intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Nhu cầu vitamin C và vitamin E ở một số loài cá nuôi

Chia sẻ: Thi Thi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

48
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Vitamin là những phân tử hữu cơ cần thiết ở lượng rất nhỏ cho quá trình sinh trưởng, phát triển, sinh sản và duy trì các hoạt động của các loài động vật. Cơ thể của các loài cá không tự tổng hợp được các loại vitamin hoặc có thể chỉ tổng hợp được với số lượng rất ít không đủ để cung cấp cho các hoạt động sinh trưởng, phát triển và duy trì các hoạt động thông thường, do vậy chúng cần được bổ sung thêm các loại vitamin vào trong khẩu phần thức ăn.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Nhu cầu vitamin C và vitamin E ở một số loài cá nuôi

Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br /> <br /> Số 4/2013<br /> <br /> VAÁN ÑEÀ TRAO ÑOÅI<br /> <br /> NHU CẦU VITAMIN C VÀ VITAMIN E Ở MỘT SỐ LOÀI CÁ NUÔI<br /> VITAMIN C AND VITAMIN E REQUIREMENTS OF FARMED FISHES<br /> Phạm Thị Anh1<br /> Ngày nhận bài: 15/10/2012; Ngày phản biện thông qua: 27/5/2013; Ngày duyệt đăng: 10/12/2013<br /> TÓM TẮT<br /> Vitamin là những phân tử hữu cơ cần thiết ở lượng rất nhỏ cho quá trình sinh trưởng, phát triển, sinh sản và duy trì<br /> các hoạt động của các loài động vật. Cơ thể của các loài cá không tự tổng hợp được các loại vitamin hoặc có thể chỉ tổng<br /> hợp được với số lượng rất ít không đủ để cung cấp cho các hoạt động sinh trưởng, phát triển và duy trì các hoạt động thông<br /> thường, do vậy chúng cần được bổ sung thêm các loại vitamin vào trong khẩu phần thức ăn. Đại đa số các loài cá có nhu<br /> cầu khác nhau đối với từng loại vitamin, điều này phụ thuộc vào loài, kích cỡ của cá, khẩu phẩn thức ăn, các yếu tố môi<br /> trường, mối tương quan giữa các yếu tố dinh dưỡng hoặc sức khỏe của cá. Các loại vitamin thiết yếu tham gia trong quá<br /> trình chuyển hóa hay các phản ứng coenzime thì thường được bổ sung vào trong khẩu phần thức ăn. Vitamin C và vitamin<br /> E được xem là các chất chống oxi hóa hữu hiệu và chúng cũng có tác dụng là giảm stress cho các loài cá. Vitamin C rất cần<br /> thiết cho nhiều quá trình chuyển hóa như tổng hợp collagen (làm lành vết thương), bảo vệ các màng tế bào, tăng cường khả<br /> năng hấp thu các kim loại và giải độc cho cơ thể. Thêm vào đó việc bổ sung vitamin C sẽ làm gia tăng tốc độ tăng trưởng,<br /> ngăn ngừa việc vẹo xương sống và các mô sụn, giảm tỷ lệ chết ở cá, tăng khả năng sinh sản ở các con cá cái.<br /> Từ khóa: vitamin E, vitamin C, vitamin E và C trên cá<br /> <br /> ABSTRACT<br /> Vitamins are organic substance that are essential for growth, health, reproduction and maintenance in animal, but<br /> required in small amount. Since fish can not synthesize vitamins at all or can only synthesize in insufficient quantity for<br /> normal development, growth and maintenance, they must be supplied in the diet. Most fish species require vitamin<br /> supplementation which varies according to species, fish size, food rates, environmental factors, nutrient interrelationships<br /> or health condition. Essential vitamins in some metabolic and corporal enzymatic reactions are commonly supplemented<br /> in the diet. Vitamins E and C are considered as antioxidants owing to their ability to reduce the stress in fish. Vitamin C<br /> is essential in many metabolic processes including collagen synthesis (tissue repair), protection of cell membranes, metal<br /> absorption and detoxification of xenobiotics. In addition, supplied vitamin C to increase growth rate, prevent from the<br /> deformation of skeletal and cartilaginous tissues, reduced mortality rate and increased fertility of females.