intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Nhân tố Bồ Đào Nha trong thương mại biển của các quốc gia Đông Nam Á (thế kỷ XVI – thế kỷ XVII)

Chia sẻ: ViRyucha2711 ViRyucha2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:11

50
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Là một trong những thế lực phương Tây đầu tiên đến Đông Nam Á, Bồ Đào Nha đã xác lập ảnh hưởng của mình trong khu vực bằng nhiều cách thức khác nhau. Trong phạm vi bài nghiên cứu của mình, chúng tôi bước đầu hệ thống hóa quá trình bành trướng quyền lực của Bồ Đào Nha ở Đông Nam Á từ sự kiện xâm chiếm Goa (1510). Trên cơ sở đó, phân tích tác động của quá trình này đến thương mại biển của khu vực trong thế kỷ XVI và thế kỷ XVII trên cả hai phương diện tích cực và tiêu cực.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Nhân tố Bồ Đào Nha trong thương mại biển của các quốc gia Đông Nam Á (thế kỷ XVI – thế kỷ XVII)

NHÂN TỐ BỒ ĐÀO NHA TRONG THƯƠNG MẠI BIỂN<br /> CỦA CÁC QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á (THẾ KỶ XVI –<br /> THẾ KỶ XVII)<br /> Nguyễn Thị Vĩnh Linh1<br /> Tóm tắt: Là một trong những thế lực phương Tây đầu tiên đến Đông Nam Á, Bồ<br /> Đào Nha đã xác lập ảnh hưởng của mình trong khu vực bằng nhiều cách thức khác<br /> nhau. Trong phạm vi bài nghiên cứu của mình, chúng tôi bước đầu hệ thống hóa quá<br /> trình bành trướng quyền lực của Bồ Đào Nha ở Đông Nam Á từ sự kiện xâm chiếm<br /> Goa (1510). Trên cơ sở đó, phân tích tác động của quá trình này đến thương mại biển<br /> của khu vực trong thế kỷ XVI và thế kỷ XVII trên cả hai phương diện tích cực và tiêu<br /> cực.<br /> Từ khóa: Bồ Đào Nha, Đông Nam Á, thương mại biển.<br /> <br /> 1.<br /> <br /> Mở đầu<br /> <br /> Từ khi Vasco da Gama khai mở thành công tuyến đường hàng hải mới đến Ấn<br /> Độ, Bồ Đào Nha nhanh chóng bành trướng quyền lực trên toàn Ấn Độ dương. Cho<br /> đến đầu thế kỷ XVI, họ đã xác lập được 2 thương điếm có vị trí chiến lược cực kỳ<br /> quan trọng (Diu và Goa), bước đầu hiện thực hóa mục tiêu độc chiếm việc phân phối<br /> hương liệu sang châu Âu. Với sức mạnh hải quân vượt trội, Bồ Đào Nha mở rộng<br /> quyền lực đến Đông Nam Á, khu vực đóng vai trò quan trọng trong kết nối giao thương<br /> giữa Ấn Độ và Viễn Đông.<br /> 2.<br /> <br /> Nội dung<br /> <br /> 2.1 . Bồ Đào Nha thiết lập quyền lực tại Đông Nam Á<br /> Sau khi chiếm Goa (1510), Bồ Đào Nha đã phóng tầm mắt đến Đông Nam Á một trong những khu vực có mối quan hệ thương mại thường xuyên với Ấn Độ. Với<br /> chiến lược: “để giành được ưu thế về thương mại ở Ấn Độ Dương thì điều nhất thiết<br /> là phải chiếm và kiểm soát được các vị trí chiến lược chủ yếu và thúc đẩy hoạt động<br /> buôn bán có thể cung cấp thu nhập đủ để duy trì sức mạnh không gì cưỡng lại được”<br /> [1; 277], Afonso de Albuquerque (1453 – 1515) quyết định xâm chiếm Malacca (lúc<br /> này đang nằm dưới quyền thống trị của Sultan Mohamed). Dựa vào ưu thế của lực<br /> lượng hải quân và chiến lược quân sự nhạy bén, đội quân viễn chinh Bồ Đào Nha đã<br /> 1<br /> <br /> 1<br /> <br /> . TS, Khoa Văn hóa-Du lịch, trường Đại học Quảng Nam<br /> <br /> nGuyễn thỊ Vĩnh Linh<br /> <br /> đánh chiếm thành công Malacca vào năm 1511 như B. W. Diffie and G. D. Winius<br /> trong