intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Nhóm nguyên tố đất hiếm và nhóm khoáng sản không kim loại

Chia sẻ: Nguyễn Văn Thanh | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:14

74
lượt xem
10
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tài liệu trình bày về nhóm nguyên tố đất hiếm và nhóm khoáng sản không kim loại như quặng đất hiếm dạng mạch, quặng zircon, quặng liti, quặng Apatit,... Để biết rõ hơn về nội dung chi tiết, mời các bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Nhóm nguyên tố đất hiếm và nhóm khoáng sản không kim loại

  1. E.I.1.5. Đất hiếm và nguyên tố hiếm Kim loại hiếm  ở Việt Nam mới chỉ phát hiện Ta, Nb, Li, Zr, In, Cd và một số  nguyên tố  khác. Ta, Nb tồn tại ở dạng khoáng sản đi kèm trong quặng thiếc vùng Pia Oăc, Sơn Kim; In, Cd là  khoáng sản đi kèm của các tụ khoáng chì­kẽm, zircon là khoáng sản đi cùng sa khoáng ilmenit, có  giá trị tương đương hoặc cao hơn ilmenit.    1. Đất hiếm Việt Nam là một trong các nước có tiềm năng khoáng sản đất hiếm. Các tụ  khoáng đất   hiếm chủ yếu tập trung ở Lai Châu, Yên Bái và Lào Cai.  Theo nguồn gốc, tụ  khoáng đất hiếm  ở  Việt Nam gồm 3 kiểu: quặng gốc dạng mạch   nguồn gốc nhiệt dịch, quặng phong hóa và sa khoáng. ­ Quặng đất hiếm dạng mạch  Các tụ khoáng đất hiếm dạng mạch đã được điều tra, thăm dò gồm: Đông Pao, Nam Nậm Xe,  Bắc Nậm Xe, Mường Hum (Lai Châu) và Yên Phú (Yên Bái). Hầu hết phần trên các thân quặng trong   các tụ khoáng nêu trên đều bị phong hóa tạo nên kiểu quặng phong hóa trên tụ khoáng dạng mạch. Tụ  khoáng đất hiếm Đông Pao: đã phát hiện trên 60 thân quặng với 16 thân có khả  năng   đạt chất lượng  khai  thác. Có 2 loại quặng: quặng gốc dạng mạch và quặng phong hoá eluvi­ deluvi. Quặng gốc dạng mạch có chiều dày 3­4m, chỗ  dày 2­7,77m, càng xuống sâu hàm lượng   càng thấp. Hàm lượng TR2O3=4,43­6,17% (đối với quặng fluorit­barit đất hiếm).  Trữ  lượng quặng: TR2O3: cấp 121+122+333  (C1+C2+P1) khoản 700 ngàn tấn; cấp 334b (P2)  gần 1 triệu  tấn [Bùi Tất Hợp và nnk., 2007]. Tụ  khoáng đất hiếm Bắc Nậm Xe: Quặng đất hiếm phân bố  trong đá vôi bị  biến đổi tạo   dải rộng 500­600m, dài  ~ 4km theo phương TB­ĐN bao gồm hàng chục thân quặng công nghiệp   có chiều dày 0,5­5­6m, chiều dài từ  vài chục mét đến 200­500m. Trong quặng đất hiếm có xâm  tán: barit, galenit, sphalerit, pyrit, fluorit, ilmenit, chalcopyrit, limonit. Riêng galenit, sphalerit ngoài  xâm   tán   còn   có   dạng   ổ,   mạch   nhỏ.   Hàm   lượng   ∑TR2O3  trung   bình   4­6%;   Pb=0,04­1,29%;  Zn=0,008­0,18%; BaSO4=trung bình 3,258%; CaF2: trung bình 2,222%.  Cường độ  phóng xạ  đạt  200­300µR/h (có chỗ 2000µR/h). Hàm lượng ThO2=0,023­ 0,156%; U3O8=0,01­ 0,041%. Trữ  lượng ∑TR2O3  khoảng 7 triệu tấn, Pb=400.000 tấn, Zn=51.000 tấn, CaF 2=1 triệu tấn  và BaSO4=1,6 triệu tấn [Bùi Tất Hợp và nnk., 2007]. Tụ  khoáng đất hiếm Nam Nậm Xe:  Đã phát hiện được 4 thân quặng,  hàm lượng  TR2O3  trung bình 10,6 %. Khoáng   vật   quặng:   barit,   baritoxelextin,   parzit,   basnezit,   ankerit,   calcit,   ít   pyrit,   galenit,  sphalerit, magnetit, fluorit. Trữ lượng TR2O3  cấp 121+122 (B+C) gần 200 ngàn tấn ; (P1)  xấp xỉ 3  triệu tấn Tụ  khoáng Yên Phú: Có 2 kiểu phân bố  của quặng đất hiếm: quặng đất hiếm đi cùng  thạch anh­magnetit, quặng đất hiếm xâm tán trong các lớp đá phiến thạch anh­serixit có felspat, đá  phiến silic, phiến sét vôi với chiều dày 1­10 m. Hàm lượng quặng TR2O3=0,1­ 7%, trung bình 1,12%. Tỷ lệ đất hiếm nhóm nặng cao. Trữ  lượng, tài nguyên  cấp 122+333 (C1+C2)=17.190 tấn TR2O3, trong đó cấp 122 (C1) hơn 6 ngàn tấn,  333 (C2) gần 11 ngàn tấn [Bùi Tất Hợp và nnk., 2007].  ­ Quặng đất hiếm phong hóa: Ngoài quặng phong hóa trên các tụ khoáng đất hiếm đã nêu  trên,  ở  Việt Nam mới phát hiện kiểu tụ khoáng đất hiếm phong hóa trên các khối granitoid kiếm   chứa các khoáng vật chứa đất hiếm như  ortit, sfen  ở  Bến Đền (Là Cai). Quặng tồn tại cả  trong  đới sét phong hóa trên mặt và trong tầng granit bán phong hóa mềm bở. Tuy hàm lượng đất hiếm   không cao (hàng trăm đến hàng ngàn ppm) nhưng   theo các nhà địa chất JOGMEC (Nhật Bản)   quặng thuộc loại dễ tuyển, có thể có ý nghĩa kinh tế. Quặng đất hiếm sa khoáng: gồm monasit, xenotim đi kèm trong sa khoáng titan – zircon và  sa khoáng monasit aluvi. Kiểu đầu rất phổ  biến nhưng hàm lượng khoáng vật chứa đất hiếm rất 
  2. thấp. Hàm lượng monasit chỉ  khoảng 0,1 – 0,2% tổng khoáng vật nặng có ích, xenotim rất ít.   Quặng monasit trong sa khoáng aluvi chỉ mới được biết ở Điểm khoáng Bù Khạng, mới được điều  tra, đánh giá, chưa được thăm dò. Tổ   hợp   Basnezit   (Bas)­Barit(Ba)­Thạch   anh   Tổ   hợp   Parizit   (Pari)­Calcit   (Cc)­Thạch   anh   (Q) trong quặng Đất hiếm Nam Nậm Xe.  Ảnh   (Q) trong quặng Đất hiếm Nam Nậm Xe.  Ảnh   Đỗ Văn Nhuận. Đỗ Văn Nhuận. 2. Zircon Quặng zircon có ý nghĩa kinh tế  mới chỉ  được điều tra, thăm dò theo sa khoáng titan –   zircon. Hiện đã xác định, zircon có trong tất cả sa khoáng kiểu cồn cát ven biển và trong tầng cát  đỏ. Tuy nhiên, hàm lượng zircon trong quặng ở các tụ khoáng không giống nhau.  Trong các sa khoáng kiểu cồn cát ven biển vùng Quảng Trị, Thừa Thiên­Huế hàm lượng zircon   chiếm đến 13­15%, có nơi đến 20%, tổng khoáng vật nặng có ích; các sa khoáng vùng Thanh Hóa, Hà  Tĩnh,  Bình Định, Phú Yên có hàm lượng zircon thấp, chỉ  chiếm 4­6%, cao nhất  đến 8% tổng  khoáng vật nặng có ích. Hàm lượng zircon trong sa khoáng titan – zircon trong tầng cát đỏ  thường thay đổi trong  khoảng 12­15%, cao nhất, ở vùng Hàm Tân, tới 20­25%.  Tổng tài nguyên zircon trong sa khoáng đã tính được khoảng 87 triệu tấn, trong đó, chủ  yếu tập trung trong tầng cát đỏ. Do  ảnh hưởng của zircon, hàm lượng ilmenit quy đổi của các sa  khoáng có thể lớn hơn hàm lượng tổng khoáng vật nặng có ích tới 2,0­2,6 lần. Khoáng vật zircon màu xanh nhạt trong cát đỏ  Khoáng vật zircon không màu trong cát đỏ ven  ven biển Ninh Thuận. Ảnh Trần Ngọc Thái. biển Ninh Thuận. Ảnh Trần Ngọc Thái.