<br /> Keywords: Vitamin E, vitamin C, vitamin E and C, fish and vitamin<br /> <br /> I. MỞ ĐẦU<br /> Trong những nghiên cứu về nhu cầu dinh<br /> dưỡng và thức ăn cho nuôi trồng thủy sản, vitamin<br /> đã được đánh giá là cần thiết cho quá trình sinh<br /> trưởng, phát triển, sinh sản cũng như duy trì các<br /> hoạt động sống của các loài thủy sản. Có nhiều loại<br /> vitamin và chúng khác nhau về bản chất hoá học lẫn<br /> tác dụng sinh lý. Cũng như con người, cá cần được<br /> cung cấp đầy đủ lượng vitamin cần thiết để có thể<br /> <br /> 1<br /> <br /> phát triển khỏe mạnh. Vitamin là các hợp chất hữu<br /> cơ, tuy không có giá trị về mặt cung cấp năng lượng<br /> nhưng có vai trò quan trọng và ảnh hưởng rất lớn<br /> đến biến dưỡng chất đạm, chất béo, chất bột, chất<br /> đường, xơ và muối khoáng trong đời sống của cá.<br /> Vitamin và amino acid được sử dụng trong thức<br /> ăn cho cá với số lượng rất nhỏ, chi phí rất ít so với<br /> thức ăn, nhưng không thể thiếu trong thành phần<br /> thức ăn của các loài cá. Cá thiếu một số amino acid<br /> <br /> ThS. Phạm Thị Anh: Viện Nuôi trồng thủy sản - Trường Đại học Nha Trang<br /> <br /> 186 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG<br /> <br /> Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br /> và vitamin sẽ biểu hiện các dấu hiệu như kém ăn,<br /> chậm lớn, dễ bị nhiễm bệnh, vết thương lâu lành<br /> và tỷ lệ nhiễm trùng, tỷ lệ chết cao... Đặc biệt trong<br /> ngành công nghiệp nuôi cá hiện nay, sản lượng trên<br /> một đơn vị diện tích nuôi rất lớn thì việc quản lý sức<br /> khỏe đàn cá càng trở lên cấp thiết khi ngày càng<br /> xuất hiện nhiều loại bệnh. Việc bổ sung các loại<br /> vitamin thiết yếu vào thức ăn để tăng cường sức<br /> khỏe và tăng cường hệ thống miễn dịch cho cá là rất<br /> cần thiết. Vitamin E và vitamin C là hai loại vitamin<br /> thiết yếu cho sinh trưởng, phát triển và sinh sản của<br /> chúng, việc cung cấp đầy đủ vitamin C và vitamin E<br /> sẽ giúp cá nâng cao sức đề kháng, nhanh lành vết<br /> thương, giảm stress và có khả năng chống chịu với<br /> nhiều loại bệnh tật, tăng cường khả năng sinh sản,<br /> giảm thiểu một số bệnh thần kinh ở cá, tăng cường<br /> khả năng hấp thu thức ăn…[23].<br /> II. NỘI DUNG<br /> 1. Vitamin C và nhu cầu vitamin C của cá<br /> Vitamin C thuộc nhóm vitamin tan trong nước,<br /> không bền với nhiệt trong khi thức ăn chế biến cho<br /> thủy sản thường phải thông qua quá trình gia nhiệt<br /> và cho ăn trong môi trường nước, chức năng chính<br /> của nhóm này là coenzyme trong quá trình trao đổi<br /> chất của tế bào. Trong những nghiên cứu về thức<br /> ăn cho nuôi trồng thủy sản, vitamin C được nghiên<br /> cứu và xác định là thành phần rất quan trọng cho<br /> động vật thủy sinh bởi vì trong khi các động vật khác<br /> có khả năng tổng hợp vitamin C từ glucuronic acid<br /> thì cá và giáp xác lại thiếu enzyme gulonolactone<br /> oxidase cần thiết cho bước cuối cùng của quá trình<br /> tổng hợp, chính vì thế mà vitamin C của động vật<br /> thủy sinh được hấp thụ chủ yếu từ thức ăn [25].