cuốn “Foundations of the Portuguese Empire 1415-1580” ca ngợi: “Việc chiếm<br /> đóng một thành phố thương mại lớn nhất của châu Á với lực lượng gần 900 người Bồ<br /> Đào Nha và 200 binh lính người Ấn Độ như là một sự kiện trong lịch sử các cuộc viễn<br /> chinh của người châu Âu và có thể sánh với việc xâm chiếm Tenochtitlan của<br /> Hernando Cortés” [7; 256]. Cũng như nhiều cứ điểm ven biển Ấn Độ dương,<br /> Albuquerque lập tức cho xây dựng pháo đài A Famosa do Ruy de Brito Patalim làm<br /> tổng chỉ huy, thực thi chế độ độc quyền thương mại trên tuyến hàng hải từ Malacca<br /> đến Ấn Độ. Thế nhưng, quân đội Bồ Đào Nha luôn vấp phải sự phản kháng mãnh liệt<br /> của Sultan Mohamed từ căn cứ Johore trong những năm 1517, 1520, 1521 vào 1525.<br /> Năm 1526, người Bồ Đào Nha mở thương điếm ở vương quốc Brunei và đem quân<br /> tấn công phá hủy thủ đô Johore trên đảo Bintan. Người Johore phải xây dựng thủ đô<br /> mới ở Batu Sawar. Cuối cùng vào năm 1583, hiệp ước hoà bình được ký kết tạo điều<br /> kiện cho việc xây dựng trường học, bệnh viện và thiết lập “Camara” - Hội đồng thành<br /> phố.<br /> Từ bán đảo Malay, Bồ Đào Nha bành trướng quyền lực đến duyên hải Indonesia<br /> với điểm trọng tâm là quần đảo hương hiệu (Spice Island). Cuộc thám hiểm đầu tiên<br /> của Bồ Đào Nha dưới sự chỉ huy của Antonio de Abreu đến Moluccas. Mất hai trong<br /> số ba chiếc tàu nên ông không thể đến Ternate và Tidore. Một cách ngẫu nhiên, do va<br /> phải tảng đá ngầm ở ngoài khơi đảo Lucopin (Nusa Penju) Francisco Serrao và những<br /> thành viên khác trong đội tàu đã tìm ra Ambon và sau đó là Ternate. Tại đây tiểu vương<br /> ban tước hiệu quý tộc và cho phép Serrao được hưởng mọi đặc quyền hoàng gia. Trong<br /> khi quyền lực của Bồ Đào Nha ngày càng được mở rộng trên khắp quần đảo Hương<br /> liệu thì Tây Ban Nha cũng không từ bỏ tham vọng của mình sau chuyến thám hiểm<br /> vòng quanh thế giới của Ferdinand Magellan (1480-1521). Điều này ảnh hưởng<br /> nghiêm trọng đến lợi ích của Bồ Đào Nha. Vậy là hai bên phải ngồi vào bàn đàm phán.<br /> Hiệp ước Saragossa được ký giữa Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha năm 1529 vạch một<br /> đường ở 17 độ Đông Molucca làm tranh giới phân chia giữa các khu vực lợi ích của<br /> hai nước. Thế là Bồ Đào Nha tạm thời yên tâm để thực hiện công cuộc chinh phục của<br /> mình. Dựa trên mối quan hệ hữu hảo với Hồi vương, tháng 5 năm 1522, Antonio de<br /> Brito đã tiến hành xây dựng pháo đài Sao Joao Baptista de Ternate ngay sau khi ông<br /> trở về từ quần đảo Banda (2/1522). Vào 25/10/1536, thống đốc Bồ Đào Nha Antonio<br /> Galvao thiết lập khu định cư của người Bồ Đào Nha tại Ternate, cùng với một ngôi<br /> trường, một bệnh viện và một vòng thành bằng đá quanh thị trấn này.<br /> Cùng với việc lấy Malacca làm trung tâm, đến khoảng nửa đầu thế kỷ XVI, Bồ<br /> Đào Nha đã xây dựng hệ thống các hải cảng xuyên suốt, trong đó Sumbawa, Gresik,<br /> và Panarukan là quan trọng nhất. Cách thức của họ, ban đầu là hoạt động thương mại<br /> của nhà vua, dần dần được tư nhân hóa, như chúng ta đã thấy những trường hợp tại<br /> châu Á hay xuyên Á - Âu vào thế kỷ XVI.