  3. 3. Liti Quặng liti chỉ mới được biết  ở dạng  đi   kèm   trong   quặng   thiếc   ở   vùng   Pia   Oắc  (Cao   Bằng)   và   La   Vi   (Quảng   Ngãi)   (ảnh  3.17). Tụ   khoáng liti  La  Vi   đã  được   điều  tra,  đánh  giá,  xác định  có  ý nghĩa độc   lập.  Phát hiện, khoanh định 40 thân quặng, trong  đó có 16 thân quặng tính được tài nguyên cấp  333 (C2). Các thân quặng trong tụ khoáng có  dạng mạch, thấu kính, ổ  nằm trong các thân  pegmatoid hoặc aplit. Chiều dài thân quặng  lớn   nhất   tới   600   ­700m,   dày   trung   bình  Ảnh 3.13. Khoáng vật lepidolit chứa lithi trong quặng thiếc-lithi khoảng  1­2  m.   Khoáng   vật   quặng  chính  là  mới phát hiện ở Ba Tơ, Quảng Ngãi Ảnh: Nguyễn Văn Quý lepidolit,   có   nơi   có   casiterit.   Khoáng   vật  không quặng gồm thạch anh, muscovit, felspat, turmalin. Hàm lượng Li trong quặng thay đổi trong   khoảng 0,1 đến trên 1% LiO2. Tổng tài nguyên cấp 333 đã tính được là 4.400 tấn LiO 2, 1.400 tấn  Sn [Phạm Văn Thông và nnk., 2009]. Tuy nhiên, do số lượng công trình khoan còn quá ít, tài nguyên  các nguyên tố có thể thay đổi nhiều sau khi thăm dò.   Casiterit   với   lepidolit   trong   mạch   pegmatoit   Lepidolit   +   casiterit   trong   pegmatit   albitit   ­  vùng  La   Vi,   Quảng  Ngãi.   Ảnh   Dương   Ngọc  greisen  (2  nicon)   vùng  La   Vi,   Quảng   Ngãi.  Tình. Ảnh Đỗ Văn Nhuận.   I.2. Nhóm khoáng sản không kim loại I.2.1. Khoáng chất công nghiệp 1. Hóa chất và phân bón
  4. 1. Apatit Quặng Apatit ở Việt Nam tập trung chủ yếu ở khu vực Lào Cai  (ảnh 3.18), có nguồn gốc trầm  tích­biến chất. Quặng phân bố  dọc bờ  phải  sông  Hồng  từ  biên giới Việt­Trung  ở  phía  bắc đến vùng Làng Lếch (Văn Bàn)  ở  phía  ĐN, tạo thành dải kéo dài trên 100 km, rộng  trung bình 1 km, chỗ  rộng nhất 3 km. Bể  apatit Lào Cai được chia thành 3 khu: 1) Lũng   Pô­Bát Xát, 2) Bát Xát­Ngòi Bo, và 3) Ngòi  Bo­Bảo Hà, gồm các thành tạo lục nguyên­ carbonat chứa phosphat biến chất thành apatit  thuộc điệp Kốc San do A.F. Kalmưcov xác  lập năm 1959 khi nghiên cứu, thăm dò vùng  tụ   khoáng   apatit   Lào   Cai.  Trong  các   văn  liệu địa chất hiện nay chúng còn có tên gọi   là hệ  tầng Cam Đường    tuổi Cambri sớm,  dày 600­800 m. Điệp Kốc San, sau này gọi  Ảnh 3.14. Khai thác apatit ở vùng mỏ Lào Cai. là Hệ  tầng Kốc San được phân chia thành  Ảnh: Mỏ Apatit Lào Cai 45 năm xây dựng và trưởng thành 8 tầng đá chuyển tiếp từ  dưới lên, được  theo dõi, phân chia đầy đủ ở khu Trung tâm của vùng tụ khoáng, trong đó các tầng  KS4, KS5, KS6 và  KS7  chứa quặng apatit. Quặng apatit Lào Cai được phân thành 4 loại, trong đó các loại I và III là quặng phong hóa   mềm xốp; các loại II và IV là quặng apatit carbonat nguyên sinh (Hình 3.17). Quặng loại I thuộc phần phong hóa của vỉa apatit tập KS5 nằm trên mực nước dưới đất, có  độ xốp cao; hàm lượng trung bình P2O5: 34­36 %. Quặng loại II là loại apatit carbonat chưa phong   hóa của tập KS5  nằm trực tiếp dưới quặng loại I; hàm lượng trung bình P2O5: 23­24 %. Quặng  loại III nằm trong đới phong hóa như  quặng loại I, song hàm lượng apatit nghèo, thuộc tập KS 4,  còn được gọi là quặng thạch anh­apatit; hàm lượng trung bình P 2O5: 15­17 %. Quặng loại IV là  phần quặng nghèo nằm trong tập KS6, KS7; hàm lượng trung bình P2O5: 11­12 %. Quặng apatit loại I, Lào Cai. Cấu tạo dạng  Quặng apatit loại II, Lào Cai. Cấu tạo dạng  dải.  dải.Thân quặng số  5. Hàm lượng P205 : 18­ Thân quặng số 5. Hàm lượng P205 : 28­38%.  28%. Ảnh Nguyễn Quang Luật. Ảnh Nguyễn Quang Luật. Kết quả  thăm dò đã xác định tổng tài nguyên đến độ sâu 100 m từ mặt đất là 2,5 tỷ tấn. Trữ  lượng và tài nguyên chắc chắn 111+211+121+212 là 900 triệu tấn [Trần Văn Trị và nnk, 2000].
