống chăm sóc của xã <br /> hội; và cũng chính từ những thay đổi mang tính <br /> bản chất của chế độ xã hội đã góp phần làm tha <br /> hóa  y học  và  y tế,  tính nhân  đạo  và  phẩm  chất <br /> trong  sạch  của  người  thầy  thuốc,  làm  thay  đổi <br /> hành vi đối xử của họ đối với người bệnh thuộc <br /> các  tầng  lớp  xã  hội  khác  nhau  theo  lối  kinh <br /> doanh  thương  nghiệp,  làm  cho  người  nghèo <br /> càng ngày càng bị bỏ rơi, còn những người giàu <br /> có  thìđược  chăm  sóc  vàđiều  trị  với  chất  lượng <br /> cao hơn. <br /> <br /> SỨC KHỎE VÀ BỆNH TẬT TRƯỚC HẾT <br /> MANG TÍNH CHẤT XàHỘI <br /> Quan niệm cho rằng con người là sản phẩm <br /> của xã hội, là sự kết hợp hài hòa mọi quan hệ xã <br /> hội ngay từ bên trong và nhờ đó mà hình thành <br /> những  sản  phẩm  của  xã  hội.  Sức  khoẻ  của  con <br /> người,  vì  vậy  đã  trở  thành  một  bộ  phận  không <br /> thể tách rời của tài sản xã hội và phụ thuộc vào <br /> xã  hội.  Tại  hội  nghị  về  y  tế  cơ  sở  ở  Alma‐Ata, <br /> W.L.Barton,  chuyên  gia  điều  hành  các  chương <br /> trình đào tạo của Tổ Chức Y Tế Thế Giới (WHO) <br /> đãđưa công tác y tế cơ sở phát triển lên một thời <br /> kỳ mới, xem đó là kim chỉ nam trong việc phát <br /> triển y học và những xu hướng chủ yếu đến năm <br /> 2000. Ông đã chia sự phát triển y học trong 150 <br /> năm, từ  giữa  thế kỷ thứ  XIX,  ra  làm  5  thời  đại: <br /> “Thời  đại  y  tế  kinh  nghiệm  chủ  nghĩa”,  “Thời <br /> đại các khoa học cơ bản”, “Thời đại của khoa học <br /> lâm sàng”, “Thời đại của nền y tế xã hội” và từ <br /> giữa  thế  kỷ  XX  là“Thời  đại  của  y  tế  như  một <br /> khoa học chính trị”, mà theo ông thì bắt đầu từ <br /> năm 1975. Thời đại này được coi là bước ngoặt <br /> bởi việc WHO chuyển sang một chiến lược mới, <br /> hướng vào y tế cơ sở như là một nhiệm vụ chính <br /> trị xã hội quan trọng nhất đối với tất cả các nước <br /> trên  thế  giới.  Đặc  điểm  của  thời  đại  này  là  mọi <br /> mục tiêu hoạt động của y tế đều hướng về người <br /> dân nói chung. Mối quan hệ giữa sức khoẻ và sự <br /> phát  triển  kinh  tế  xã  hội  được  thiết  lập  đã  trở <br /> thành  những  yếu  tố  mấu  chốt  nhằm  bảo  đảm <br /> <br /> 2<br /> <br /> một cách tốt nhất cho các quyền của con người <br /> trong thời kỳ này. <br /> Kết  quả  của  cuộc  điều  tra  về  các  nguyên <br /> nhân  chủ  yếu  phải  nhập  viện  được  thực  hiện <br /> trong một khu phố nghèo ở Chicago có 60.000 hộ <br /> dân. Các nguyên nhân được xếp theo thứ tự bao <br /> gồm:  tai  nạn  giao  thông,  gây  hấn  và  bạo  lực, <br /> bệnh lây qua đường tình dục, các tai nạn không <br /> thuộc giao thông, viêm phế quản, chó dại cắn,… <br /> Tóm  lại, 75%  nhập  viện  là do  các nguyên nhân <br /> xã  hội.  