intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Nhập môn Sức khỏe Môi trường

Chia sẻ: Nguywn Uyen | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:21

136
lượt xem
18
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sau khi học xong bài này, sinh viên có khả năng: 1. Trình bày được các thành phần chính của môi trường 2. Nêu được các khía cạnh lịch sử của sức khoẻ môi trường 3. Trình bày được mối quan hệ giữa sức khoẻ và môi trường, các chính sách về sức khoẻ môi trường và quản lý môi trường 4. Giải thích được những vấn đề sức khoẻ môi trường mang tính cấp bách ở địa phương và trên thế giới. ...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Nhập môn Sức khỏe Môi trường

  1. Nhập môn Sức khỏe Môi trường BÀI 1 - NHẬP MÔN SỨC KHOẺ MÔI TRƯỜNG MỤC TIÊU Sau khi học xong bài này, sinh viên có khả năng: 1. Trình bày được các thành phần chính của môi trường 2. Nêu được các khía cạnh lịch sử của sức khoẻ môi trường 3. Trình bày được mối quan hệ giữa sức khoẻ và môi trường, các chính sách về sức khoẻ môi trường và quản lý môi trường 4. Giải thích được những vấn đề sức khoẻ môi trường mang tính cấp bách ở địa phương và trên thế giới. NỘI DUNG Sức khoẻ môi trường là nền tảng của Y tế công cộng, cung cấp rất nhiều lý luận cơ bản nền tảng cho một xã hội hiện đại. Quá trình cải thiện tình trạng vệ sinh, chất lượng nước uống, vệ sinh và an toàn thực phẩm, kiểm soát bệnh tật và cải thiện điều kiện nhà ở là nhiệm vụ trung tâm của quá trình thực hiện việc nâng cao chất lượng cuộc sống và tiếp tục những kinh nghiệm quý báu của cả thế kỷ qua. Tuy nhiên, hiện nay cuộc sống của người dân trong thời kỳ đổi mới có nhiều thay đổi: việc đô thị hoá, tăng dân số, thay đổi lối sống, nạn phá rừng, tăng sử dụng hoá chất bảo vệ thực vật trong nông nghiệp, sử dụng các hoóc môn tăng trưởng trong chăn nuôi, sự phát triển công nghiệp và không kiểm soát được những chất thải công nghiệp v.v… làm cho môi trường ngày càng bị suy thoái. Trong những năm qua, thảm hoạ thiên nhiên đã gây nên nhiều thiệt hại lớn như lũ quét ở Lai Châu, Sơn La, úng lụt ở Đồng bằng Sông Cửu Long, hạn hán ở nhiều nơi như Tây Nguyên. Tại một số tỉnh phía nam hiện nay, những trường hợp bị nhiễm độc hoá chất, ngộ độc các hoá chất bảo vệ thực vật và ngộ độc thực phẩm vẫn xẩy ra thường xuyên. Có nhiều chỉ thị và nghị quyết bàn về phương hướng phát triển bền vững, nghĩa là bảo đảm cho môi trường và môi sinh trong sạch, giảm thiểu ô nhiễm nhằm nâng cao sức khoẻ con người như Luật Bảo vệ môi trường Việt Nam, Nghị định hướng dẫn thi hành luật, v.v… Bên cạnh đó còn phải kể đến môi trường xã hội, môi trường làm việc cũng có nhiều ảnh hưởng đến sức khoẻ con người. Do vậy, việc nghiên cứu, xử lý, phòng chống ô nhiễm môi trường và cải thiện môi trường xã hội là một việc hết sức cần thiết. Muốn làm được điều đó mọi người, mọi tổ chức trong xã hội mà trước hết là học sinh, sinh viên - những người làm chủ tương lai đất nước phải cùng nhau tham gia giải quyết thì mới đạt được kết quả. Đó là những vấn đề môi trường ảnh hưởng đến đời sống xã hội, đến kinh tế đất nước. Còn môi trường ảnh hưởng đến 1
  2. - Giáo trình Sức khoẻ môi trường sức khoẻ con người cụ thể như thế nào? Thế nào gọi là sức khoẻ môi trường? Chúng tôi sẽ trình bày những khái niệm này ở phần sau. 1. CÁC THÀNH PHẦN CƠ BẢN CỦA MÔI TRƯỜNG 1.1. Môi trường là gì? Theo Luật Bảo vệ môi trường Việt Nam (2005), môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh con người, có ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và sinh vật. 1.2. Các thành phần của môi trường Cũng theo Luật Bảo vệ môi trường Việt Nam (2005), thành phần môi trường là yếu tố vật chất tạo thành môi trường như đất, nước, không khí, âm thanh, ánh sáng, sinh vật, hệ sinh thái và các hình thái vật chất khác. Tóm lại, các thành phần của môi trường bao gồm môi trường vật lý, môi trường sinh học và môi trường xã hội. 1.2.1. Môi trường vật lý bao gồm các yếu tố vật lý như: khí hậu, tiếng ồn, ánh sáng, bức xạ, gánh nặng lao động. Bên cạnh các yếu tố vật lý còn có những yếu tố hoá học như bụi, hoá chất, thuốc men, chất kích thích da, thực phẩm, v.v... 1.2.2. Môi trường sinh học như động vật, thực vật, ký sinh trùng, vi khuẩn, vi rút, các yếu tố di truyền, v.v... 1.2.3. Môi trường xã hội như stress, mối quan hệ giữa con người với con người, môi trường làm việc, trả lương, làm ca, v.v.... 2. CÁC KHÍA CẠNH LỊCH SỬ CỦA SỨC KHOẺ MÔI TRƯỜNG 2.1. Khái niệm về sức khoẻ môi trường Sức khoẻ môi trường là gì? Theo quan điểm của nhiều người sức khoẻ môi trường chính là sức khoẻ của môi trường. Đây là các ý niệm về đời sống hoang dã, về rừng, sông, biển, v.v.... và theo họ thì sức khoẻ môi trường đồng nghĩa với việc bảo vệ môi trường. Những người khác thì cho rằng sức khoẻ môi trường là các vấn đề về sức khoẻ của con người có liên quan đến điều kiện sống, sự nghèo nàn, lạc hậu, không đủ nước sạch, lũ lụt, sự phá hoại của côn trùng và súc vật có hại - tất cả các thách thức đó chúng ta đã trải qua, đã chống trả trong suốt quá trình hình thành và phát triển của con người và cuộc sống, nhất là những năm gần đây và chúng ta đã chiến thắng. 2