  5. Hình 3.17.  Mặt cắt địa chát tuyến 14 mỏ apatit Phú Nhuận 2. Barit Cho đến nay trên 50 tụ khoáng, điểm quặng barit đã được ghi nhận, trong đo 15 tụ khoáng  đã được điều tra, đánh giá thăm dò, tập trung chủ yếu  ở các tỉnh phía Bắc. Quặng có nguồn gốc   nhiệt dịch được chia làm 3 kiểu: barit­thạch anh, barit­đất hiếm và barit­sulfur. Barit­thạch anh (barit dạng mạch thấu kính):  Ở  nước ta, đây là loại hình quặng có triển  vọng nhất, phân bố  ở  nhiều nơi, có cấu trúc địa chất khác nhau. Các thân quặng thường có dạng   mạch xuyên cắt các tập cát kết, đá phiến tuổi Mesozoi và đá phiến sericit, quarzit tuổi Paleozoi  
  6. sớm. Gần đây, phát hiện mới điểm barit thạch anh trong các trầm tích biến chất tuổi Proterozoi  ở  Ngọc Quan, Đoan Hùng, Phú Thọ đã mở ra tiền đề tìm kiếm loại khoáng sản này ở vùng Tây Bắc   Việt Nam. Trong thân quặng, barit chiếm khoảng 80­85 %, thạch anh – 15­20 % và một khối   lượng không đáng kể khoáng vật sulfur như galen, cinnabar, chalcopyrit.  Barit loại hình này khá phổ biến, chiếm khoảng 4/5 các vùng triển vọng và các tụ khoáng   đã được tìm kiếm thăm dò. Các tụ khoáng đặc trưng cho loại hình này đã được thăm dò, đánh giá   như Làng Cao, Nà Ke, Sông Đáy ở Đông Bắc Bộ, Sơn Thành ở Nghệ An, Ngọc Quan ở Phú Thọ. ­ Tụ khoáng barit Làng Cao thuộc thôn Nguyên (Tân Yên, Bắc Giang). Quặng barit  ở đây có  dạng mạch xuyên cắt các lớp bột kết, cát kết màu đỏ  của hệ  tầng Mẫu Sơn Trias thượng. Các  mạch dạng thấu kính dài 150­300 m, ở phần trung tâm dày 4 m. Các thân quặng khác đều nhỏ và   biến đổi mạnh, dày 0,5­1,5 m. Hàm lượng quặng  ổn định (BaSO 4: 85 %, Fe2O3 
  7. lớn từ vài đến 85 %. Trữ lượng tin cậy (122+222+332) khoảng 170 ngàn tấn, tài nguyên dự  tính   107 ngàn tấn [Trần Văn Trị và nnk, 2000]. Fluorit trong đá carbonat: Kiểu quặng này gặp  ở  tụ  khoáng Bình Đường thuộc xã Phan  Thanh, huyện Nguyên Bình (Cao Bằng). Có 3 thân quặng phân bố trong đới dập vỡ tiếp xúc giữa   đá hoa của hệ tầng Mia Lé tuổi Đevon sớm với granit phức hệ Pia Oắc tuổi Creta, trong đó 2 thân  có giá trị. Quặng dạng ổ, mạch, bị phong hoá vỡ vụn. Tụ khoáng đã bị khai thác cạn kiệt. 4. Phosphorit Ở  Bắc Việt Nam đã phát hiện khá nhiều điểm quặng phosphorit, nhưng quy mô nhỏ, chỉ  vài ngàn đến vài chục ngàn tấn P2O5. Theo thống kê cho đến nay đã ghi nhận hàng trăm điểm  quặng phosphorit, trong đó 73 điểm đã được đánh giá, thăm dò vớ  tổng trữ  lượng và tài nguyên  khoảng 4 triệu tấn. Tụ khoáng Vĩnh Thịnh có trữ  lượng lớn nhất: 195 ngàn tấn [Trần Văn Trị  và   nnk, 2000]. Có hai loại nguồn gốc thành tạo phosphorit: thấm đọng karst và phosphorit guano đảo thấp. Phosphorit thấm đọng karst: phát triển chủ yếu trong đá vôi Carbon­Permi, gặp  ở các tỉnh  Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Quảng Ninh, Sơn La, Yên Bái, Hoà Bình, Phú Thọ, Ninh Bình,   Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Nam và Kiên Giang. ­ Tụ khoáng phosphorit Vĩnh Thịnh thuộc huyện Hữu Lũng (Lạng Sơn) nằm ở sườn núi đá vôi  có độ cao tuyệt đối từ 50 đến 250 m. Quặng tồn tại dưới dạng quặng gốc và bở rời.  Quặng gốc là những ổ, thấu kính phosphorit lắng đọng trên mặt bào mòn của dãy phễu karst   tạo thành 2 thân quặng song song cách nhau 250 m, phương á vĩ tuyến, dài 60­150 m, rộng 10­20 m.  Hàm lượng (%): P2O5 = 15­20; Al2O3 = 22; SiO2 = 10; Fe2O3 = 15.  Quặng bở rời là sản phẩm phong hoá cơ học từ quặng gốc, tích tụ dưới chân núi đá vôi tạo  thành dải dài 380 m, rộng 150 m. Hàm lượng  P2O5 thấp, xấp xỉ 5­10 %. Phosphorit guano đảo thấp: có nguồn gốc thấm đọng từ  phân chim trên các đảo ám tiêu  san hô vòng, phân bố rải rác trên quần đảo Hoàng Sa. Phosphorit tạo thành lớp có bề dày thay đổi   0,5­1,5 m nằm dưới lớp cát sâu từ 1 đến 3 m, có nơi lộ ngay trên mặt. Quặng dạng kết hạch hoặc   phân lớp uốn lượn lẫn trong mảnh san hô, xương cá, mùn hữu cơ bị phân huỷ, có màu nâu, bở rời;   hàm lượng P2O5  thay đổi, trung bình 20 %. Tổng tài nguyên khoảng 4,7 triệu tấn, trong  đó tài   nguyên dự tính là hơn 2 triệu tấn theo kết quả khảo sát của Đoàn Hợp tác Việt­Nhật [Trần Hữu   Châu, 1974].  Ở  quần đảo Trường Sa, quặng phosphat­cát­san hô­vỏ  sò kết dính khá chắc hoặc  dạng bột nâu đen, dày 1 m với hàm lượng P2O5  là 17­18 %. Tài nguyên dự  tính 180 ngàn tấn; tài  nguyên dự báo khoảng 10 triệu tấn [Trần Văn Trị và nnk, 2000]. 5. Pyrit Đến nay đã phát hiện trên 100 tụ  khoáng và điểm quặng pyrit, trong đó 12 tụ  khoáng đã  được điều tra và thăm dò, tập trung ở Bắc Bộ và Trung Bộ. Pyrit có nguồn gốc nhiệt dịch có thể  chia 4 kiểu quặng hoá gồm: Nhiệt dịch trao đổi: Tụ khoáng pyrit Giáp Lai thuộc xã cùng tên, huyện Thanh Sơn (Phú Thọ)  thuộc kiểu quặng hóa này. Tụ khoáng gồm 40 thân quặng nằm trong đá hoa dolomit, đá phiến thạch   anh­mica Neoproterozoi. Thành phần khoáng vật quặng chủ yếu là pyrit và pyrrotin. Có 2 loại quặng:   phong hoá và quặng gốc. Quặng phong hoá có hàm lượng lưu huỳnh S >30 %, trong quặng sét chiếm  30­40 %. Quặng gốc chủ yếu dưới dạng xâm tán trong đá hoa, hàm lượng S 