Các  nghiên  cứu  dịch  tễ  và  sinh  học  đã <br /> làm  nổi  lên  vai  trò  môi  trường,  lối  sống  và  giữ <br /> gìn vệ sinh trong cuộc đấu tranh chống bệnh tật <br /> và cải thiện tình trạng sức khỏe của người dân. <br /> Như  vậy,  sẽ  có  ba  căn  cứ  để  xác  định  khuynh <br /> hướng  của  một  nền  khoa  học  có  tiến  bộ  hay <br /> không tiến bộ: <br /> Một  là,  Y  học  có  biến  sức  khoẻ  và  bệnh  tật <br /> thành  những  trạng  thái  cá  nhân  và  mang  tính <br /> may  rủi  hay  không  mà  che  lấp  đi  các  nguyên <br /> nhân,  cấu  trúc  mang  tính  xã  hội,  kinh  tế,  chính <br /> trị, nghĩa là nóđã trở thành một kỹ thuật biến cái <br /> không  thể  chấp  nhận  thành  có  thể  chấp  nhận <br /> được. <br /> Hai là, Y học có dành đặc quyền cho cá nhân <br /> hưởng  các  dịch  vụ  có  tiếng  là  tốt  cho  sức  khoẻ <br /> mà hạ thấp mọi yếu tố khác mà y học không cần <br /> biết đến hay không?. <br /> Ba là, Y học có dành đặc quyền 5% cho các <br /> bệnh tật hiếm hoi, cần sự chăm sóc rất đặc biệt <br /> và những trang thiết bị phức tạp, đắt tiền so với  <br /> 95% các bệnh phổ biến nhất không?        <br /> Trong hầu hết các nước công nghiệp, bộ máy <br /> y  tế  và  các  chi  phí  cho  y  tế,  đặc  biệt  trong  lĩnh <br /> vực  y  điều  trị,  trong  vài  chục  năm  gần  đây  đã <br /> tăng  lên  một  cách  khủng  khiếp,  hai  đến  ba  lần <br /> nhanh  hơn  tổng  sản  phẩm  quốc  gia  tính  theo <br /> đầu người dân. Việc sử dụng tràn lan thuốc men <br /> và kỹ thuật y tế đã không có tác dụng nâng cao <br /> sức khoẻ hay kéo dài tuổi thọ. Ở Pháp, tuổi thọ <br /> của  nam  giới  không  tăng  từ  năm  1965  tới  năm <br /> 1990, trong khi tỉ lệ tử vong nam giới tuổi 40 và <br /> 50 gia tăng ở các nước công nghiệp.  <br /> <br /> Chuyên Đề Y Tế Công Cộng<br /> <br /> YHọcTP.HồChíMinh*Phụ Bản Tập18*Số 6*2014 <br /> Có  thể  chúng  ta  sẽ  phản  đối  rằng  tỉ  lệ  tử <br /> vong không nhất thiết phản ánh đúng tình trạng <br /> sức  khoẻ.  J.N.  Morris  đã  tiến  hành  một  loạt <br /> thống  kê  so  sánh  và  nhận  xét  rằng  sự  suy  sụp <br /> sức  khoẻ  hoặc  gia  tăng  bệnh  tật  còn  tệ  hại  hơn <br /> gia  tăng  tỉ  lệ  tử  vong.  Chỉ  trong  vòng  20  năm <br /> qua,  đã  có  sự  gia  tăng  đáng  kể  các  bệnh  mạn <br /> tính ở lứa tuổi 55 đến 60. <br /> Các  con  số  trên  đãđưa  đến  một  nhận  định <br /> rằng ”Đúng là có nhiều người bệnh hơn, nhưng <br /> con  người  cũng  sống  thọ  hơn”.  