  3. Nhập môn Sức khỏe Môi trường Cả hai quan điểm này đều chưa đúng, chưa chính xác, sức khoẻ môi trường không đồng nghĩa với sức khoẻ của môi trường và bảo vệ môi trường và cũng không bó hẹp trong việc kiểm soát các loại dịch bệnh của thế kỷ qua. Cho đến hiện nay nhiều tác giả đưa ra khái niệm về sức khoẻ môi trường như sau:“Sức khoẻ môi trường là tạo ra và duy trì một môi trường trong lành, bền vững để nâng cao sức khoẻ cộng đồng”. 2.2. Lịch sử phát triển của thực hành sức khoẻ môi trường Mỗi sinh vật trên trái đất đều có môi trường sống của riêng mình, nếu thoát ra khỏi môi trường tự nhiên đó hoặc sự biến đổi quá mức cho phép của môi trường mà chúng đang sống thì chúng sẽ bị chết và bị hu ỷ diệt. Do đó, đảm bảo sự ổn định môi trường sống là điều kiện cơ bản để duy trì sự sống của mọi loài sinh vật trên trái đất. Những ví dụ rất giản đơn mà mọi người đều biết là “ngộ độc ô xít các bon (CO) ở những người đi kiểm tra các lò gạch thủ công đốt bằng than hoặc cá chết do nước bị ô nhiễm hoá chất của nhà máy phân lân Văn Điển”, v.v... Điều đó có nghĩa là môi trường, con người và sức khoẻ con người có mối liên quan mật thiết với nhau và có thể cái nọ là nhân quả của cái kia. Không phải đến bây giờ con người mới biết tới mối quan hệ này, mà từ hàng ngàn năm trước người Trung Quốc, Ấn Độ, Ba Tư, Ai Cập cổ đại đã biết áp dụng các biện pháp thanh khiết môi trường để ngăn ngừa và phòng chống dịch cho cộng đồng và quân đội. Các tư liệu lịch sử cho thấy từ những năm trước công nguyên, ở thành A-ten (Hy Lạp) con người đã xây dựng hệ thống cống ngầm để thải nước bẩn, đã biết dùng các chất thơm, diêm sinh để tẩy uế không khí trong và ngoài nhà để phòng các bệnh truyền nhiễm. Người La Mã còn tiến bộ hơn: khi xây dựng thành La Mã, người ta đã xây dựng một hệ thống cống ngầm dẫn tới mọi điểm trong thành phố để thu gom nước thải, nước mưa dẫn ra sông Tibre, đồng thời xây dựng một hệ thống cung cấp nước sạch cho dân chúng trong thành phố. Vào thời kỳ này, độ cao của nhà ở, bề rộng các đường đi lại trong thành đều được qui định và tiêu chuẩn hoá, những người đem bán loại thực phẩm giả mạo, thức ăn ôi thiu đều phải chịu tội. Theo thời gian, cùng với sự phát triển của xã hội, dân số, ô nhiễm môi trường và phòng chống ô nhiễm môi trường càng được tăng cường và phát triển. Như chúng ta đã biết, các nhân tố sinh học, các hoá chất tồn tại một cách tự nhiên và các nguy cơ vật lý đã tồn tại trong suốt quá trình phát triển của lịch sử loài người. Đồng thời các chất ô nhiễm môi trường do hoạt động của con người sinh ra cũng có quá trình phát triển từ từ và lâu dài. Cuộc khủng hoảng môi trường lần thứ nhất xuất hiện ở Châu Âu lần đầu tiên vào thế kỷ 19, nguyên nhân là do thực phẩm kém chất lượng, nước bị ô nhiễm ảnh hưởng đến sức khoẻ cộng đồng. Cuộc cách mạng công nghiệp ở Anh đã làm cho nước Anh trở thành xứ sở sương mù do ô nhiễm không khí, thời gian này vấn đề ô 3
  4. - Giáo trình Sức khoẻ môi trường nhiễm công nghiệp là một vấn đề hết sức nghiêm trọng nhưng bị chính phủ lờ đi vì còn nhiều vấn đề xã hội khác quan trọng hơn, mặc dù năm 1848 Quốc Hội Anh đã thông qua Luật Y tế công cộng đầu tiên trên thế giới. Trong quá trình phát triển công nghiệp, ô nhiễm kéo dài cho đến giữa thế kỷ 20 và hàng loạt những ô nhiễm mới song song với ô nhiễm công nghiệp là ô nhiễm hoá học, hoá chất tổng hợp, nhất là trước và sau chiến tranh thế giới lần thứ 2. Những tiến bộ của kỹ thuật, lĩnh vực hoá học, đặc biệt là ngành công nghiệp hoá chất đã tạo ra các hoá chất tổng hợp như cao su tổng hợp, nhựa, các dung môi, thuốc trừ sâu v.v... đã tạo ra rất nhiều chất khó phân huỷ và tồn dư lâu dài trong môi trường như DDT, 666, Dioxin v.v... gây ra ô nhiễm môi trường nặng nề, dẫn tới sự phản đối kịch liệt của cộng đồng nhiều nước trên thế giới trong suốt thời kỳ những năm 60 và 70 của thế kỷ 20. Làn sóng lần thứ 2 về các vấn đề môi trường xẩy ra vào những năm giữa của thế kỷ 20 với hai phong trào lớn là môi trường và sinh thái. Phong trào môi trường là việc bảo tồn tài nguyên thiên nhiên, nhất là những tài nguyên không tái tạo. Kết quả là động vật trên đất liền ở nhiều vùng thiên nhiên hoang dã, các vùng đất, biển quý hiếm khác, cảnh quan thiên nhiên được bảo tồn và tôn tạo. Về phong trào sinh thái tập trung vào các chất có thể gây độc cho con người hoặc có khả năng gây hu ỷ hoại môi trường. Kết quả của những phong trào này cùng với Hội nghị của Liên hợp quốc về môi trường và con người đã được tổ chức vào năm 1972 đã thuyết phục được nhiều chính phủ các nước thông qua luật lệ nhằm hạn chế ô nhiễm công nghiệp và phát thải rác, phòng chống ô nhiễm hoá học, đảm bảo chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm, thuốc, v.v... Làn sóng lần thứ 3 về các vấn đề sức khoẻ môi trường là từ những năm 80, 90 đến nay, ngoài những vấn đề ô nhiễm công nghiệp, hoá chất còn có các vấn đề về dioxit cac bon, clorofluorocacbon gây thủng tầng ozon, vấn đề cân bằng môi trường, phát triển bền vững, môi trường toàn cầu thay đổi, khí hậu toàn cầu nóng lên, v.v... sẽ còn phải giải quyết trong nhiều thập kỷ tới. HỘP 1.1. CÁC VÍ DỤ VỀ NHỮNG SỰ KIỆN SỨC KHOẺ MÔI TRƯỜNG QUAN TRỌNG - 1798 - Thomas Malthus xây dựng lý thuyết về phân bố tài nguyên và dân số - 1848 - Quốc hội Anh thông qua Luật Y tế Công cộng - 1895 - Svante Arrhenius mô tả hiện tượng hiệu ứng nhà kính - 1899 - Hiệp định quốc tế đầu tiên về cấm vũ khí hoá học - 1956 - Anh thông qua Luật Không khí Sạch 4
  5. Nhập môn Sức khỏe Môi trường - 1962 - Việc xuất bản cuốn sách Mùa xuân Lặng lẽ (Silent Spring) của Rachel Carson đã thu hút được sự chú ý tới vấn đề thuốc trừ sâu và môi trường - 1969 - Hiệp định quốc tế đầu tiên về hợp tác trong trường hợp ô nhiễm biển (Vùng Biển phía Bắc) - 1972 - Hội nghị của Liên Hiệp Quốc về Môi trường và Con người, Stockholm; DDT đã bị cấm sử dụng ở Mỹ - 1982 - Hội nghị đa phương về sự a xít hoá môi trường đã khởi đầu quá trình dẫn tới chính thức thừa nhận vấn đề ô nhiễm xuyên biên giới và nhu cầu về sự kiểm soát quốc tế - 1986 - Hội nghị quốc tế đầu tiên về nâng cao sức khoẻ (health promotion) thông qua Hiến chương Ottawa, trong đó định nghĩa nâng cao sức khoẻ là tạo điều kiện cho con người kiểm soát những yếu tố quyết định tới sức khoẻ của họ. - 1987 - Báo cáo của Uỷ ban Brundtland "Tương lai chung của chúng ta" (Our Common Future) đã kêu gọi hướng