  8. ­ Tụ khoáng Bản Gôn thuộc xã Thượng Long, huyện Phú Lộc (Thừa Thiên­Huế) đã được  thăm dò. Quặng nằm trong đá phun trào đacit­ryolit, đá hoa, cát kết dạng quarzit hệ tầng A Vương   tuổi Cambri­Orđovic sớm. Có hai loại quặng: eluvi­deluvi và quặng gốc. Có 4 lớp quặng eluvi­ deluvi nằm song song với nhau. Tụ khoáng có 20 thân quặng gốc, trong đó 4 thân chứa arsenopyrit.   Khoáng vật  quặng chủ  yếu là  pyrit, pyrrotin,  arsenopyrit.  Hàm lượng quặng giàu có S=20 %.  Quặng pyrit chứa hàm lượng vàng từ 0,2 đến 1,8 g/tấn; bạc – 1­24,4 g/tấn. Quặng pyrit trong các tụ khoáng chì­kẽm, đồng.  Kiểu quặng này được biết trong các tụ  khoáng   chì­kẽm Chợ Điền, Chợ  Đồn (Bắc Cạn),  Tòng Bá (Hà Giang), tụ khoáng đồng Sin Quyền (Lào Cai) v.v... 6. Serpentin Serpentin là sản phẩm biến đổi của đá xâm nhập siêu mafic. Đã xác định được 2 tụ khoáng   serpentin là Bãi Áng (Thanh Hoá) và Thượng Hà (Yên Bái). Tụ  khoáng serpentin Bãi Áng  nằm  ở  tây nam dãy Núi Nưa, thuộc xã Tế  Thắng, huyện   Nông   Cống   (Thanh   Hoá).   Serpentin   được   thành   tạo   từ   biến   đổi   nhiệt   dịch   của   các   đá   đunit,  periđotit. Dải serpentin kéo dài hàng chục kilomet tạo thành các vỉa quặng lớn, cấu tạo đặc sít.   Serpentin màu xám, xám tro, xám xanh, rắn chắc. Thành phần hoá học của quặng (%): MgO=27­ 40; SiO2=34­52; CaO vết; Al2O3+Fe2O3=6­12. Tụ khoáng đã được thăm dò đánh giá, trữ  lượng các  cấp chắc chắn và tin cậy (cấp 111+122) là hơn 15 triệu tấn [Trần Văn Trị và nnk, 2000]. Tụ  khoáng Thượng Hà thuộc Phố  Giàng (Yên Bái), cách ga xe lửa Bảo Hà 10 km. Thành  phần   hoá   học   quặng   serpentin   (%):   MgO=22,3­37,8;   SiO2=39,4­43,4;   CaO=0,56­4,35;  Al2O3+Fe2O2=9,71­14,32.  Tụ  khoáng mới được điều tra; tài nguyên dự  báo (cấp 333) đạt hơn 21   triệu tấn [Trần Văn Trị và nnk, 2000]. 7. Than bùn Hiện nay, đã phát hiện được hàng trăm mỏ, tụ  khoáng và điểm quặng than bùn. Chúng  phân bố chủ  yếu  ở Nam Bộ và Bắc Bộ  trong trầm tích Đệ  tứ  tuổi Holocen muộn, với trữ lượng   tin cậy khoảng 1,3 triệu m3. Có 4 kiểu tụ khoáng: Kiểu đồng bằng giữa núi: phân bố  chủ  yếu  ở  Tây Bắc Bộ. Tụ  khoáng Phù Nham thuộc  huyện Văn Chấn (Yên Bái) phân bố trong thung lũng hẹp kéo dài, quy mô nhỏ. Than nâu, xốp, nằm  thành lớp dày 1­3 m có các đặc tính kỹ  thuật sau: độ   ẩm Wpt=7,9­37 %; độ  tro Akh=25,9­56,8 %;  chất bốc Vch=33­55,98 %; Vcb=66,2­76,4; Schg=2,1­12,36 %; Sk=21,67­40 %;  nhiệt luợng Qkh=3981­ 5513 kcl/kg. Trữ lượng cấp 122 đạt gần 238 ngàn m3  [Trần Văn Trị và nnk, 2000]. Kiểu đồng bằng núi thấp, bình nguyên: có quy mô nhỏ, phân bố chủ yếu ở Thanh Hoá, Hà  Tây, Hoà Bình. Chiều dày lớp than 1­3,5 m, chiều dày lớp sét phủ là 0,4­1,4 m. Kiểu đồng bằng bồi tích. Than tích tụ  ở các trũng hồ, đầm lầy ven sông, chất lượng tốt,   nhưng quy mô nhỏ. Lớp than có chiều dày 0,1­5 m, chiều dày lớp phủ từ 0,25 đến 5 m. Kiểu đồng bằng ven biển. Than có quy mô rất lớn, thường lộ trên mặt hoặc bị phủ bởi lớp   cát mỏng, được tạo thành từ thực vật thân gỗ nước mặn và lợ gồm đước sú, vẹt, chàm bị phân huỷ  từ trung bình đến rất mạnh. Trữ lượng chắc chắn riêng hai tụ  khoáng U Minh Thượng và U  Minh  Hạ: 210 triệu m3, chiếm trên 75 % trữ lượng than bùn cả nước [Trần Văn Trị và nnk, 2000]. 2. Nguyên liệu sứ gốm 1. Sét gốm sứ
  9. Sét gốm sứ  phân bố  rộng rãi trên cả  nước. Nhiều tụ  khoáng, điểm sét gốm sứ  đã được  phát hiện, trong đó 29 tụ khoáng đã được thăm dò, đánh giá với trữ lượng tính được khoảng 81,7  triệu tấn cấp 111+121+122+333 (A+B+C1+C2), tài nguyên cấp 122+333 (C2+P1) khoảng 137 triệu  tấn. Có hai loại nguồn gốc sét gốm sứ là trầm tích và phong hoá tàn dư. Sét gốm sứ nguồn gốc trầm tích: chủ yếu nằm trong các thành tạo Neogen­Đệ tứ. ­ Sét thành tạo trong trầm tích Holocen, phân bố rải rác ở các miền Đông Bắc Bộ, Tây Bắc  Bộ  và Trung Trung Bộ. Sét quặng nằm dưới lớp đất trồng hay lớp sạn cát. Thân sét dạng thấu  kính dày từ 1 đến vài mét, chiều dài thay đổi từ  vài chục đến vài trăm mét. Thành phần hoá học  (%): Al2O3=19­20; Fe2O2=2­4. Độ thu hồi qua rây 0,21 mm: 70­90 %. Quy mô các tụ khoáng thường   nhỏ, trữ lượng thay đổi với tài nguyên dự báo từ 100 ngàn đến 1 triệu tấn. ­ Sét thành tạo trong trầm tích Pleistocen: phân bố  rải rác ven các châu thổ, các sông lớn,  trên thềm bậc 2, bậc 3, thềm biền có độ cao 5­10 m như ở Thị Cầu (Bắc Ninh), Blao (Lâm Đồng),  Suối   Đôi   (Bình   Dương),   Đức   Tu   (Tp.   Hồ   Chí   Minh).   Thành   phần   hoá   học   (%):   Al 2O3=17;  Fe2O2=2,7; SiO2=70. Độ  thu hồi qua rây 0,05 mm: 68­80 %. Các tụ khoáng có quy mô từ nhỏ  đến  lớn; trữ lượng từng tụ khoáng và tụ khoáng thay đổi từ 300 ngàn đến 100 triệu tấn. ­ Sét thành tạo trong trầm tích Pliocen­Pleistocen, phân bố   ở  Đông Nam Bộ  trên địa hình  cao thuộc các tỉnh Tây Ninh, Đồng Nai, Bình Dương. Tân Uyên là tụ khoáng được biết đến từ lâu.  Các thân sét có dạng lớp dài 1­3 km, rộng 700­1000 m, dày 2­3 m. Thành phần hoá học (%):  Al2O3=7; Fe2O3=2­4; SiO2=72. Độ thu hồi qua rây 0,005 mm: 23­68 %. Các tụ khoáng và tụ khoáng  có quy mô từ trung bình đến lớn, trữ lượng từng tụ khoáng thay đổi từ 1 ngàn đến 100 ngàn tấn. ­  Sét thành tạo trong trầm tích Miocen. Các tụ  khoáng sét Miocen được phát hiện  ở  Nà  Dương (Lạng Sơn) và rìa châu thổ  Sông Hồng. Tụ  khoáng Việt Dân  có trữ lượng 350 ngàn tấn,  thành phần hoá học (%): Al2O3=17,8; Fe2O2=1,1. Sét phong hoá tàn dư, gồm các loại dưới đây: ­ Sét thành tạo trong vỏ phong hoá đá gabbro: Đại diện cho kiểu này là tụ  khoáng Đồng  Danh (Tuyên Quang). Sét gốm là sản phẩm phong hoá của đá gabbro pyroxen, gabbro norit, gabbro   thuộc phức hệ Núi Chúa. Thân sét có chiều dài 100­900 m, rộng 40­500 m, dày 3­4 m. Thành  phần  hoá học (%): Al2O3=19; Fe2O2=4. Trữ lượng 5 triệu tấn. ­ Sét thành tạo trong vỏ phong hoá trầm tích lục nguyên: Các tụ khoáng Hợp Thành (Lạng  Sơn), Rú Rồng (Nghệ An) là sản phẩm phong hoá từ các tập sét kết, bột kết các hệ tầng Mẫu Sơn   Trias thượng và Quy Lăng Trias trung. Thân sét dạng thấu kính, dạng ổ, dài 60­1000 m, rộng 15­30   m, dày 2­4 m. Thành phần hoá học (%): Al 2O3=16,2­18,5; Fe2O3=6­8; SiO2=67­70,3. Thành phần  khoáng vật chủ  yếu là hyđromica, kaolinit, halloysit, montmorilonit. Trữ  lượng tụ  khoáng Hợp   Thành khoảng 370 ngàn tấn. 2. Dolomit Có nhiều điểm dolomit đã được phát hiện, trong đó 14 tụ  khoáng đã được thăm dò, đánh   giá với tổng trữ lượng và tài nguyên cấp 122+221+333 gần 1.000 triệu tấn. Có hai loại nguồn gốc   dolomit là trầm tích và biến chất trao đổi. Dolomit trầm tích: được thành tạo trong các trầm tích carbonat có tuổi từ Đevon đến Trias   tập trung ở Ninh Bình, Lạng Sơn và Thái Nguyên. ­ Tụ khoáng dolomit Thạch Bình thuộc huyện Nho Quan (Ninh Bình) là một trong những tụ  khoáng lớn đã được thăm dò. Tụ  khoáng phân bố trong hệ tầng Đồng Giao tuổi Anisi tạo thành 4  dải hẹp. Dolomit có hàm lượng (%): CaO=30­31; MgO=20,2­21,4; Fe 2O3=0,04­0,19; MKN=43,57­ 55. Trữ lượng cấp 221+333 là 95 triệu tấn. Dolomit biến chất trao đổi. Kiểu nguồn gốc này được phát hiện trong các tập đá vôi bị  biến chất thành đá hoa và đolomit tái kết tinh của các thành tạo địa chất có tuổi từ Proterozoi đến  
  10. Cambri giữa. Các tụ khoáng đặc trưng là Ngầm Bà Huỳnh, Sa Pa, Cốc San, Ngọc Lập, Làng Doi ...  Kiểu này thường tạo thành các thân dạng thấu kính, dạng dải, có quy mô lớn. ­ Tụ  khoáng dolomit Sa Pa  thuộc huyện cùng tên, tỉnh Lao Cai. Đolomit nằm trong đá  carbonat xen lục nguyên bị  biến chất. Quặng tập trung thành dải dài 15­20 km, dày 50­200 m.  Thành phần hoá học của quặng (%): CaO = 30­36; MgO = 16­22; SiO 2 = 0,01­3;  FeO = 0,1­0,2;  Al2O3 = 0,01­0,05; SO3 = 0,02­0,04; MKN = 42­46. Trữ lượng cấp 221+333  khoảng 400 triệu tấn. 3. Felspat Ở miền Đông Bắc Bộ, quặng felspat phân bố chủ yếu xung quanh khối Sông Chảy thuộc  các tỉnh Tuyên Quang, Hà Giang. Ở miền Tây Bắc Bộ, quặng felspat liên quan đến đới biến chất   Sông Hồng, phân bố  chủ  yếu  ở  Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Yên Bái và Lào Cai.  Ở  các miền Bắc và  Trung Trung Bộ, quặng felspat tập trung  ở các tỉnh Thanh Hoá, Quảng Bình và Quảng Nam. Còn ở  các miền Nam Trung Bộ và Nam Bộ mới chỉ gặp các dấu hiệu quặng felspat  ở tỉnh An Giang với   quy mô nhỏ, ít có triển vọng. Quặng felspat có các nguồn gốc sau đây: Quặng felspat nguồn gốc pegmatit: là nguồn cung cấp fespat chủ yếu. Quặng hoá liên quan  chủ yếu đến các xâm nhập nhiều pha, có quy mô lớn xuyên cắt các đới biến chất cổ.  Quặng felspat nguồn gốc aplit: mới phát hiện ở tỉnh An Giang và vùng Làng Mạ (Lao Cai).   Quặng hoá thường liên quan đến các pha xâm nhập muộn  của các khối magma lớn. Quy mô quặng  hoá không lớn, chất lượng trung bình.   