Nó  cũng  phủ <br /> định một cách mạnh mẽ việc tin tưởng sẽ có một <br /> tình trạng sức khoẻ tốt hơn nhờ hưởng thụ nhiều <br /> kỹ thuật chăm sóc y tế. Thực tế ấy còn đơn giản <br /> hơn  nhiều  khi  nói  rằng  con  người  được  chăm <br /> sóc  sức  khỏe  nhiều  hơn  bởi  vì  bản  thân  bệnh <br /> hoạn hơn! <br /> Theo một báo cáo của Viện Y học Mỹ (IoM) <br /> thuộc  Viện  Hàn  Lâm  Khoa  Học  Mỹ,  hàng  năm <br /> nước Mỹ lãng phí 750 tỷ USD tương đương 30% <br /> tổng chi phí y tế quốc gia. Trong đó:  <br /> ‐ Cung cấp dịch vụ thừa lãng phí: 210 tỷ USD. <br /> ‐ Thủ tục rối rắm, quản trị quá lố: 190 tỷ USD. <br /> ‐ Giá dịch vụ cao quá mức: 105 tỷ USD. <br /> ‐  Phân  phối dịch  vụ  y  tế  thiếu  hiệu  quả:  130  tỷ <br /> USD. <br /> ‐ Hành vi lừa đảo: 75 tỷ USD. <br /> IoM  đánh  giá,  50  năm  qua  có  nhiều  thành <br /> tựu  về  y  học  nhưng  ngày  càng  thụt  lùi  về  chất <br /> lượng,  kết  quả,  chi  phí  và  sử  dụng  dịch  vụ <br /> không công bằng. <br /> Chi  phí  cao,  hiệu  quả  thấp.Sự  lãng  phí  này <br /> lớn hơn cả ngân sách dành cho Bộ Quốc Phòng <br /> vàđủ để chăm sóc cho tất cả những người không <br /> có BHYT. <br /> Hằng năm, những  sai  sót  y  tế  của  các  bệnh <br /> viện Mỹ đã làm chết từ 44.000 đến 98.000 người. <br /> Ước tính cứ 30 bệnh nhân vào viện thì có 1 bệnh <br /> nhân bị tổn hại do các sai sót y tế. Khoảng 10% <br /> trong số này bị tử vong. Các sai sót y tế gây tổn <br /> thất  29 tỷ  USD/ năm, trong  đó  chỉ  riêng  những <br /> sai  lầm  vì  thuốc  mỗi  năm  đã  làm  chết  7.000 <br /> người, gây tổn thất 2 tỷ USD. <br /> <br /> Chuyên Đề Y Tế Công Cộng <br /> <br /> Tổng Quan<br /> <br /> IoM  cũng  cho  rằng  18%  GDP  cho  y  tế  Mỹ, <br /> cao  hơn  các  nước  phương  Tây  khác  từ  5  đến <br /> 90%. <br /> Năm 2010, 2.600 tỷ cho ngân sách y tế tức là <br /> vào  khoảng  1.000  USD/  1  người  dân  trong  khi <br /> bình quân đầu người  về y tế của Canada, quốc <br /> gia tiêu tốn y tế thứ 2 trên thế giới cũng chỉ bằng <br /> 65% so với Mỹ. Số người không có BHYT là 50 <br /> triệu  bằng  16%  dân  số,  26.000  người  chết  mỗi <br /> năm cũng là do không có BHYT. <br /> <br /> PHƯƠNG  PHÁP  TIẾP  CẬN  MAC‐XIT <br /> TRONG  NGHIÊN  CỨU  Xà HỘI  HỌC <br /> SỨC KHỎE ‐ BỆNH TẬT  <br /> Đặc  điểm  chung  của  phương  pháp  Mác  Xít <br /> là tìm cách gắn bệnh tật với cấu trúc kinh tế và <br /> sự phát triển chính trị. Engels cũng như các tác <br /> giả  Mác  Xít  khác  đã  nhìn  thấy  bệnh  tật  và  sự <br /> chữa chạy nó như là kết quả của một quá trình <br /> xã  hội.