tới "phát triển bền vững"; Nghị định thư Montreal về hạn chế phát thải clorofluorocacbon (CFC) vào không khí để giảm tốc độ suy giảm tầng ozon ở tâng bình lưu - 1992 - Hội nghị thượng đỉnh trái đất (Hội nghị của Liên Hiệp Quốc về Môi trường và Phát triển), Rio de Janeiro - 1994 - Hội nghị quốc tế về Dân số và Phát triển, Cairo - 1995 - Hội nghị Thượng đỉnh của Liên Hiệp Quốc về Phát triển Xã hội, Copenhagen - 1996 - Hội nghị của Liện Hiệp Quốc về vấn đề định cư (HABITAT II), Istanbul - 1997 - Hiệp định khung của Liên Hiệp Quốc về Thay đổi Khí hậu, Kyoto Nguồn: Yassi và cộng sự, 2001 3. NỘI DUNG KHOA HỌC MÔN SỨC KHOẺ MÔI TRƯỜNG Tất cả các khía cạnh của sức khoẻ môi trường là xác định, giám sát, kiểm soát các yếu tố vật lý, hoá học, sinh học và xã hội có ảnh hưởng đến sức khoẻ con người. Thực hành sức khoẻ môi trường bao gồm đánh giá, kiểm soát và phòng ngừa các yếu tố trong môi trường ảnh hưởng tiêu cực đến sức khoẻ con người, đồng thời phát huy các yếu tố môi trường có lợi cho sức khoẻ. Việc này bao gồm tất cả các biện pháp cần thiết để đối mặt với các vấn đề như suy thoái môi trường, thay đổi khí 5
  6. - Giáo trình Sức khoẻ môi trường hậu, các nguy cơ môi trường như ô nhiễm đất, nước, không khí, ô nhiễm thực phẩm, tiếp xúc với hoá chất và vấn đề rác thải hiện nay. Thực hành sức khoẻ môi trường còn tạo điều kiện, cơ hội để nâng cao sức khoẻ bằng cách lập kế hoạch nâng cao sức khoẻ và tiến tới xây dựng một môi trường có lợi cho sức khoẻ. Các hoạt động sức khoẻ môi trường được thực hiện ở tất cả các cấp, bao gồm: • Xây dựng, phát triển các chiến lược và tiêu chuẩn, gồm: - An toàn dân số - Tư vấn cộng đồng, bảo vệ sức khoẻ trong các trường hợp khẩn cấp - Theo dõi, quan trắc và xây dựng các tiêu chuẩn như tiêu chuẩn về nhà ở v.v... - Nâng cao phát triển sức khoẻ • Phát triển và đưa ra các khuyến cáo về sức khoẻ môi trường: - Cung cấp thông tin cho cộng đồng về sức khoẻ môi trường - Nghiên cứu sức khoẻ môi trường - Giáo dục sức khoẻ môi trường • Cần phải có kế hoạch xây dựng luật sức khoẻ môi trường • Quản lý môi trường vật lý: - An toàn nước, nhất là an toàn nước ở khu giải trí - An toàn thực phẩm - Quản lý chất thải rắn - An toàn và sức khoẻ nghề nghiệp - Phòng chống chấn thương - Kiểm soát tiếng ồn - Sức khoẻ và chất phóng xạ • Quản lý nguy cơ sinh học - Kiểm soát côn trùng và các động vật có hại - Quản lý bệnh truyền nhiễm qua vật chủ trung gian truyền bệnh - Kiểm soát vi sinh vật 6
  7. Nhập môn Sức khỏe Môi trường • Quản lý nguy cơ hoá học: - Xây dựng các tiêu chuẩn an toàn hoá học cho không khí, đất, nước sinh hoạt, nước thải và thực phẩm - Sử dụng thuốc bảo vệ thực vật an toàn - Đánh giá và quản lý các nguy cơ sức khoẻ ở các vùng bị ô nhiễm ví dụ như dioxin, v.v... - Kiểm soát thuốc, chất độc, các sản phẩm y dược khác - Chất độc học - Kiểm soát thuốc lá Bên cạnh đó còn nhiều các yếu tố khác cần phải kiểm soát như cung cấp đủ thức ăn dinh dưỡng, cung cấp nước sạch, điều kiện vệ sinh và xử lý rác thải nhất là ở nông thôn hiện nay; cung cấp nhà ở và bảo đảm mật độ dân số v.v... Ngoài ra, còn một số các yếu tố khác nhất là khả năng tiềm tàng của các nguy cơ môi trường và suy thoái môi trường tác động lên sức khoẻ do các đặc điểm sau: • Thường xẩy ra sau một thời gian dài tiếp xúc • Các bệnh liên quan đến môi trường thường do hoặc liên quan đến nhiều nguyên nhân khác nhau, ví dụ như viêm phế quản mãn tính có thể là do môi trường bị ô nhiễm, do vi khuẩn, thể lực v.v. Thực hành sức khoẻ môi trường sử dụng kiến thức và kỹ năng của nhiều lĩnh vực khác nhau để tập trung giải quyết các vấn đề sức khoẻ tiềm tàng. “Loài người là trung tâm của phát triển bền vững. Họ có quyền sống một cuộc sống khoẻ mạnh và hoà hợp với tự nhiên”. (Tuyên bố Rio de Janero về Môi trường và Phát triển) 4. QUAN HỆ GIỮA SỨC KHOẺ VÀ MÔI TRƯỜNG Khi con người đầu tiên xuất hiện trên trái đất, tuổi thọ trung bình của họ chỉ khoảng từ 30 đến 40 tuổi. Do sống trong môi trường khắc nghiệt, tuổi thọ của họ thấp hơn nhiều so với tuổi thọ của con người trong xã hội hiện nay. Tuy vậy, 30 - 40 năm cũng đủ để cho họ có thể sinh con đẻ cái, tự thiết lập cho mình cuộc sống với tư cách là một loài có khả năng cao nhất trong việc làm thay đổi môi trường theo hướng tốt lên hay xấu đi. 7
  8. - Giáo trình Sức khoẻ môi trường Để có thể sống sót, những người tiền sử phải đối mặt với những vấn đề sau đây: • Luôn phải tìm kiếm nguồn thức ăn và nước uống trong khi tránh ăn phải những thực vật có chứa chất độc tự nhiên (ví dụ nấm độc) hoặc các loại thịt đã bị ôi thiu, nhiễm độc. • Bệnh nhiễm trùng và các ký sinh trùng được truyền từ người này sang người khác hoặc từ động vật sang con người thông qua thực phẩm, nước uống hoặc các côn trùng truyền bệnh • Chấn thương do ngã, hoả hoạn hoặc động vật tấn công • Nhiệt độ quá nóng hoặc quá lạnh, mưa, tuyết, thảm hoạ thiên nhiên (như bão lụt, hạn hán, cháy rừng v.v.) và những điều kiện khắc nghiệt khác. Những mối nguy hiểm đối với sức khoẻ con người luôn luôn xảy ra trong môi trường tự nhiên. Trong một số xã hội, những “mối nguy hiểm truyền thống” trên đây vẫn là những vấn đề sức khoẻ môi trường được quan tâm nhiều. Tuy nhiên, khi con người đã kiểm soát được những mối nguy hiểm này ở một số vùng, thì những “mối nguy hiểm hiện đại” do sự phát triển kỹ thuật, công nghiệp tạo ra cũng đã trở thành những mối đe doạ đầu tiên đối với sức khoẻ và sự sống của con người. Một số ví dụ về các mối nguy hiểm môi trường hiện đại là: - Môi trường đất, nước ở nông thôn bị ô nhiễm nghiêm trọng do sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật không đúng chủng loại, liều lượng và không đúng cách. - Các sự cố rò rỉ các lò phản ứng hạt nhân/ nhà máy điện nguyên tử, v.v... - Sự thay đổi khí hậu toàn cầu, hiệu ứng nhà kính, v.v... Trong một vài thập kỷ vừa qua, tuổi thọ của con người đã tăng lên đáng kể ở hầu hết các quốc gia. Các nhà điều tra cho rằng có 3 lý do cơ bản dẫn tới việc tăng tuổi thọ của con người: - Những tiến bộ trong môi trường sống của con người - Những cải thiện về vấn đề dinh dưỡng - Những tiến bộ trong chẩn đoán và điều trị y học đối với các loại bệnh tật Những tiến bộ trong y tế luôn đi cùng với với những cải thiện về chất lượng môi trường, dinh dưỡng và chăm sóc y tế. Ngày nay, những người ốm yếu có cơ hội sống sót cao hơn nhiều do hệ thống chăm sóc y tế được cải thiện. Rất nhiều người luôn sống khoẻ mạnh, do có nguồn dinh dưỡng tốt và kiểm soát tốt các mối nguy hiểm về sức khoẻ môi trường. 8