<br /> Thiếu vitamin C trong thức ăn sẽ dẫn tới bệnh<br /> lý như vẹo cột sống ở cá, giảm sức đề kháng, chính<br /> vì thế mà ở giai đoạn ấu trùng và giai đoạn giống<br /> cần bổ sung đầy đủ hàm lượng vitamin C cần thiết<br /> để tăng cường sức đề kháng và tốc độ tăng trưởng<br /> cho vật nuôi. Trong quá trình sản xuất thức ăn cho<br /> động vật thủy sản, thức ăn thường được ép đùn<br /> trong điều kiện độ ẩm và nhiệt độ lên đến 25% và<br /> 1500C. Ngoài ra sau khi ép, thức ăn thường được<br /> sấy ở nhiệt độ 400C khoảng 10-12 giờ, điều này làm<br /> cho lượng vitamin C trong thức ăn bị thất thoát rất<br /> nhiều. Để giảm khả năng hòa tan trong nước của<br /> vitamin C người ta sử dụng ethylcellulose để bao<br /> lấy các hạt vitamin C (vitamin C dạng áo - dạng này<br /> dễ chuyển hóa thành vitamin C tinh cho cá hấp thu<br /> dễ dàng). Ngoài ra người ta có thể sử dụng dầu<br /> để bao lấy hạt vitamin C hoặc một số chất màng<br /> <br /> Số 4/2013<br /> có chứa vitamin C. Lớp dầu sẽ ngăn thấm nước và<br /> hoạt động của oxy trong suốt quá trình chế biến và<br /> bảo quản, trong đó vitamin C dạng áo có hàm lượng<br /> vitamin C hoạt tính cao từ 80-90% và có thể lưu trữ<br /> trong vài tháng mà không bị oxy hóa. Năm 1987,<br /> Soliman và ctv cho biết với L-ascorbyl 2-Sulfat,<br /> sau khi chế biến, hàm lượng vitamin C chỉ mất đi từ<br /> 4-28%, dạng L-ascobyl 2-polyphosphate chỉ mất đi<br /> 5-17% [30]. Gần đây người ta có bổ sung thêm dạng<br /> muối Na hay Mg cùng với sulphate hay phosphate<br /> để tăng độ bền trong nước và chống oxy hóa. Hàm<br /> lượng vitamin C mất đi khoảng 10-20% sau chế biến<br /> và 30% sau bảo quản 20 tháng, tuy nhiên nhiều nghiên<br /> cứu cho thấy vitamin C kết hợp với phosphate<br /> thì cá dễ hấp thu và có tác dụng tốt [1].<br /> Vitamin C có vai trò rất quan trọng trong quá<br /> trình trao đổi chất tạo thành collagen, có nghĩa<br /> là chúng tham gia vào quá trình sinh trưởng và<br /> phát triển. Collagen chứa đựng 12% prolineva,<br /> 9% hydroxyproline, cả hai chất này có nhiệm vụ nối<br /> các phần trong cơ và vitamin C có chức năng trợ<br /> giúp men xúc tác quá trình hydroxyl hóa của proline<br /> và lysine trong tổng hợp collagen. Vì thế khi thiếu<br /> vitamin C, collagen mới được hình thành không<br /> được hydroxyl hóa, không tạo được xoắn 3, độ bền<br /> kém do đó dễ bị thương tổn, thành mạch cương dễ<br /> vỡ gây xuất huyết ở cá [1].<br /> Thức ăn có chứa hàm lượng vitamin C cao<br /> được đề xuất là có lợi ích cho việc giảm sốc cho<br /> cá [19]. Mức độ vitamin C bổ sung vào thức ăn cho<br /> cá thì tùy vào loại vitamin C, loài cá, giai đoạn phát<br /> triển, kích cỡ và tuổi của chúng. Nhu cầu tối đa<br /> của vitamin C tốt cho sự tăng trưởng và phát triển<br /> của đại đa số các loài cá dao động trong khoảng<br /> 10-122mg/kg. Phần lớn là trong phạm vi từ<br /> 10-50mg/kg thức ăn là mức thích hợp cho sự tăng<br /> trường và phát triển bình thường của xương, nhưng<br /> mức 400mg/kg cũng được xem là nhu cầu tối đa<br /> giúp lành vết thương của cá hồi bạc Oncorhynchus<br /> kitsch [16].