Dựa trên cơ sở yêu cầu tiêu dùng của một số đơn vị sản xuất gạch men, gốm sứ, thuỷ tinh  miền Nam, có thể phân loại quặng fespat như sau: 1) Quặng fespat loại A (F.1), dùng làm men gốm, sứ  và phối liệu sản xuất thuỷ tinh; 2) Quặng fespat loại B (F.2), phối liệu làm xương sứ vệ sinh, gạch   ceramic ốp tường; và 3) Quặng felspat loại C (F.3), phối liệu làm xương, gạch ceramic lát nền. Hiện nay đã phát hiện và khoanh định trên 50 tụ  khoáng felspat, phân bố  chủ  yếu  ở  Tây  Bắc   Bộ,   Trung   Trung   Bộ,   Tây   Nguyên   và   một   phần   ở   Tây   Nam   Bộ   với   trữ   lượng   cấp   122+221+333 đạt trên 30 triệu tấn [Nguyễn Thế Trung và nnk, 2002].   4. Quarzit Đã ghi nhận được 16 tụ khoáng và điểm quặng quarzit, trong đó 2 tụ khoáng đã được thăm   dò, 11 điểm được điều tra, với trữ lượng và tài nguyên đạt 1.917 triệu tấn. Quarzit phân bố  chủ  yếu ở Bắc Bộ gồm các kiểu sau: Quarzit trong đá biến chất Neoproterozoi­Paleozoi hạ: Quarzit loại này nằm xen trong đá  phiến thạch anh­mica, tạo thành các tập dày vài chục mét, dài vài trăm mét đến một vài kilomet; chất  lượng cao, đạt tiêu chuẩn làm gạch chịu lửa cho ngành luyện kim. Các tụ khoáng có quy mô khá lớn. ­ Tụ khoáng quarzit Đồn Vàng thuộc huyện Thanh Sơn (Phú Thọ), phân bố ở phần trên của  loạt Sông Chảy (PR3­ε1 sc) , gồm 3 vỉa nằm  trong đá phiến thạch anh­mica, dài 500­1200 m, dày 22­ 40 m. Phần trên mặt của quarzit bị  phong hoá thành cát. Thành phần hoá học (%): SiO 2=77,8­97;  Al2O3=1­6,7; Fe2O3=0,2­0,3; CaO=0,02­0,03. Độ  chịu lửa xấp xỉ  1730°C. Trữ  lượng đã tính cấp   111+121+333 khoảng 560 triệu tấn. Cát kết dạng quarzit trong đá biến chất Paleozoi hạ­trung : Các tụ khoáng quarzit đã được  phát hiện ở Đông Bắc Bộ (trong các hệ tầng Mỏ Đồng, Thần Sa, Pia Phương, Đại Thị và Mia Lé);   Tây Bắc Bộ (hệ tầng Bến Khế) và Bắc Trung Bộ (hệ tầng Sông Cả). ­ Tụ  khoáng quarzit Đại Thị  phân bố  huyện Chiêm Hoá (Tuyên Quang) trong trầm tích  Đevon hạ­trung. Quarzit màu xám đen, dạng vỉa, xen các lớp mỏng đá phiến sericit, cát kết vôi, dày   250 m, rộng 500 m, dài 10 km. Thành phần hoá học (%): SiO2=77­97; Al2O3=1­7; Fe2O3=0,2­0,3;  CaO=0,2­0,3. Tài nguyên dự báo: 540 triệu tấn. 5. Magnesit Khoáng sản magnesit đã được phát hiện  ở  Bản Phúng, Tây Bắc Bộ  và gần đây với tài  nguyên và trữ lượng lớn ở Nam Trung Bộ.
  11. Magnesit có nguồn gốc biến chất trao đổi. Tụ  khoáng magnesit Kong Queng thuộc xã Xa   S'Rô, huyện Kông Chrô (Gia Lai). Đã tính các tài nguyên dự báo cấp 333, 334a quặng magnesit ở 2  thân quặng (MgO=42­43 %). Thân quặng số 1 tính được là hơn 9,1 triệu tấn, trong đó cấp 333 là  6,1 triệu tấn. Tài nguyên dự  báo cấp 334a quặng magnesit (MgO=42,94 %) của thân quặng số  2   tính được là 5,6 triệu tấn. Tổng trữ  lượng và tài nguyên dự  báo cấp 333, 334a quặng magnesit vùng nghiên cứu là   gần 15 triệu tấn, trong đó trữ lượng cấp 333 là 6,1 triệu tấn.  6. Kaolin Kaolin phân bố  tập trung chủ  yếu  ở các khu vực Tây Bắc Bộ  (Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Lào   Cai; ít hơn có ở Yên Bái, Sơn La, Lai Châu, Hà Tây); Đông Bắc Bộ (Thái Nguyên, Hà Giang, Tuyên  Quang); Bắc Trung Bộ (Quảng Bình, Thừa Thiên Huế, Thanh Hóa; một ít  ở  Hà Tĩnh, Nghệ  An);   Trung Trung Bộ (Bình Định, Quảng Ngãi, Quảng Nam, Khánh Hòa); Tây Nguyên (Lâm Đồng, Đắc   Lắc, Gia Lai); Nam Bộ  (Bình Dương, Tây Ninh, Tp. Hồ  Chí Minh, Bình Phước, Kiên Giang, An   Giang). Đã phát hiện, tìm kiếm và thăm dò 217 tụ khoáng với trữ lượng 111+121+122+333 khoảng   267 triệu tấn [Nguyễn Thế Trung, Nguyễn Văn Quý và nnk, 2002]. Kaolin được thành tạo với các  nguồn gốc khác nhau. Kaolin nguồn gốc phong hoá gồm các kiểu: ­ Phong hóa từ mạch pegmatit: tập trung phổ biến  ở các vùng Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Tuyên   Quang; ít hơn có  ở  Tây Nguyên. Các thân kaolin rất đa dạng, chất lượng cao. Đây là một trong  những kiểu tụ khoáng có triển vọng và phổ biến nhất ở vùng Tây Bắc Bộ. Trữ lượng của  kiểu tụ  khoáng này đã tính được là  34 triệu tấn [Nguyễn Thế Trung, Nguyễn Văn Quý và nnk, 2002]. ­ Phong hóa từ đá granit và từ gabbroiđ: phát triển phổ biến ở các miền Trung Trung Bộ,   Tây Nguyên, Tây Bắc Bộ. Thân kaolin nằm gần ngang, chiều dày phụ thuộc vào địa hình và mức  độ phong hóa. Chất lượng kaolin trung bình. Trữ lượng của kiểu tụ khoáng này đã tính được là 12  triệu tấn [Nguyễn Thế Trung, Nguyễn Văn Quý và nnk, 2002]. ­ Phong hóa từ  đá phun trào: rất phổ  biến  ở  các vùng có đá phun trào như  Quảng Ninh,  Sơn La, Tuyên Quang, Thanh Hóa, Nghệ  An, Trung Trung Bộ, Kiên Giang v.v….Đặc điểm thân  kaolin giống như kiểu phong hóa từ granit. Đây là kiểu tụ khoáng có giá trị lớn. Trữ lượng đã tính  được là 52 triệu tấn [Nguyễn Thế Trung, Nguyễn Văn Quý và nnk, 2002].  ­ Phong hóa từ đá trầm tích: gặp ở các tụ khoáng Bắc Lý, Nam Lý (Quảng Bình) và có thể  có  ở  một số  tụ  khoáng khác  ở  Phú Thọ, Bình Dương. Các thân kaolin có dạng nằm ngang hoặc   gần nằm ngang, chiều dày lớn nhưng chất lượng kaolin  ở  mức trung bình. Tụ  khoáng chỉ  gặp   trong trầm tích Neogen. Tổng trữ  lượng của kiểu tụ  khoáng này đã tính được là 25 triệu tấn  [Nguyễn Thế Trung, Nguyễn Văn Quý và nnk, 2002]. Kaolin nguồn gốc tái trầm tích, gồm có các loại: ­ Trong các thung lũng giữa núi: Kiểu tụ khoáng này khá phổ biến ở Đông Bắc Bộ và Tây  Bắc Bộ, và lẻ tẻ ở các nơi khác. Các thân kaolin có quy mô nhỏ, chất lượng rất khác nhau.  ­ Trong trầm tích Đệ  tứ: thuộc các hệ  tầng có quy mô phân bố  lớn như  các hệ  tầng Củ  Chi, Thủ Đức. Đây là kiểu tụ khoáng có quy mô lớn và rất phổ biến ở Nam Bộ, đặc biệt là vùng   Bình Dương, Tây Ninh, Tp Hồ  Chí Minh; trữ  lượng của chúng chiếm hơn 1/3 tổng trữ  lượng   kaolin toàn quốc. Đặc điểm nổi bật của các thân kaolin nhóm tụ  khoáng này là chiều  dày và chất  lượng ổn định, độ thu hồi thường rất cao. Chất lượng kaolin từ trung bình đến tốt.  Trữ lượng các tụ khoáng trầm tích đã thăm dò là 131 triệu tấn [Nguyễn Thế Trung, Nguyễn   Văn Quý và nnk, 2002]. Đây là kiểu tụ khoáng kaolin có trữ lượng lớn và quan trọng nhất ở Việt Nam. 7. Pyrophyllit
  12. Cho đến nay đã phát hiện trên 10  tụ khoáng pyrophyllit, tập trung chủ yếu   ở  Quảng Ninh, rải  rác  ở  Tú  Lệ  và  Hà  Tĩnh. Trữ lượng đã tính được là 69 triệu  tấn   [Nguyễn   Thế   Trung,   Nguyễn   Văn  Quý và nnk, 2002]. Pyrophyllit  thành tạo  do các đá ryolit, ryolit porphyr và felsit bị  biến chất trao đổi nhiệt dịch. Mỏ pyrophyllit Tấn Mài (ảnh 3.19)  thuộc   xã   Quang̉   Đưc, ́   huyện   Hải   Hà  (Quảng Ninh). Pyrophyllit được tao thanh ̣ ̀   ̀ ́ ửa hê tâng trong cac đá trâm tich­nguôn nui l ́ ̀ ́ ̣ ̀   Khôn Làng va đa phun trao axit ph ̀ ́ ̀ ưc hê ́ ̣  Ảnh 3.15. Thân quặng 2 Péc Se Lẻng mỏ kaolin pyrophyllit Tấn ̀ ́ ̣ Binh Liêu. Co 6 thân quăng, trong đó 4 thân   Mài, Quảng Ninh đang được khai thác. Ảnh: Nguyễn Văn Quý, 2001. quặng đầu có chiều dài 500­1300 m, bề  rộng 10­110 m, chứa các khoáng vật chính là pyrophyllit, kaolinit, với các hàm lượng (%): Al2O3 = 17­ 20,5; Fe2O3 = 0,57­2,5; SiO2 = 70,3; còn 2 thân quặng 5 và 6 có quy mô nhỏ, chất lượng thấp. Trữ lượng câp 112+122+333 c ́ ủa mỏ  Tấn Mài là 68,928 triệu tấn [Nguyễn Thế  Trung,   Nguyễn Văn Quý và nnk, 2002], thuộc loại mo l ̉ ơn.  ́ 8. Cát thuỷ tinh Cát thuỷ tinh phân bố chủ yếu dọc bờ biển Trung Bộ. Cho đến nay đã ghi nhận được 49  tụ khoáng cát thuỷ tinh. Trữ lượng các cấp 111+121+1221+333 đã tính đạt  gần 1,3 triệu tấn. Có 3  kiểu nguồn gốc được xác định: Cát trầm tích biển­gió Holocen trung­thượng: phân bố  dọc bờ biển và hải đảo, chiếm chủ  yếu số lượng các tụ khoáng (40 tụ khoáng). Điển hình là các tụ khoáng sau: ­ Tụ khoáng Thuỷ Triều thuộc huyện Cam Ranh (Khánh Hoà). Lớp cát thuỷ tinh phân bố ở  phần trung tâm, dài 4,5 km, rộng 20­25 m, chiều dày thay đổi từ 2 đến 21,5 m. Thành phần khoáng   vật chủ  yếu là thạch anh và ít ilmenit, rutil, monazit, tourmalin. Thành phần hoá học (%): SiO 2  =  98,23; Fe2O3 = 0,07; CaO = 0,2­0,3; độ hạt 0,8 mm chiếm 8,61 %; 0,8­0,5mm – 13,83 %; 0,5­0,1 mm   – 67 %; 0,1 mm – 10,50 %. Trữ lượng các cấp 111+121+122+333  đã  tính đạt 34 triệu tấn. ­ Tụ khoáng Nam Ô nằm dọc bờ biển phía bắc Tp Đà Nẵng trên diện tích khoảng 12 km 2 gồm  2 lớp cát trắng, dày từ 2 đến 15 m. Thành phần hóa học của cát (%): SiO 2 = 98,06; Fe2O3 = 0,08; TiO2 =  0,04. Mỏ đã được thăm dò và đang khai thác, có tổng trữ lượng 6,4 triệu tấn [Lê Đức Cường và nnk.,   1981].  Cát trầm tích deluvi­proluvi: quy mô nhỏ (tụ khoáng Thôn Bùng, tỉnh Bắc Ninh).  Cát trầm tích bãi bồi sông: quy mô nhỏ, chất lượng kém (điểm Thành Mỹ, tỉnh Ninh Bình). 9. Diatomit Diatomit tập trung chủ yếu  ở các miền Trung Bộ và Tây Nguyên. Đã ghi nhận được 11 tụ  khoáng và điểm diatomit, trong đó 5 tụ  khoáng đã được điều tra, thăm dò, tính trữ  lượng cấp C 1,  (C2) đạt 122 triệu m3; tài nguyên dự báo khoáng 49 triệu m3. Tụ khoáng diatomit Hoà Lộc thuộc huyện Tuy An (Phú Yên) có 3 thân quặng công nghiệp  nằm xen trong basalt Neogen hệ tầng Di Linh, từ dưới lên gồm: Thân 1: dài 5,5 km; dày 4,3­23,4 m, trung bình 14,63 m. Diatomit phân lớp, màu xám trắng,  xám phớt vàng, xốp nhẹ, hút nước; trong diatomit, xác tảo chiếm 42­50 %, dạng bột, hình trụ, kích  thước 0,01­0,001 mm; dạng opal­hình cầu chiếm 18­20%, kích thước 0,02­0,07 mm. Khoáng vật   sét chiếm 20­27 %; lỗ rỗng: 30 %.