  9. Nhập môn Sức khỏe Môi trường Khoa học môi trường là một môn học rất cần thiết và quan trọng dựa trên hai lý do căn bản sau đây: - Nghiên cứu những mối nguy hiểm trong môi trường và những ảnh hưởng của chúng lên sức khoẻ - Ứng dụng những phương pháp hiệu quả để bảo vệ con người khỏi những mối nguy hại từ môi trường. Muốn vậy chúng ta hãy xem xét thế nào là sức khoẻ và thế nào là môi trường? Trước hết chúng ta hãy điểm qua vài nét về hệ sinh thái: Ra đời từ những năm 1930, thuật ngữ “hệ sinh thái” có thể được định nghĩa như là một hệ thống gồm những mối quan hệ tương tác qua lại giữa các sinh vật sống và môi trường tự nhiên của chúng. Đó là một thực thể đóng đã đạt được các cơ chế tự ổn định và nội cân bằng đã tiến hoá qua hàng thế kỷ. Còn trong Luật Bảo vệ Môi trường Việt Nam (2005), hệ sinh thái được định nghĩa là “hệ quần thể sinh vật trong một khu vực địa lý tự nhiên nhất định cùng tồn tại và phát triển, có tác động qua lại với nhau”. Trong một hệ sinh thái ổn định, một loài này không loại trừ một loài khác, nếu không thì nguồn cung cấp thức ăn cho những loài ăn thịt sẽ không tồn tại. Các hệ sinh thái ổn định và cân bằng sẽ có tuổi thọ cao nhất. Một hệ sinh thái sẽ không thể duy trì được một số lượng lớn vật chất và năng lượng được tiêu thụ bởi một loài mà lại không loại trừ một loài khác, và thậm chí còn gây nguy hiểm cho khả năng tồn tại của toàn bộ hệ sinh thái. Tương tự như vậy, khả năng của một hệ sinh thái trong việc chứa đựng chất thải và tái tạo đất, nước ngọt không phải là vô hạn. Tại một thời điểm nào đó, những tác động từ bên ngoài sẽ phá vỡ cân bằng của hệ sinh thái, dẫn đến sự thay đổi nhanh chóng hoặc làm huỷ diệt hệ sinh thái đó. Định nghĩa sức khoẻ và môi trường Theo định nghĩa của Tổ chức Y tế Thế giới (1946) thì sức khoẻ là “trạng thái thoải mái về cả tinh thần, thể chất và xã hội chứ không chỉ đơn thuần là vô bệnh, tật”. Khái niệm bệnh, tàn tật và tử vong dường như được các nhân viên y tế đề cập tới nhiều hơn so với khái niệm lý tưởng này về sức khoẻ. Do vậy “khoa học sức khoẻ” hầu như đã trở thành “khoa học bệnh tật”, vì nó tập trung chủ yếu vào việc điều trị các loại bệnh và chấn thương chứ không phải là nâng cao sức khoẻ. Tương tự như vậy, nhiều định nghĩa về môi trường trong bối cảnh sức khoẻ đã được đề cập. Theo một định nghĩa được đưa ra năm 1995, môi trường là “tất cả những gì ở bên ngoài cơ thể con người. Nó có thể được phân chia thành môi trường vật lý, sinh học, xã hội, văn hoá... Bất kì môi trường nào hay tất cả các môi trường trên đều có thể ảnh hưởng tới tình trạng sức khoẻ của quần thể” (Theo Annalee, 9
  10. - Giáo trình Sức khoẻ môi trường 2001). Định nghĩa này được dựa trên quan điểm là sức khoẻ của con người chủ yếu được xác định do yếu tố di truyền và môi trường. Yếu tố di truyền (gen) do cha mẹ truyền lại, bao gồm ADN trong mỗi tế bào cơ thể. Các gen này tồn tại khi phôi được hình thành và không có sự thay đổi nào về di truyền trong suốt quá trình phát triển của con người. Nếu như có sự thay đổi gen (như trong trường hợp đột biến), nó có thể dẫn tới sự mất chức năng, chết tế bào và ung thư (ở một số trường hợp đột biến cụ thể). Cơ sở vật chất di truyền của một cá thể là một trong những yếu tố chính xác định việc cá thể đó bị ảnh hưởng như thế nào bởi các yếu tố môi trường. Một số cá thể sẽ bị ảnh hưởng khi tiếp xúc với các chất độc hại, các nguy hiểm môi trường với hàm lượng lớn. Một số cá thể khác lại bị ảnh hưởng ở mức độ thấp hơn, bởi vì họ có các yếu tố nguy cơ/ điều kiện kép hoặc nguy cơ/ điều kiện đã có từ trước. Một số người bị ảnh hưởng ở một mức độ rất thấp do tính nhạy cảm di truyền. Điều đó minh chứng cho những ảnh hưởng của môi trường đối với sức khoẻ. Tuy nhiên, đã một thời chính con người đã làm huỷ hoại và suy thoái môi trường. Vì suy thoái môi trường nên có ảnh hưởng tới sức khoẻ cộng đồng như ung thư da tăng lên ở Ôxtrâylia khi tầng ozon bị suy giảm. Con người đã phá rừng trong quá trình phát triển của mình và hậu quả là con người phải chịu những hậu quả của lũ quét, của thay đổi khí hậu toàn cầu, của ô nhiễm các chất thải công nghiệp. Khi con người hu ỷ hoại môi trường thì theo qui luật nhân quả học, con người cũng phải chịu những mối đe doạ từ môi trường, đó là những mối nguy hiểm hiện đại và truyền thống. Khái niệm về sức khoẻ môi trường Hiện nay trên thế giới, vẫn còn nhiều tranh cãi về các định nghĩa như môi trường là gì? Sức khỏe môi trường là gì. Đặc biệt việc phân biệt sự khác nhau giữa hai phạm trù môi trường và sức khỏe môi trường là rất khó khăn. Sức khỏe môi trường là một thuật ngữ không dễ định nghĩa. Nếu chúng ta cho đó là “Sức khỏe của môi trường” thì dường như chúng ta không quan tâm tới một loài nào cụ thể, ví dụ loài người. Nhưng nếu một ai đó lại muốn định nghĩa thuật ngữ này ám chỉ tới sức khỏe con người thì điều này lại còn quá nhiều chỗ để tranh cãi. Hai định nghĩa dưới đây, định nghĩa đầu tiên quan tâm tới những ảnh hưởng của môi trường lên sức khỏe trong khi định nghĩa thứ hai quan tâm tới những dịch vụ sức khỏe môi trường. Định nghĩa 1: Sức khỏe môi trường bao gồm những khía cạnh về sức khỏe con người, bao gồm cả chất lượng cuộc sống, được xác định bởi các yếu tố vật lý, hóa học, sinh học, xã hội và các yếu tố tâm lý trong môi trường. (theo định nghĩa trong Chiến lược Sức khỏe Môi trường Quốc gia của Ôxtrâylia - 1999). Định nghĩa này cũng ám chỉ tới cả lý thuyết và thực tiễn của việc quyết định, kiểm soát và phòng ngừa đối với những yếu tố trên trong môi trường, những yếu tố có thể có ảnh hưởng tiềm tàng bất lợi đối với sức khỏe của các thế hệ hiện tại cũng như các thế hệ tương lai. 10