<br /> 2<br /> <br /> nGuyễn thỊ Vĩnh Linh<br /> <br /> Một trong những địch thủ đáng gờm nhất của Bồ Đào Nha là Aceh - một trong<br /> những tiếu quốc Hồi giáo đang trong thời kỳ hưng thịnh. Với vị trí địa lý đắc địa, Aceh<br /> đã nhận gạo và thực phẩm từ những hải cảng ở Bengal, Orissa, và phía nam<br /> Coromandel, và thậm chí của cả tư thương Bồ Đào Nha từ những hải cảng như<br /> Nagapattinam cũng thu hút vào hoạt động thương mại này. Với sự thiết lập Roteiro<br /> das cousas do achem vào năm 1588, Bồ Đào Nha chính thức nắm quyền quản lý hoạt<br /> động thương mại của thương điếm này.<br /> Cách thức chủ yếu mà Bồ Đào Nha sử dụng để thiết lập quyền lực của mình tại<br /> Đông Nam Á là sự kết hợp không tách rời giữa sức mạnh hải quân và sức mạnh tôn<br /> giáo. Sự phối hợp giữa hoạt động quân sự và hoạt động truyền giáo càng được thể hiện<br /> rõ tại một số tiểu quốc trong quần đảo hương liệu khi người Bồ Đào Nha do thiếu nhân<br /> lực không thể xâm chiếm hoàn toàn mà chỉ có thể thiết lập các trạm thương mại tạm<br /> thời và dựa vào những linh mục Thiên Chúa giáo để nắm lấy những vị trí cần thiết mà<br /> thôi. Ví dụ như tại Solor, Flores, Ende Minor, từ năm 1520, người Bồ Đào Nha đến<br /> đây chủ yếu để thu mua gỗ đàn hương và thiết lập kho chứa hàng tạm thời. Họ không<br /> xây dựng những trạm buôn bán thường trực, nông trại hay các pháo đài, mãi đến năm<br /> 1561, khi những giáo sĩ dòng Đa minh (Dominicians) theo lệnh của Antonio da Cruz<br /> anh tiến hành truyền bá Thiên Chúa giáo lên những quốc đảo này. Để bảo vệ cho công<br /> cuộc truyền đạo, những giáo sĩ đã tiến hành xây dựng một pháo đài vào năm 1600 gồm<br /> một phòng ngủ, một phòng học chứa được 50 người và nhà thờ Nossa Senhora da<br /> Piedade. Trên đảo Ende Minor, các linh mục cũng thiết lập pháo đài (1595) và nhà thờ<br /> São Domingos. Do sự phát triển mạnh mẽ của hoạt động truyền bá đạo Thiên Chúa<br /> nên dòng Đa Minh, từ năm 1613 đã dời trụ sở của họ đến Larantuka (Flores). Đây là<br /> trung tâm của người Bồ trên đảo Lesser Sunda cho đến năm 1662, khi trụ sở của họ<br /> chuyển đến Lifau (ngày nay là Ocussi ở Timor). Cùng với Lifau, trên đảo Timor, người<br /> Bồ Đào Nha lần lượt xây dựng những pháo đài: Kupang (1646), Manatuto, Dilly (Dili)<br /> (1668)…<br /> Thương nhân Bồ Đào Nha thường lui tới Makasar một cách không thường xuyên<br /> vào thế kỷ XVI và trong suốt thế kỷ XVII, người Bồ Đào Nha sử dụng Makasar như<br /> một trung tâm thương mại giao dịch lụa, hàng dệt, đinh hương, đàn hương, kim cương.<br /> Vào những năm 1620, thường xuyên có khoảng 500 thương nhân Bồ Đào Nha ở pháo<br /> đài Makasar. Mối quan hệ thân thiện giữa Makasar và Bồ Đào Nha ngày càng trở nên<br /> thắm thiết bởi khuyng hướng chung muốn ngăn chặn quyền lực của Hà Lan tại<br /> Moluccas và đảo Sunda.<br /> Các thương thuyền của Bồ Đào Nha qua lại tấp nập trên con đường biển từ châu<br /> Âu đến Viễn Đông. Nhận thấy tầm quan trọng chiến lược của Malacca, Bồ Đào Nha<br /> quyết định thiết lập quan hệ hòa bình với những quốc gia láng giềng trong đó có Siam<br /> - vương quốc có mối quan hệ và ảnh hưởng nhất định đến Malacca trước khi Bồ Đào<br /> Nha xuất hiện. Từ Goa, Phó vương Bồ Đào Nha cùng với Duerter Fesnaldes đã đến<br /> 3<br /> <br /> nGuyễn thỊ Vĩnh Linh<br /> <br /> Siam. Sau một thời gian gián đoạn đến năm 1511, sứ thần đầu tiên của người Bồ đã<br /> có mặt tại Ayuthaya và thiết lập những giao dịch đầu tiên. Một điểm cần chú ý trong<br /> chính sách của Bồ Đào Nha với Siam và các quốc gia trên bán đảo Đông Dương là<br /> duy trì mối quan hệ hòa bình, hữu nghị với việc xin phép lập các thương điếm buôn<br /> bán. Điều này khác hẳn với chính sách sử dụng thương thuyền và pháo hạm chiếm<br /> đóng như tại quần đảo hương liệu hay ở Malacca. Đối với Siam, họ đã có một đường<br /> lối ngoại giao nhạy bén, cho phép các giáo sĩ Bồ tự do truyền đạo thông qua việc dựng<br /> một cây thánh giá trên đồi cao tại thủ đô Ayuthaya và ký kết các hiệp ước buôn bán.<br /> Theo cách đó, thương nhân Bồ Đào Nha được phép buôn bán ở kinh đô Ayuthaya,<br /> Mergui và Tenarserim ở vịnh Bengal, ở Patani và Nakon Srit Ammarat trên bờ biển<br /> phía Tây của bán đảo Malay. Các thương nhân Ayuthaya và Patani đều buôn bán<br /> thường xuyên với Trung Quốc nên thương mại của Bồ Đào Nha ở hai nơi đó đều làm<br /> ăn phát đạt. Các hải cảng ở Siam cũng đồng thời là nơi trú ẩn thường xuyên của tàu bè<br /> Bồ Đào Nha đi Trung Quốc trong điều kiện thời tiết khó khăn. Bồ Đào Nha đã đặt lãnh<br /> sự quán đầu tiên tại Siam và thiết lập khu định cư tại vùng đất phía tây bờ sông<br /> Chaophraya.<br /> Trên bán đảo Đông Dương, Cửa Hàn là thương cảng đầu tiên mà người Bồ Đào<br /> Nha đặt chân đến. Năm 1523, người Bồ Đào Nha đầu tiên đi đến vùng đất<br /> “Cauchinchynam” (tức Đàng Trong) là nhà hàng hải Duarte Coelho, tàu ông đi qua<br /> Cửa Hàn và ghé vào Cù Lao Chàm. Phát hiện này đã đưa các thương phân Bồ Đào<br /> Nha đến Hội An và Đà Nẵng buôn bán từ năm 1557. Họ gọi Cửa Hàn là Tu rão hoặc<br /> Tu ram. Với tư duy thông thoáng, mở cửa giao thương với nước ngoài của chúa<br /> Nguyễn mà cuối thế kỷ XVI, đầu thế kỷ XVII, thuyền buôn, ở phương Tây, Đông Nam<br /> Á và Viễn Đông đến Cửa Hàn và cảng thị Hội An buôn bán càng đông. Về vấn đề này,<br /> giáo sĩ người Ý Cristoforo Borri đã viết trong nhật ký năm 1631 rằng: “Chúa Đàng<br /> Trong không đóng cửa trước một quốc gia nào, ngài để cho tự do và mở cửa đối với<br /> tất cả những người ngoại quốc. Phương châm của người Đàng Trong là không bao<br /> giờ tỏ ra sợ hãi một quốc gia nào trên thế giới...” [10]. Cùng với hoạt động thương<br /> mại, giáo đoàn Dòng Tên (gồm các giáo sĩ : Francisco Buzomi, Diego Carvalho,<br /> Manuel Fernandez và thầy giảng Bồ Đào Nha Antonio Dias) cập bến Cửa Hàn ngày<br /> 15/01/1615. Dưới sự cho phép của chúa Nguyễn, thương thân Bồ Đào Nha xây dựng<br /> một khu phố trên Đất Hàn với nhiều nhà ở, kho hàng, hiệu buôn thông qua mạng lưới<br /> “mại biện” để thu mua hàng hóa. Khi tàu Bồ Đào Nha chở hàng đến Hội An (thường<br /> là diêm tiêu, lưu huỳnh, dạ nỉ và súng đạn...) và sau khi bán xong hàng thì chất hàng<br /> mới mua xuống tàu (tơ lụa, gốm sư, trầm hương, ngà voi, đường, yến sào...) chở về<br /> Cửa Hàn nhập kho hoặc chở thẳng về Goa (thuộc địa ở Ấn Độ) hay về nước. Đặc biệt,<br /> “người Bồ giúp chúa Nguyễn mở xưởng đúc súng ở Thuận Hóa (phục vụ cho nhu cầu<br /> của cuộc chiến tranh Trịnh - Nguyễn) khiến họ được trọng vọng trong buôn bán bảo<br /> vệ được các nhà truyền đạo… Mặt khác, các chúa Nguyễn vẫn tỏ ra thích người Bồ<br /> đến buôn bán lạ lùng. Và đã