  13. Thân 2: diatomit phân lớp dày đến trung bình, màu trắng xám phớt vàng, chứa di tích thực   vật bảo tồn xấu. Xác tảo chiếm 40­43 %, kích thước 0,01­1 mm; dạng opal­hình cầu, kích thước  0,01­0,001 mm; thạch anh tự do lấp đầy khoang trống xác tảo; sét: 25­30 %; lỗ rỗng: 30 %. Thân 3: diatomit dạng phân lớp dày, chiều dày lớp 21,24 m, xen lớp mỏng sét màu xám   trắng,   xám   phớt   vàng.   Thành   phần   quặng:   xác   tảo=55­59   %;   opal=22­25   %;   sét=12­14   %;   lỗ  rỗng=10 %. Thành   phần   hoá   học   của   diatomit   (%):   SiO2=65,31;   Al2O3=16,66;   FeO=4,47;   CaO=0,3;  MgO=0,71;   MKN=9,36.   Khoáng  vật   sét   trong  diatomit   là   kaolinit.   Thể   trọng  trung  bình:   1,087  tấn/m3; sấy ở nhiệt độ 105°C là 0,730 g/cm3. Trữ lượng các cấp 122+333 là 93 triệu m3; tài nguyên dự báo 334a: khoảng 30 triệu m3. Các đá bazan của hệ  tầng Đại Nga bị  phong  Diatomeae dạng  ống dài, đốt cắt ngang thân  hóa mạnh màu đen nằm phủ  lên đá diatomit  dạng hình tròn. Nicon (­) x50. Nguồn: Cao Thị  màu xám   nâu.  Nguồn: Nguyễn  Đức Chính,  Thúy Bình, 2009.Mỏ Hòa Lộc. 2009. Mỏ Hòa Lộc.  10. Disthen, sillimanit Disthen có trong các đá biến chất cao lộ ra ở hai bên sông Hồng, vùng hạ lưu sông Chảy,  trong  đó có các tụ khoáng La Phù, thuộc huyện Thanh Thủy và Sơn Vi thuộc huyện Lâm Thao (Phú Thọ). ­ Tụ khoáng Sơn Vi phân bố trong thềm cổ và deluvi có bề  dày 1­5 m, hàm lượng disthen   (kyanit): 20­130 kg/m3. Thành phần hóa học của quặng (%): Al2O3=37­38; Fe2O3=11,38; SiO2=40,6.  Tổng tài nguyên cấp 333+334a disthen khoảng 80 ngàn tấn [Trần Văn Trị và nnk., 2000]. Sillimanit có trong các đá biến chất ở các vùng Lào Cai, Yên Bái, Phú Thọ, Quảng Nam và   Quảng Ngãi. Đã ghi nhận được 4 điểm khoáng sillimanit. ­ Tụ khoáng sillimanit Hưng Nhượng thuộc xã Tịnh Đông, huyện  Sơn Tịnh (Quảng Ngãi)   có 4 thân quặng sillimanit 6, 9, 20, 30 đi cùng với graphit trong đá biến chất hệ  tầng Khâm Đức.   Các thân quặng có dạng thấu kính, dài 85­200 m, dày 1,15­2,8 m. Thành phần khoáng vật (%):  thạch   anh=15­40;   biotit=15­60;   felspat=5­8;   fibrolit=0­2;   sillimanit=5­10.   Hàm   lượng   trung   bình  (%): Al2O3=27­29; Fe2O3=1,03­3,38. Tài nguyên đã tính cấp 333 đạt 30.500 tấn; cấp 334a – 75 ngàn  tấn. 11. Vermiculit Vermiculit   thứ   sinh   hình   thành   do   sự   biến   đổi   của   các   khoáng   vật   nhóm   mica   như  phlogopit, biotit. Đến nay mới chỉ ghi nhận được 5 điểm khoáng vermiculit phân bố ở   Thanh Sơn,  Phong Châu (Phú Thọ), bản Phúc (Sơn La), Phong Thổ (Lai Châu) và Bảo Hà (Lào Cai).
  14. Thân khoáng dạng mạch nhỏ, mạng mạch,  ổ, bướu phức tạp. Vermiculit  ở điểm khoáng  Núi Sõng thuộc huyện Phong Châu (Phú Thọ) tạo thành mạch, chùm mạch phức tạp dày từ  vài  đến vài chục centimét. Đới chứa quặng dày từ  vài đến 50 m; dài vài chục đến vài trăm mét.   Khoáng vật quặng chủ  yếu là vermiculit, vermiculit­illit­biotit. Kích thước vảy 1­ 27 mm.  Hàm  lượng vermiculit: 7­12%. Hệ số trương nở: 3­20 lần. Tài nguyên dự báo (333) đạt 29 ngàn tấn. Mẫu 1082b/14 ­ Đèo A  (vermiculit kiểu mỏ  Mẫu 1082b/14 ­ Đèo A   (vermiculit kiểu mỏ  PH2) Chưa nung. Ảnh Trần Ngọc Thái. PH2) Nung 9000C, hệ  số nở 13 lần. Ảnh Trần  Ngọc Thái. Mẫu 68/10 ­ Hoà Cuông  (vermiculit kiểu mỏ  Mẫu 68/10 ­ Hoà Cuông  (vermiculit kiểu mỏ  PH2)­Vermiculit chưa nung.  Ảnh Trần ngọc   PH2)1 ­ Chưa nung; 2 ­ Nung 850 0C, hệ số nở  Thái  12 lần. Ảnh Trần ngọc Thái.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2