  11. Nhập môn Sức khỏe Môi trường Định nghĩa 2: Các dịch vụ sức khỏe môi trường là những dịch vụ nhằm cải thiện các chính sách về sức khỏe môi trường qua các hoạt động giám sát, kiểm soát. Chúng cũng thực hiện vai trò tăng cường sự cải thiện những giới hạn của môi trường và khuyến khích việc sử dụng các công nghệ sạch và khuyến khích những thái độ cũng như những cách cư xử tốt đối với môi trường và sức khỏe. Những dịch vụ này cũng có vai trò quan trọng trong việc phát triển và đề xuất những chính sách mới về sức khoẻ môi trường. 5. TÁC ĐỘNG CỦA DÂN SỐ, ĐÔ THỊ HOÁ LÊN SỨC KHOẺ CỘNG ĐỒNG VÀ MÔI TRƯỜNG Những thách thức về dân số Việt Nam là rất nghiêm trọng đối với tất cả các vấn đề môi trường và tài nguyên thiên nhiên. Tăng dân số vẫn ở mức cao 1,7% (1999) và di dân nội bộ từ các khu vực nghèo tài nguyên và kinh tế kém phát triển vẫn đang tăng lên và không kiểm soát được. Theo Tổng cục Thống kê, cho đến cuối năm 2006, dân số nước ta đã là hơn 84 triệu người. Theo dự báo đến năm 2020, dân số nước ta xấp xỉ 100 triệu người, trong khi đó các nguồn tài nguyên đất, nước và các dạng tài nguyên khác có xu thế suy giảm, vấn đề nghèo đói ở các vùng sâu, vùng xa chưa được giải quyết triệt để. Hiện tại, cũng theo số liệu của Tổng cục Thống kê (2006), thu nhập bình quân đầu người năm 2004 là 484.400 đồng/ tháng, trong đó, sự chênh lệch về thu nhập giữa nông thôn và thành thị là gần 440.000 đồng/ tháng. Tỉ lệ hộ nghèo trong cả nước năm 2004 là 19,5%; và có sự chênh lệch lớn giữa thành thị và nông thôn (3,6% ở thành thị và 25,0% ở nông thôn). Quá trình đô thị hoá và phát triển kinh tế bằng con đường công nghiệp hoá đòi hỏi nhu cầu về năng lượng, nguyên liệu ngày càng to lớn, kéo theo chất lượng môi trường sống ngày càng xấu đi nếu không có các biện pháp hữu hiệu ngay từ đầu. Mặt khác, quá trình đô thị hoá và công nghiệp hoá ở nhiều khu vực, vùng lãnh thổ lại không được quán triệt đầy đủ theo quan điểm phát triển bền vững, nghĩa là chưa tính toán đầy đủ các yếu tố môi trường trong phát triển kinh tế xã hội. Theo dự kiến, tốc độ tăng trưởng GDP phải đạt xấp xỉ 7%/năm và được duy trì liên tục đến năm 2010. Theo tính toán của các chuyên gia nước ngoài, nếu GDP tăng gấp đôi thì nguy cơ chất thải tăng gấp 3 - 5 lần. Và nếu như trình độ công nghệ sản xuất, cơ cấu sản xuất, trình độ quản lý sản xuất, trình độ quản lý môi trường không được cải tiến thì sự tăng trưởng sẽ kéo theo tăng khai thác, tiêu thụ tài nguyên và năng lượng. Điều này dẫn đến khai thác cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, tạo ra sự gia tăng các loại chất thải và ô nhiễm môi trường gây nên sức ép cho môi trường. Trong khi đó môi trường đô thị, công nghiệp và nông thôn tiếp tục bị ô nhiễm. Đến năm 2006, dân đô thị đã là 27,1% so với dân số cả nước – tăng 2,18% so với cùng kỳ năm 2005 (Tổng cục Thống kê, 2006), dự kiến năm 2010 là 33% và 2020 là 45%. Môi trường đô thị ở nước ta bị ô nhiễm bởi các chất thải rắn, nước thải chưa được thu gom và xử lý theo đúng qui định. Khí thải, bụi, tiếng ồn v.v... từ các phương tiện giao thông nội thị và mạng lưới sản xuất qui mô vừa và nhỏ cùng với 11
  12. - Giáo trình Sức khoẻ môi trường cơ sở hạ tầng yếu kém càng làm cho điều kiện vệ sinh môi trường ở nhiều đô thị đang thực sự lâm vào tình trạng đáng báo động. Hệ thống cấp và thoát nước lạc hậu, xuống cấp không đáp ứng được nhu cầu. Mức ô nhiễm không khí về bụi, các khí thải độc hại nhiều nơi vượt tiêu chuẩn cho phép nhiều lần, nhất là tại các thành phố lớn như Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh vượt tiêu chuẩn cho phép 2 - 3 lần. Hộp 1.2. Hà Nội, thành phố trong... bụi (Hà Nội mới, ngày 18/6/2003, tr.4) Hà Nội đang trong quá trình đô thị hoá. Những công trình hạ tầng cơ sở về cấp, thoát nước, điện lực, thông tin liên lạc, đường sá, nhà hát, sân thi đấu thể thao, nhà ở... liên tục được sửa chữa, nâng cấp, cải tạo và xây dựng mới. Có thể ví Hà Nội hiện nay như một đại công trường, hàng ngày tạo ra một lượng lớn bụi bẩn. Quá tải Nồng độ bụi bẩn ở Hà Nội ngày một nhiều hơn. Trung bình ở các nơi công cộng trong thành phố nồng độ bụi vượt quá chuẩn cho phép từ 2 đến 4 lần (theo tiêu chuẩn của các nước phát triển ở châu Âu, châu Mỹ, nồng độ bụi ở các thành phố chỉ được phép vượt quá tiêu chuẩn cho phép 1-2 lần). Hứng chịu nhiều nhất là các khu vực đang xây dựng, cải tạo, sửa chữa: Mai Động, Thượng Đình, ngã tư Vọng, Cầu Diễn, Bắc Thăng Long, Chèm, Văn Điển, Láng – Hoà Lạc, Trần Duy Hưng..., vượt quá chuẩn cho phép 5 lần. Nồng độ các chất ô nhiễm khác đều vượt chuẩn nhiều lần, cực độc có Pb, SO2. Ô nhiễm do bụi cao nhất là vào hôm trời hành, gió mạnh. Nguyên nhân gây ra bụi Ngoài chuyện đổ rác bừa bãi của dân, thì phế thải rắn trong xây dựng (đất, đá, sỏi...), vật liệu thi công được coi là tác nhân chính gây bụi bẩn. Từ trung tâm đến ngoại ô, từ các trục giao thông chính đến ngõ ngách, đâu đâu cũng thấy xây dựng. Thành phố đã quy định về bảo đảm vệ sinh, tránh bụi bẩn, các công trình xây dựng nhà ở phải được che chắn kỹ, nhưng không ít chủ công trình đã lờ đi. Nhiều chủ phương tiện chở vật liệu, phế thải không che đậy kín, chở quá tải trọng, phóng nhanh làm rơi vãi ra đường phố. Các công trình thi công, kè sông, đường giao thông, cầu vượt, đường hầm dành cho người đi bộ không hoàn thành đúng tiến độ, đã tạo nên một lượng bụi rất lớn: cụ thể là đường hầm ngã tư Vọng, hành lang Tây Sơn dài 6,8 km... Ngoài ra còn có bụi, khói từ các khu công nghiệp tập trung (cũ và mới), ô tô, xe máy. Đa phần các cơ sở sử dụng công nghệ lạc hậu, dùng than đá mà không có thiết bị thu gom xử lý bụi. Các nhà máy đan xen với dân cư, cơ sở hạ tầng không được xây dựng đồng bộ nên cũng gây ô nhiễm nặng. Nguồn: http://www.nea.gov.vn/thongtinmt/noidung/hn3_18_6_03.htm (truy cập ngày 15/8/2007) 12