Ông  đã  tạo  ra  một  nền  khoa  học  xã  hội <br /> vàđặt cơ sở cho khoa xã hội học về sức khoẻ.Ông <br /> đưa ra 2 điểm cơ bản:  <br /> Thứ nhất, bệnh tật không phải là những sản <br /> phẩm  của  bản  chất  cá  nhân  vàtai  nạn  không  là <br /> sản phẩm của tổ chức công nghiệp.  <br /> Thứ hai, ông bác bỏ quan điểm thần học khi <br /> giải thích sự bất công trong xã hội và khẳng định <br /> ốm  đau  và  bệnh  tật  trước  hết  là  sản  phẩm  của <br /> các điều kiện xã hội chứ không phải là sự cố mà <br /> sinh vật không thể tránh khỏi. <br /> Trong hệ vấn đề nghiên cứu về sức khỏe và <br /> bệnh tật, các tác giả Liên Xô (cũ) đã cóý thức kết <br /> hợp  tri  thức  xã  hội  học  sức  khỏe‐bệnh  tật  với <br /> nghiên  cứu  xã  hội  học  lao  động,  bảo  vệ  môi <br /> trường  và  vệ  sinh  xã  hội.  Các  nghiên  cứu  thực <br /> nghiệm  về  sức  khoẻ  và  bệnh  tật  đãđược  tiến <br /> hành  trong  sự  hợp  tác  chặt  chẽ  với  chuyên  gia <br /> của các ngành tâm lý học, nhân chủng học và thể <br /> dục thể thao. <br /> Trên  căn  bản  định  nghĩa  về  sức  khỏe  của <br /> WHO 1946, sức khỏe và bệnh tật đã không chỉ là <br /> đối tượng nghiên cứu của y học thuần túy. Việc <br /> xem  xét  sức  khoẻ  trong  mối  quan  hệ  với  môi <br /> trường  gia  đình,  nhân  cách,  lối  sống  của  người <br /> <br /> 3<br /> <br /> Tổng Quan <br /> <br /> YHọcTP.HồChíMinh*Phụ Bản Tập18*Số 6*2014<br /> <br /> bệnh  là  một  điều  kiện  cần  thiết  trong  các  giải <br /> pháp để chẩn đoán và điều trị bệnh tật. <br /> <br /> THỰC TẾ VIỆT NAM  <br /> Sức  khoẻ  của  con  người  luôn  chịu  sự  tác <br /> động tổng hợp và phức tạp của các nhân tố sinh <br /> học  –  xã  hội.  Nóđược  quy  định  trước  hết  bởi <br /> chức  năng  của  các  hệ  thống  sinh  lý  và  các  quy <br /> định đặc thù sinh học (như giới tính, lứa tuổi, sự <br /> di  truyền  và  thể  trạng  bẩm  sinh),  nhưng  sức <br /> khỏe cũng phụ thuộc rất nhiều vào sự tác động <br /> của môi trường bên ngoài, đặc biệt là môi trường <br /> xã hội. Thực tế Việt Nam cũng như nhiều nước <br /> khác trên thế giới đã cho thấy rằng nguyên nhân <br /> của  rất  nhiều  căn  bệnh  hiểm  nghèo  hiện  nay <br /> hoàn  toàn  không  phải  do  nhiễm  khuẩn  mà  là <br /> hậu quả của điều kiện môi trường và lối sống. <br /> Xã hội học sức khỏe và bệnh tật đặt mục tiêu <br /> nghiên  cứu  là  giúp  cho  các  nhà  làm chính  sách <br /> và  quản  lý  xã  hội  soạn  thảo  những  biện  pháp <br /> loại trừ và ngăn chặn những ảnh hưởng của môi <br /> trường  (tự  nhiên  –  xã  hội  )  đối  với  sức  khỏe <br /> người  dân,  xây  dựng  hệ  thống  y  tế  phù  hợp <br /> nhằm  bảo  vệ  và  tăng  cường  sức  khỏe  (thể  chất <br /> và tinh thần), kéo dài tuổi thọ và khả năng sáng <br /> tạo tích cực ở mỗi thành viên trong xã hội. <br /> Để thực hiện được mục tiêu nêu trên, thời gian <br /> tới  xã  hội  học  sức  khỏe–bệnh  tật  phải  tiến  hành <br /> nghiên cứu định lượng trên những nhóm vấn đề sau: <br /> 1‐ Đánh giá thực trạng sức khỏe của các tầng <br /> lớp  dân  cư,  các  nhóm  xã  hội  và  nhóm  nghề <br /> nghiệp khác nhau bằng những khảo sát về quá <br /> trình phát triển và tái tạo thể lực, tỷ lệ mắc bệnh, <br /> tỷ lệ tàn phế (tự nhiên và tàn phế do điều kiện <br /> lao động) và những bệnh xã hội khác, kể cả bệnh <br /> AIDS. Kết quả những khảo sát này nhằm dự báo <br /> chiều hướng  thay  đổi  thể  chất  và tinh  thần  của <br /> sức khỏe người dân. Coi đó là một nguyên nhân <br /> gây ra những biến đổi tương ứng về mặt xã hội. <br /> 2‐ Đánh giá hiệu quả của hệ thống y tế, bảo <br /> hiểm y tế với việc chăm sóc sức khỏe nhân dân <br /> và  ảnh  hưởng  của  nóđến  nền  kinh  tế.  Nghiên <br /> cứu  nhằm  đưa  ra  mô  hình  phù  hợp  về  vệ  sinh <br /> phòng bệnh và chữa bệnh, nâng cao các phương <br /> <br /> 4<br /> <br /> pháp  chữa  bệnh  cũng  như  hiệu  quả  sử  dụng <br /> bệnh viện, xây dựng mối quan hệ giữa người có <br /> nhu  cầu  chăm  sóc  sức  khỏe  và  hệ  thống  người <br /> phục  vụ  nhu  cầu  đó,  tạo  thói  quen  sử  dụng  có <br /> chất lượng hệ thống y tế. <br /> 3‐  Nghiên  cứu  công  tác  giáo  dục,  tuyên <br /> truyền các biện pháp bảo vệ môi trường và sức <br /> khỏe, xây dựng ý thức và năng lực cải tạo, bảo <br /> vệ môi trường. Nghiên cứu cũng đưa ra những <br /> dự  án  thiết  lập  các  tổ  chức  xã  hội  bảo  vệ  môi <br /> trường. Trách nhiệm này được quản lý bởi các tổ <br /> chức xã hội với biện pháp xã hội là chủ yếu, chứ <br /> không phải là các biện pháp kỹ thuật y tế. <br /> 4‐  Nghiên  cứu  nhằm  mở  rộng  và  khuyến <br /> khích đầu tư phát triển các hình thức dịch vụ y <br /> tế tư nhân, xem như một hỗ trợ bổ sung vào hệ <br /> thống  chăm  sóc  sức  khỏe  của  nhà  nước.  Các <br /> hình  thức  này  phải  được  thiết  lập  trên  nguyên <br /> tắc  coi  trọng  quyền  bình  đẳng  và  ký  kết  trách <br /> nhiệm  trước  pháp  luật  trong  mục  đích  bảo  vệ <br /> môi trường sống và sức khỏe con người. <br /> Các nghiên cứu sâu theo phương pháp định <br /> tính các vấn đề sức khỏe <br /> <br /> Các nghiên cứu về cá nhân và gia đình <br /> Gia đình là môi trường đầu tiên và nhỏ nhất <br /> thực  hiện  chức  năng  bảo  vệ  và  chăm  sóc  sức <br /> khỏe.