mấy lần ngài cho họ ba hay bốn địa điểm ở nơi phì nhiêu<br /> 4<br /> <br /> nGuyễn thỊ Vĩnh Linh<br /> <br /> nhất và phong phú nhất trong vùng để họ xây cất một thành phố với tất cả những gì<br /> cần thiết cũng như người Tàu và người Nhật đã làm ở Hội An” [5; 99]. Tận dụng<br /> những thuận lợi có được, người Bồ tìm mọi cách tranh cướp thị trường với các thương<br /> nhân khác và mở rộng ảnh hưởng ra những vương quốc còn lại trên bán đảo Đông<br /> Dương<br /> Từ năm 1540, một sứ giả Bồ Đào Nha tên là Mendez Pinto đã ghé qua Côn Đảo<br /> để đi Nam Kỳ, rồi sau đó ngược sông tới Campuchia. Các vua Khơme trong thời kỳ<br /> này luôn lo lắng trước hoạ xâm lăng của phong kiến Xiêm (Siam), nhưng chưa thấy ý<br /> đồ đen tối của thực dân châu Âu nên đã có ý định nhờ họ giúp đỡ về quân sự để chống<br /> lại sự uy hiếp của Xiêm. Vua Satha (1567 - 1594) đã trọng dụng một số người Bồ Đào<br /> Nha có mặt tại đây để mong thiết lập quan hệ hữu hảo với vua Bồ. Tuy nhiên, lúc này<br /> những hoạt động của các chính khách Bồ tỏ ra yếu thế trước chính sách khôn ngoan<br /> cuả Tây Ban Nha nên dần dần Campuchia bị biến thành vương quốc chịu ảnh hưởng<br /> chính của Tây Ban Nha.<br /> Vậy là bằng các cách khác nhau trong thế kỷ XVI, Bồ Đào Nha đã lần lượt xác<br /> lập quyền lực của mình ở Đông Nam Á. Đây được xem là giai đoạn phát triển thịnh<br /> đạt của đế chế Bồ Đào Nha ở phương Đông.<br /> 2.2. Tác động của Bồ Đào Nha đến thương mại biển Đông Nam Á<br /> Là thế lực thương mại châu Âu đầu tiên đến Đông Nam Á, Bồ Đào Nha đã có<br /> những tác động khá sâu sắc đến hoạt động giao thương của khu vực này.<br /> Thứ nhất, với đặc điểm của một đế quốc mậu dịch hàng hải ven biển đầu tiên<br /> trong lịch sử, sự xuất hiện của Bồ Đào Nha đã thúc đẩy hoạt động giao thương biển<br /> của Đông Nam Á trở nên sầm uất, sôi động và nhộn nhịp với phạm vi mở rộng hơn<br /> trước đây nhiều lần (trong đó Malacca là một ví dụ điển hình). Nếu nhìn nhận một<br /> cách khách quan, trước khi thế lực phương Tây đầu tiên đến Đông Nam Á thì Malacca<br /> đã đóng một vai trò quan trọng trong giao thương hàng hải ở châu Á. Cảng Malacca là<br /> vị trí tất yếu phải qua của “con đường hương liệu trên biển”, những thương nhân buôn<br /> hương liệu lợi dụng gió Tây Nam vượt qua Ấn Độ Dương đi thẳng đến bán đảo Hương<br /> Liệu sau đó chờ khi gió Đông Bắc sẽ quay về. Sự giàu có của Malacca làm cho quân<br /> đội viễn chinh choáng ngợp, theo giáo sư Lương Ninh: “Malacca được xem là nơi duy<br /> nhất trên thế giới mà người ta có thể mua rất dễ dàng hàng hóa Trung Quốc (đồ sứ,<br /> tơ lụa, gương Tàu), Ấn Độ (ngọc trai, vải bông mịn). Giava và Xumatơra (thóc, lúa,<br /> hành, tỏi, vàng, hồ tiêu, trâu, bò, vũ khí), Tây Á và châu Âu (hàng len) cùng các sản<br /> phẩm địa phương Đông Nam Á lục địa…” [4; 229]. Cho nên, đối với Bồ Đào Nha<br /> Malacca có vị trí cực kỳ lợi hại để họ thực hiện chiến lược toàn diện của mình: “Các<br /> con tàu của những người Hồi giáo vẫn còn có thể thu mua các sản phẩm của Bengal,<br /> Miến Điện, Sumatra, quần đảo Spice, Xiêm, Trung Quốc tại trung tâm thương mại lớn<br /> ở Malacca. Albuquerque dự định ngăn chặn việc buôn bán này bằng cách, chiếm biển<br /> 5<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2