  13. Nhập môn Sức khỏe Môi trường Môi trường nông thôn đang bị ô nhiễm do các điều kiện vệ sinh và cơ sở hạ tầng yếu kém. Việc sử dụng không hợp lý các hoá chất nông nghiệp đã và đang làm cho môi trường nông thôn ô nhiễm và suy thoái. Việc phát triển các làng nghề tiểu thủ công nghiệp đã làm ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Nước sinh hoạt và vệ sinh là vấn đề cấp bách, tỷ lệ hố xí hợp vệ sinh ở nông thôn thấp, chỉ đạt 18% theo TC 08/QĐ-BYT (Cục YTDP Việt Nam, 2006). Cho đến năm 2005, toàn quốc có 62% dân số nông thôn được sử dụng nước sạch (Cục BVMT, 2005). Nạn khai thác rừng bừa bãi, thậm chí xảy ra ở cả các khu rừng cấm, rừng đặc dụng; nạn đốt phá rừng đã gây ra những thảm hoạ cháy rừng nghiêm trọng như vụ cháy rừng nước mặn U Minh năm 2001. Đồng thời, việc săn bắt động vật hoang dã cũng đang làm suy giảm đa dạng sinh học và gây huỷ hoại môi trường. Những vấn đề của môi trường xã hội ngày càng trở nên bức xúc như ma tuý, HIV/AIDS, b ạo lực, và gần đây là các vụ dịch như SARS, cúm gia cầm H5N1... Những vấn đề môi trường toàn cầu như tầng ozon bị suy giảm, hiệu ứng nhà kính, khí hậu toàn cầu nóng lên, thay đổi khí hậu, mực nước biển dâng cao, hiện tượng El-Nino, La-Nina gây nên các hiện tượng hạn hán, lũ lụt xẩy ra ở nhiều nơi trên thế giới trong đó có Việt Nam. Đồng thời, nạn chuyển dịch ô nhiễm sang các nước đang phát triển cũng là một vấn đề cần chú trọng. Từ những vấn đề trên thực tế đòi hỏi phải có một chính sách về môi trường, sức khoẻ môi trường một cách đúng đắn, đồng bộ và hợp lý trong giai đoạn phát triển mới của đất nước ta. 6. NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG CƠ BẢN CHO MÔI TRƯỜNG LÀNH MẠNH 6.1. Bầu không khí trong sạch Không khí rất cần thiết cho sự sống, nếu thiếu không khí, con người sẽ chết chỉ sau một vài phút. Ô nhiễm không khí là một trong những vấn đề môi trường trầm trọng nhất trong các xã hội ở tất cả các cấp độ phát triển kinh tế khác nhau. Hàng ngày, có khoảng 500 triệu người phải tiếp xúc với một hàm lượng lớn ô nhiễm không khí trong nhà ở các dạng như: khói từ các lò sưởi không kín hoặc lò sưởi được thiết kế tồi. Có khoảng 1,5 tỉ người ở các khu vực thành thị phải sống trong môi trường bị ô nhiễm không khí nặng nề. Sự phát triển của ngành công nghiệp đi đôi với việc thải ra số lượng lớn các khí và các chất hạt từ quá trình sản xuất công nghiệp và từ quá trình đốt cháy các nhiên liệu hoá thạch cho nhu cầu giao thông vận tải và lấy năng lượng. Khi các tiến bộ công nghệ đã bắt đầu chú trọng đến việc kiểm soát ô nhiễm không khí bằng cách giảm việc thải ra các chất hạt thì người ta vẫn tiếp tục thải ra các chất khí, do vậy ô nhiễm không khí vẫn còn là vấn đề lớn. Mặc dù hiện nay nhiều nước phát triển đã có những nỗ lực lớn để kiểm soát cả việc thải khí và các chất hạt, ô nhiễm không khí vẫn là nguy cơ đối với sức khoẻ của nhiều người. 13
  14. - Giáo trình Sức khoẻ môi trường Ở những xã hội phát triển nhanh chóng, việc kiểm soát ô nhiễm không khí không được đầu tư thích hợp vì còn những ưu tiên khác về kinh tế và xã hội. Việc phát triển công nghiệp nhanh chóng ở những nước này đã xảy ra đồng thời với việc gia tăng lượng ô tô và các loại xe tải khác, nhu cầu điện thắp sáng tại các hộ gia đình cũng tăng lên, dân số tập trung ở các khu đô thị hoặc các thành phố lớn. Kết quả là một số thảm hoạ ô nhiễm không khí tồi tệ nhất trong lịch sử thế giới đã xẩy ra. Ở các quốc gia nơi mà việc sử dụng các nguồn năng lượng sạch ở các hộ gia đình vẫn chưa được chú trọng, ô nhiễm không khí đã trở thành một vấn đề trầm trọng vì năng lượng dùng để sưởi ấm và đun nấu còn thiếu và sản sinh ra rất nhiều khói, dẫn đến ô nhiễm trong nhà và ngoài trời. Kết quả là con người có thể bị kích thích màng nhày, mắc các bệnh hô hấp, bệnh phổi, các vấn đề về mắt và tăng nguy cơ bị ung thư. Phụ nữ và trẻ em ở những cộng đồng nghèo khổ tại các nước đang phát triển là những người đặc biệt phải tiếp xúc nhiều với ô nhiễm không khí. Chất lượng không khí trong nhà cũng là vấn đề nghiêm trọng ở nhiều nước phát triển vì các toà nhà được thiết kế theo kiểu kín gió và có hiệu quả cao về mặt năng lượng. Hệ thống lò sưởi và hệ thống làm lạnh, khói, hơi từ các vật liệu tích trữ trong nhà tạo ra nhiều chất hoá học và gây ra ô nhiễm không khí. 6.2. Có đủ nước sạch cho ăn uống và sinh hoạt Nước cũng rất cần thiết cho sự sống. Trung bình mỗi người cần phải uống tối thiểu 2 lít nước/ ngày. Nếu sau 4 ngày không có nước, con người sẽ chết. Nước cũng cần thiết cho thực vật, động vật, và nông nghiệp. Trong suốt lịch sử phát triển, con người luôn tập trung sống dọc theo các bờ sông, ven hồ để lấy nước cho sinh hoạt và nông nghiệp. Nước cũng cung cấp phương tiện vận chuyển tự nhiên, được sử dụng để xử lý chất thải và đóng một vai trò quan trọng trong các ngành công nghiệp, ngư nghiệp và các trang trại. Mặc dù nước ngọt được coi là một nguồn tài nguyên có thể tái sử dụng, nhưng nước ngọt cũng không phải là một nguồn vô hạn. Hơn nữa, nước được phân bố không đồng đều ở các khu vực địa lý và dân cư trên thế giới. Tại rất nhiều nơi, việc thiếu nước đã trở thành trở ngại lớn đối với việc phát triển công nghiệp và nông nghiệp. Trong một số trường hợp, việc thiếu nước đã gây ra nhiều cuộc xung đột (ví dụ: những xung đột tranh chấp nước ngọt ở các nước khu vực Trung Đông). Việc khan hiếm nước dẫn đến đói nghèo và làm cằn cỗi đất đai. Rất nhiều thành phố và các khu vực nông thôn đã khai thác nước từ các tầng nước ngầm với số lượng rất lớn, lớn hơn cả khả năng mà bản thân các tầng nước ngầm này có thể tự bổ sung lại được. Chất lượng của nước ngọt có tầm quan trọng rất lớn trong việc duy trì sức khoẻ con người. Rất nhiều bệnh truyền nhiễm đe doạ sự sống và sức khoẻ con người được truyền qua nước hoặc thực phẩm bị nhiễm bẩn. Khoảng 80% các bệnh 14