Ở  đây,  có  thể  nghiên  cứu  mô  tả  các  hình <br /> thức rèn luyện thân thể, nếp sống, sở thích sinh <br /> hoạt, thói quen, tập quán và nề nếp vệ sinh của <br /> mỗi cá nhân. Khảo sát môi trường gia đình với <br /> các  yếu  tố  về  điều  kiện  nhà  ở,  điều  kiện  dinh <br /> dưỡng,  đời  sống  gia  đình,  các  phong  tục  tập <br /> quán (tôn giáo, hôn nhân và sinh đẻ). Đánh giá <br /> ảnh hưởng của các phúc lợi công cộng (y tế, văn <br /> hóa,  giáo  dục)  và  các  chính  sách  kinh  tế  nhà <br /> nước  đến  đời  sống  vật  chất    tinh  thần  của  gia <br /> đình. <br /> Các  nghiên  cứu  về  các  nhóm  xã  hội  và  nhóm <br /> nghề nghiệp <br /> Nhằm  đánh  giá  cơ  bản  điều  kiện  làm  việc, <br /> điều kiện sống, nhà ở. Tìm hiểu ảnh hưởng của <br /> nghề  nghiệp  đến  sức  khỏe  (công  việc  vất  vả, <br /> điều kiện làm việc nguy hiểm, độc hại,…). <br /> <br /> Chuyên Đề Y Tế Công Cộng<br /> <br /> YHọcTP.HồChíMinh*Phụ Bản Tập18*Số 6*2014 <br /> Các nghiên cứu đánh giá sự “ô nhiễm” môi <br /> trường xã hội và tác hại của nó. <br /> Sức khỏe, đặc biệt sức khỏe tinh thần của con <br /> người,  dễ  phụ  thuộc  vào  những  thay  đổi  của <br /> môi  trường  xã  hội‐chính  trị.  Có  thể  đo  lường <br /> biểu  hiện  khỏe  mạnh  của  sức  khỏe  tinh  thần <br /> bằng sự  cân  bằng trong giao  tiếp  và ứng  xử  xã <br /> hội, trong đạo đức và nếp sống truyền thống. <br /> Môi trường chính trị–xã hội bị xáo trộn và rối <br /> loạn  được  biểu  hiện  bằng  tâm  trạng  xã  hội  bi <br /> quan, những khuynh hướng lệch lạc trong nhận <br /> thức và hành vi, thái độ sống bất chấp hoặc thụ <br /> động. <br /> <br /> MỘT  SỐ  ĐỊNH  HƯỚNG  CHIẾN  LƯỢC <br /> ĐÀO  TẠO  NGUỒN  NHÂN  LỰC <br /> NGÀNH  Y  TẾ  THEO  TIẾN  TRÌNH  ĐỔI <br /> MỚI  CĂN  BẢN  VÀ  TOÀN  DIỆN  HỆ <br /> THỐNG GIÁO DỤC VIỆT NAM TRONG <br /> TƯƠNG LAI <br /> Nhu cầu phục vụ phù hợp với đặc trưng xã <br /> hội  hiện  đại.  Tuổi  thọ  ngày  càng  cao  kéo  theo <br /> nhiều  hệ  lụy.  Lao  động  xã  hội  tạo  ra  thu  nhập <br /> cao. Mô hình sức khỏe/bệnh tật thay đổi theo sự <br /> phát  triển  của  xã  hội  và  hội  nhập  quốc  tế.  Đến <br /> 2030  đảm  bảo  chăm  sóc  sức  khỏe  nhân  dân <br /> ngang tầm các nước tiên tiến khu vực (Top 3) và <br /> quốc tế (Top 20) giảm nhập tăng xuất, cân bằng <br /> Nhập  –  Xuất,  tiến  tới  xuất;  dịch  vụ;  dược  liệu, <br /> dược phẩm; trang thiết bị y tế. <br /> Sản phẩm đầu ra phải đạt được 5 phẩm chất <br /> của người thầy thuốc tương lai: <br /> Cung ứng dịch vụ và chăm sóc sức khỏe cho <br /> nhân dân. <br /> <br /> Tổng Quan<br /> <br /> Trong  thực  tế  ngành  Y  có  nhiều  