<br /> Năm 1978, Lim và Lovell khi nghiên cứu nhu<br /> cầu của cá nheo đối với vitamin C đã kết luận rằng:<br /> với khẩu phần thức ăn chứa 30mg vitamin C/kg<br /> là hàm lượng đầy đủ và có lợi cho cơ thể và sự<br /> tạo xương, với 60mg vitamin C/kg thức ăn được<br /> xem là nhu cầu ngăn ngừa sự thiếu hụt vitamin C<br /> và chữa lành vết thương [23]. Cá nheo 2-7g, nhu<br /> cầu tối đa có lợi cho cơ thể là 50mg vitamin C/kg<br /> thức ăn, trong khi đó đối với cá có khối lượng từ 14<br /> đến 100g, nhu cầu 25mg vitamin C/kg là đủ [5]. Li<br /> và Lovell (1985) cũng chứng minh rằng ở cá nheo,<br /> nhu cầu vitamin C trong khẩu phần ăn sẽ giảm khi<br /> <br /> TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 187<br /> <br /> Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br /> <br /> Số 4/2013<br /> <br /> đã phát hiện bệnh xuất huyết vây và mắt cá trắm cỏ<br /> kích cỡ cá tăng. Nhu cầu của cá có khối lượng 10do thiếu vitamin C. Gần đây Isti Koesharyani và CTV<br /> 150g là 30mg/kg, trong khi cá 3-19g là 60mg/kg. Đối<br /> (2001) đã phát hiện bệnh thiếu vitamin C ở loài cá<br /> với cá basa việc bổ sung vitamin C vào thức ăn sẽ<br /> mú chuột (Cromileptes altivelis) nuôi ở Indonesia,<br /> nâng cao sức đề kháng cho cá nuôi, mức sử dụng<br /> sau một thời gian cho ăn thức ăn tổng hợp không có<br /> để bổ sung từ 0,2-0,5%. Thức ăn tự nhiên như phibổ sung vitamin C, cá bị bệnh có sự biến dạng của cột<br /> êu sinh động vật và thực vật rất giàu vitamin C [23].<br /> sống làm cá có dấu hiệu ưỡn lưng, bụng cá hóp lại,<br /> Khi cá nuôi bị thiếu vitamin C thường thể hiện<br /> bệnh này có thể gây chết rải rác [10], [8], [24], [22].<br /> một số dấu hiệu như: các dạng dị tật xương sống,<br /> Đối với các loài cá nuôi, nhu cầu vitamin cũng<br /> tật ưỡn lưng và hiện tượng xuất huyết ở gốc vây, ở<br /> khác nhau tùy theo loài: cá rô phi xanh (Tilapia<br /> xung quang miệng và mắt của cá, màu sắc cơ thể<br /> aurea) cần 50mg loại có vỏ bao/kg thức ăn; cá<br /> chuyển sang màu đen tối. Cá bị bệnh cũng giảm<br /> chép (Cyprinus capio) cần 45 mg loại có vỏ bao/kg<br /> sinh trưởng và khả năng chống chịu sốc và sự xâm<br /> thức ăn; cá rô phi lai (Tilapia nilotica) cần 79 mg<br /> nhập của tác nhân gây bệnh. Trên cá nuôi, đã có<br /> loại Ascorbyl Monophosphate/kg thức ăn. Nhu cầu<br /> rất nhiều các thông báo khác nhau về bệnh thiếu<br /> vitamin C ở cá chẽm là 700mg/kg thức ăn khô,<br /> vitamin ở cá: Dabrowksi và ctv (1988) đã phát hiện<br /> cá thơm cần 300mg/kg, cá nheo cần 60mg/kg và<br /> bệnh ưỡn lưng của cá chép (Cyprinus carpio);<br /> cá trống cần 60-75mg/kg, cá cam mức đòi hỏi là<br /> Coustans và CTV (1990) đã phát hiện bệnh ưỡn<br /> 122mg/kg thức ăn khô [3].<br /> lưng ở cá bơn (Scophthalmus maxinnus); Lin (1991)<br /> Bảng 1. Nhu cầu vitamin C của một số loài cá<br /> Loài<br /> <br /> Nhu cầu (mg/kg)<br /> <br /> Tác giả<br /> <br /> Cá trê Phi (Clarias gariepinus)<br /> <br /> 45<br /> <br /> Eya (1996)<br /> <br /> Cá trê trắng (Clarias batrachus)<br /> <br /> 69<br /> <br /> Misfra và ctv (1996)<br /> <br /> Cá chẽm (Scophthalmus maximus)<br /> <br /> 20<br /> <br /> Merchie và ctv (1996)<br /> <br /> Cá chép (Cyprinus carpio)<br /> <br /> 45<br /> <br /> Gouillou-Coustans (1998)<br /> <br /> Cá bơn Nhật Bản (Paralichthys alivaceus)<br /> <br /> 60-100<br /> <br /> Teschima và ctv (1993)<br /> <br /> Cá rô phi lai (Tilapia nilotica ♀ x T.auea ♂)<br /> <br /> 79<br /> <br /> Shiau và Jan (1992)<br /> <br /> 2. Vitamin E và nhu cầu vitamin E của cá<br /> Vitamin E tự nhiên tồn tại dưới 8 dạng khác<br /> nhau bao gồm các tocopherols và các tocotrienols.