  15. Nhập môn Sức khỏe Môi trường tật ở các nước đang phát triển là do thiếu nước sạch và thiếu các phương tiện phù hợp để xử lý phân (WHO, 1992). Có khoảng một nửa dân số trên thế giới mắc phải các bệnh do thiếu nước hoặc nước bị nhiễm bẩn, gây ảnh hưởng chủ yếu đối với tầng lớp người nghèo ở tất cả các nước đang phát triển. Có khoảng 2 tỉ người trên trái đất có nguy cơ mắc phải các bệnh ỉa chảy lây lan qua đường nước hoặc thực phẩm, đây là nguyên nhân chính gây ra tử vong khoảng gần 4 triệu trẻ em mỗi năm. Các vụ dịch tả, thường được truyền qua nước uống bị nhiễm bẩn, đang tăng lên nhanh chóng về mặt tần suất. Bệnh sán máng (200 triệu người nhiễm bệnh) và bệnh giun (10 triệu người bị nhiễm bệnh) là 2 dạng bệnh phổ biến trầm trọng nhất có liên quan tới nước. Các vectơ côn trùng sinh sản nhờ nước cũng truyền các bệnh đe doạ sự sống của con người, chẳng hạn như sốt rét (267 triệu người bị nhiễm), giun chỉ (90 triệu người nhiễm), giun dưới da (18 triệu người nhiễm) và sốt xuất huyết (30 - 60 triệu người nhiễm) (WHO, 1992). Việc thiếu nước thường dẫn đến các vấn đề có liên quan tới chất lượng nước. Nước thải sinh hoạt, nước thải công nghiệp, nông nghiệp và các khu đô thị đã làm vượt quá khả năng của các vực nước tự nhiên trong việc phân huỷ các chất thải có khả năng phân huỷ sinh học và hoà tan các chất thải không có khả năng phân huỷ sinh học. Ô nhiễm nước xảy ra trầm trọng nhất ở các thành phố nơi mà việc kiểm soát các dòng thải công nghiệp không chặt chẽ và thiếu các ống, rãnh dẫn nước thải, thiếu các nhà máy xử lý nước thải. 6.3. Đủ thực phẩm và thực phẩm an toàn Thực phẩm cung cấp năng lượng cho cơ thể con người. Tuỳ vào trọng lượng cơ thể và các hoạt động về thể lực mà cơ thể con người cần khoảng 1000-2000 calo năng lượng mỗi ngày. Nếu như không có thực phẩm, con người sẽ chết sau 4 tuần. Thực phẩm cũng cung cấp các vitamin và các chất vi lượng, nếu không có các chất này, con người cũng sẽ mắc một số bệnh thiếu hụt. Trong vài thập kỉ vừa qua, hệ thống sản xuất lương thực của thế giới đã đáp ứng đủ so với nhu cầu tăng trưởng dân số (Hình 1.3). Tuy nhiên, những thành công trong nông nghiệp toàn cầu cũng không được phân bố đồng đều. Các nước Châu Á và Châu Mỹ La Tinh đã tăng sản lượng lương thực trên đầu người một cách đáng kể, nhưng sản lượng lương thực của các nước châu Phi vẫn chưa theo kịp được mức tăng trưởng dân số của họ, và các nước thuộc Liên Xô cũ cũng đã giảm sút sản lượng lương thực một cách đáng kể. Đối với phần lớn dân số trên thế giới, suy dinh dưỡng và các bệnh liên quan tới suy dinh dưỡng vẫn còn là một nguyên nhân chính gây ra tình trạng ốm yếu và chết yểu. Các tác nhân gây bệnh qua thực phẩm gây ra hàng triệu ca ỉa chảy mỗi năm, bao gồm cả hàng nghìn người ở những nước phát triển. Việc phân bố và sử dụng thức ăn không hợp lý là thủ phạm chính gây ra các ca bệnh này. Việc suy thoái đất và cạn kiệt các nguồn nước một cách nhanh chóng cũng tạo ra mối đe doạ nguy hiểm đối với việc sản xuất lương thực trong tương lai. 15
  16. - Giáo trình Sức khoẻ môi trường HỘP 1.3. KHÁI NIỆM MÔI TRƯỜNG HỖ TRỢ SỨC KHOẺ Trong khái niệm môi trường hỗ trợ sức khoẻ, người ta bàn tới các yếu tố quyết định sức khoẻ của toàn bộ quần thể, bao gồm các yếu tố sau: • vai trò của các yếu tố môi trường địa phương trong sự phát triển lành mạnh của một cộng đồng • một cách tiếp cận tạo điều kiện nâng cao sức khoẻ cũng như bảo vệ khỏi tiếp xúc với các yếu tố nguy cơ môi trường • xây dựng công bằng trong y tế đối với một cộng đồng • tầm quan trọng của phát triển bền vững như là một vấn đề sức khoẻ • tầm hiểu biết của con người về môi trường trên một diện rộng • nhận thức của con người về sự quan tâm và tham gia của cá nhân nhằm duy trì hoặc tạo ra một môi trường lành mạnh Nguồn: Haglund và cộng sự, 1992. 7. TỔNG QUAN VỀ CHÍNH SÁCH VÀ QUẢN LÝ SỨC KHOẺ MÔI TRƯỜNG 7.1. Tình hình thực hiện Chính sách và quản lý môi trường Về chính sách bảo vệ môi trường. Vào những năm 80, lần đầu tiên các nhà khoa học đã đưa ra dự thảo chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia. Tháng 12/1992, Hội nghị Quốc tế về Môi trường và Phát triển Bền vững đã thông qua kế hoạch 10 năm về môi trường, đây được coi như một chiến lược quốc gia về môi trường cho giai đoạn 1991 - 2000. Trên cơ sở đó, nhiều chính sách, văn bản pháp luật, hàng loạt các hoạt động về quản lý môi trường đã được ban hành như Luật Bảo vệ Môi trường (1993, sửa đổi bổ sung năm 2005), Nghị định 175/CP về "Hướng dẫn thi hành luật bảo vệ môi trường", Nghị định 26/CP về "Xử phạt hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường". Đặc biệt năm 1998, Bộ chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị 36/CT-TW về "Tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước". Hệ thống quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường từ trung ương đến địa phương đã được hình thành và đi vào hoạt động nề nếp. Những điều này đã góp phần không nhỏ ngăn chặn ô nhiễm, suy thoái và sự cố môi trường, góp phần cải thiện đáng kể chất lượng môi trường ở nước ta. Về chính sách quản lý sức khoẻ môi trường, trong thời gian qua, ngành y tế đã có một số những chính sách, chiến lược riêng lẻ cho những hoạt động về sức 16