bộ  phận, <br /> nhiều  nội  dung  và  nhiều  phương  pháp  luận <br /> khác  nhau  nên  trong  dạy  học  có  nguy  cơ  phân <br /> tán, tản mạn, thiếu tập trung ngày càng lớn. Vì <br /> vậy,  chúng  ta  cần  tập  trung  vào  8  mục  tiêu  và <br /> giải pháp chủ yếu sau đây: <br /> Dạy nghề <br /> Hành nghề trên con người nên cần cụ thể, có <br /> hệ  thống  lí  thuyết  phức  tạp,  khái  niệm  nghề <br /> nghiệp  rõ  ràng,  thái  độ  và  y  đức  cao  cả.  Trong <br /> thực hành: tinh giản, chọn lọc, thực hành thuận <br /> lợi.Đổi  mới  nội  dung  cho  phù  hợp  với  sự  biến <br /> đổi rất nhanh của KT‐XH, của mô hình bệnh tật, <br /> cảnh giác đối với những bệnh mới nổi. Khoa học <br /> công nghệ, chẩn đoán, điều trị, phục hồi, đổi mới <br /> và phát triển liên tục.Nhu cầu chăm sóc sức khỏe <br /> ngày càng cao. <br /> Dạy phương pháp luận và tiềm năng tự phát <br /> triển <br /> Người  học  có  khả  năng  tự  học,  tự  định <br /> hướng,  tự  học  suốt  đời.Có  khả  năng  tự  nghiên <br /> cứu,  biết  đọc  sách,  truy  cập  và  xử  lý  thông  tin, <br /> biết  điều  chỉnh  và  tự  lượng  giá.Dạy  tiềm  năng <br /> tất yếu phải dạy khoa học cơ bản cốt lõi để tạo <br /> nền móng phát triển tri thức. <br /> Dạy người mục tiêu đích thực <br /> Hướng  về  việc  hình  thành  nhân  cách  con <br /> người “Tri thức + Phẩm chất + Văn hóa = Nhân <br /> cách”  (văn  hóa  sống  lớn  hơn  văn  hóa  tri <br /> thức).Dạy thái độ nghề nghiệp, ứng xử nhân văn <br /> với bệnh nhân, đồng nghiệp và cộng đồng. <br /> Coi trọng chất lượng và hiệu quả <br /> <br /> Người  quản  lý,  lập  kế  hoạch  tổ  chức  thực <br /> hiện vàđánh giá các hoạt động về sức khỏe. <br /> <br /> Chất  lượng  là  mức  độ  đạt  mục  tiêu  của <br /> người học.Hiệu quả là mối tương quan giữa chất <br /> lượng  và  chi  phí  tương  ứng  (nhân  lực,  tài  lực, <br /> thời  gian,  quản  lý,  phục  vụ).Không  thể  chỉ  coi <br /> trọng  chất  lượng  hoặc  nhấn  mạnh  đến  hiệu <br /> quả.Cái giá phải trả bao giờ cũng có giới hạn.Sản <br /> phẩm đào tạo kém phẩm chất tác hại lâu dài và <br /> sâu sắc hơn bất cứ loại thứ phẩm nào. <br /> <br /> Biết  lãnh  đạo  cộng  đồng  trong  cuộc  sống, <br /> bảo vệ và nâng cao sức khỏe của chính họ. <br /> <br /> Hài hòa giữa giáo dục tiềm năng và giáo dục <br /> nghề nghiệp <br /> <br /> Người  ra  các  quyết  định  liên  quan  đến  sức <br /> khỏe cá nhân và cộng đồng. <br /> Người làm truyền thông và tư vấn, nâng cao <br /> sức khỏe cho gia đình và cộng đồng. <br /> <br /> Chuyên Đề Y Tế Công Cộng <br /> <br /> 5<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2