  17. Nhập môn Sức khỏe Môi trường khoẻ môi trường như quản lý chất lượng vệ sinh và an toàn thực phẩm (Cục Quản lý Chất lượng Vệ sinh An toàn Thực phẩm, Viện Dinh dưỡng,...), những chính sách về vệ sinh học đường, xây dựng các chỉ số đánh giá chất lượng nước sinh hoạt, xây dựng tiêu chuẩn về vệ sinh lao động và xác định những bệnh nghề nghiệp v.v... Một vấn đề cơ bản là ngành y tế đã có một hệ thống hoàn chỉnh, hoạt động có hiệu quả từ trung ương đến địa phương, đó là hệ thống y học dự phòng, các hoạt động về sức khoẻ môi trường đều thông qua hệ thống này. Đây là điều kiện thuận lợi cho việc thực thi các chính sách và chiến lược về sức khoẻ môi trường. Tuy nhiên, cho đến nay chúng ta chưa có một hội nghị nào có tầm cỡ quốc gia bàn về chiến lược, các chính sách riêng, cụ thể cho sức khoẻ môi trường bởi lẽ chúng ta cũng chưa ra được một định nghĩa rõ ràng hay một khái niệm cụ thể về sức khoẻ môi trường ở Việt Nam. Đây là một vấn đề trong thời gian tới các cấp, các cơ sở y tế trong toàn quốc cần phải quan tâm và tiến hành. Cơ quan giữ vai trò quan trọng trong việc này là Cục Y tế Dự phòng - Bộ Y tế trong việc phối hợp với ngành môi trường cần đề nghị Chính phủ để có một Hội nghị quốc gia bàn về chính sách và chiến lược quốc gia về sức khoẻ môi trường. Trong năm 2006, diễn đàn quốc gia về sức khoẻ môi trường đã được tổ chức tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh với sự phối hợp của Cục Bảo vệ Môi trường (Bộ Tài nguyên Môi trường) và Cục Y tế dự phòng (Bộ Y tế). Bản thảo chiến lược quốc gia về sức khoẻ môi trường cũng đã được đưa ra bàn luận tại diễn đàn để tiến hành thu thập ý kiến xây dựng. 7.2. Thực trạng và chiến lược về sức khoẻ môi trường Tuy Việt Nam đã đạt nhiều kết quả về bảo vệ môi trường, tránh hiệu quả xấu tác động lên sức khoẻ con người, nhưng còn nhiều vấn đề bất cập trong quản lý môi trường, sức khoẻ môi trường như qui hoạch môi trường chưa lồng ghép với phát triển kinh tế - xã hội, giáo dục-đào tạo, nâng cao nhận thức môi trường, qui hoạch phát triển đô thị, qui hoạch quản lý tổng thể rừng, vùng ven biển, bảo tồn đa dạng sinh học, v.v.... Hệ thống tổ chức quản lý, cơ chế và chính sách còn nhiều hạn chế. Kinh phí ít, đầu tư dàn trải nên kết quả nhiều khi không thấy rõ ràng, làm cộng đồng dân cư thay đổi nhận thức còn quá chậm, làm cho môi trường và sức khoẻ môi trường hiện tại còn nhiều điều cần bàn. 7.2.1. Thực trạng • Môi trường tiếp tục xuống cấp - Rừng tiếp tục bị suy thoái - Đa dạng sinh học trên đất liền và dưới biển tiếp tục bị suy giảm - Chất lượng các nguồn nước tiếp tục xuống cấp - Môi trường đô thị và công nghiệp tiếp tục bị ô nhiễm - Chất lượng môi trường nông thôn có xu hướng xuống cấp nhanh 17
  18. - Giáo trình Sức khoẻ môi trường - Môi trường lao động ngày càng bị nhiễm độc - Sự cố môi trường gia tăng mạnh - Môi trường xã hội: phân hoá giầu nghèo ngày càng tăng, tệ nạn xã hội, v.v.... • Tác động của môi trường toàn cầu - Vấn đề môi trường của lưu vực sông Mê Kông và sông Hồng - Vấn đề môi trường của các rừng chung biên giới - Vấn đề mưa a-xít - Vấn đề ô nhiễm tầng khí quyển, hiệu ứng nhà kính và suy giảm tầng ozon, hậu quả của vấn đề này gây ra: + Sự thay đổi khí hậu của trái đất đẫn đến sự mất cân bằng của hệ sinh thái + Mực nước biển dâng cao do nhiệt độ trái đất tăng + Hiện tượng El-nino và La-nina làm gia tăng mưa bão và hạn hán nghiêm trọng + Vấn đề ô nhiễm biển và đại dương + Vấn đề chuyển dịch ô nhiễm • Thách thức của môi trường nước ta trong thời gian tới - Xu thế suy giảm chất lượng môi trường tiếp tục gia tăng - Tác động của các vấn đề môi trường toàn cầu ngày càng mạnh và phức tạp hơn - Gia tăng dân số và di dân tự do tiếp tục gây áp lực lên môi trường - Tăng trưởng nhanh về kinh tế cùng với việc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đã và đang tác động mạnh lên môi trường - Hội nhập quốc tế, du lịch và tự do hoá thương mại toàn cầu sẽ gây ra nhiều tác động phức tạp về mặt môi trường - Nhận thức về môi trường và phát triển bền vững còn thấp kém - Năng lực quản lý môi trường và sức khoẻ môi trường chưa đáp ứng yêu cầu - Mẫu hình tiêu thụ lãng phí hay khát tiêu dùng. 7.2.2. Chiến lược 18
  19. Nhập môn Sức khỏe Môi trường • Phòng ngừa ô nhiễm • Bảo tồn và sử dụng bền vững nguồn tài nguyên thiên nhiên, đa dạng sinh học • Cải thiện môi trường tự nhiên và xã hội. 7.2.3. Giải pháp • Tăng cường giáo dục và nâng cao nhận thức về môi trường và sức khoẻ môi trường • Tăng cường vai trò sự tham gia của cộng đồng, doanh nghiệp, tư nhân trong bảo vệ môi trường • Tăng cường và đa dạng hoá đầu tư bảo vệ môi trường • Tăng cường năng lực quản lý nhà nước về môi trường và sức khoẻ môi trường • Mở rộng hợp tác quốc tế và thu hút tài trợ nước ngoài • Kết hợp chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội • Cần có một chiến lược quốc gia về sức khoẻ môi trường 19
  20. - Giáo trình Sức khoẻ môi trường TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia 2001-2010. Định hướng kế hoạch hành động ưu tiên về bảo vệ môi trường giai đoạn 2001-2005 (Kế hoạch hành động môi trường 2001-2005), Hà Nội, 2001. 2. UNEP, 2001. Báo cáo hiện trạng môi trường Việt Nam, 2001. 3. Annalee, Y. et al. Basic Environmental Heatlh, Oxford University Press, 2001. 4. Monroe T. Morgan. Environmental Health, 2nd Edition, Morton Publishing Company, 1997. 5. The National Environmental Health Strategy, Publications Production Unit, Commonwealth Department of Health and Aged Care, Commonwealth of Australia, 1999. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2