<br /> Vitamin E có một số dạng khác nhau trong đó dạng<br /> α-tocopherol là dạng có chứa hàm lượng vitamin E<br /> hoạt tính cao nhất. Một trong những hoạt tính sinh<br /> học của vitamin E là ngăn cản quá trình oxy hóa chất<br /> béo cao phân tử không no (HUFA) của lipid trong<br /> màng tế bào sinh học. Vitamin E có vai trò trong<br /> quá trình tổng hợp các hormone sinh dục. Nhu cầu<br /> vitamin E tăng khi hàm lượng PUFA trong thức ăn<br /> cao. Nhu cầu vitamin E ở cá khoảng 30-100 mg/kg<br /> và ở tôm là 100 mg/kg thức ăn.<br /> Dấu hiệu khi thiếu vitamin E ở cá là giảm sinh<br /> trưởng, tỉ lệ chết cao thoái hóa cơ, tích mỡ trong<br /> gan…Đối với cá chép hệ số thành thục cũng được<br /> cải thiện khi thức ăn có bổ sung đầy đủ vitamin E.<br /> Vitamin E rất dễ phân hủy qua quá trình chế biến và<br /> bảo quản, đặc biệt là ở các nước vùng nhiệt đới. Vì<br /> vậy dạng vitamin E thường được sử dụng bổ sung<br /> vào thức ăn cho tôm cá là a - tocophenol acetate.<br /> <br /> 188 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG<br /> <br /> Hàm lượng vitamin E 30mg/kg trong khẩu phần<br /> thức ăn được cho là cần thiết cho quá trình tăng<br /> trưởng và phát triển, đồng thời ngăn chặn được sự<br /> thiếu hụt dinh dưỡng cho cá hồi Bắc Mỹ, cá basa<br /> và cá hồi đốm đen [9], [21], [26]. Watanabe và CTV<br /> (1970) cho rằng mức vitamin E tối ưu đối với cá<br /> chép là 100mg/kg [34].<br /> Một nghiên cứu của Huang và ctv (2004) cho<br /> rằng cá rô phi sẽ tăng trưởng tốt hơn khi được bổ<br /> sung vitamin E vào trong khẩu phần ăn (>80 mg/kg).<br /> Cũng tác giả này khi tiến hành nghiên cứu trên cá<br /> hồi bạc lại có kết quả trái ngược rằng không có sự<br /> khác biệt đáng kể nào về tốc độ tăng trưởng giữa<br /> các lô thí nghiệm. Tuy nhiên hàm lượng vitamin E<br /> trong cơ thịt và trong gan chịu sự tác động từ nguồn<br /> vitamin E bổ sung từ thức ăn. Với các lô thí nghiệm<br /> có bổ sung >50mg/kg thì hàm lượng vitamin E trong<br /> cơ thịt của cá gia tăng đáng kể [20]. Paul và CTV<br /> (2004) nghiên cứu bổ sung vitamin E trên cá mrigal,<br /> kết quả nghiên cứu cho thấy với 99mg/kg thức ăn<br /> khô, cá sẽ đạt tốc độ tăng trưởng cao nhất [28].<br /> <br /> Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br /> Stephan và CTV (1993) khi tiến hành thử<br /> nghiệm bổ sung vitamin E (0, 40 và 300mg/kg) và<br /> dầu cá trong thức ăn cho cá chẽm (có khối lượng<br /> ban đầu là 35g). Kết quả thử nghiệm cho thấy, hàm<br /> lượng vitamin E trong thức ăn không có tác động<br /> có ý nghĩa thống kê đến tốc độ tăng trưởng của cá.<br /> <br /> Số 4/2013<br /> Hàm lượng vitamin E trong gan và cơ cá bị giảm<br /> ở những nghiệm thức thí nghiệm có bổ sung dầu<br /> cá tự nhiên nhưng không bổ sung vitamin E, kết<br /> quả này cũng được ghi nhận trong nghiên cứu của<br /> Stephan và CTV (1995) khi nghiên cứu trên cá bơn<br /> Scophthalmus maximus [31], [32].<br /> <br /> Bảng 2. Nhu cầu vitamin E trên một số loài cá<br /> Loài<br /> <br /> Nhu cầu Vitamin E<br /> (mg/kg thức ăn khô)<br /> <br /> Tác giả<br /> <br /> Cá rô phi (Oreochromis niloticus, Linnaeus, 1758)<br /> <br /> >80<br /> <br /> Huang và ctv (2004)<br /> <br /> Cá mrigal (Cirrhinus mrigala, Hamilton, 1822)<br /> <br /> 99<br /> <br /> Paul & ctv (2004)<br /> <br /> Cá chép (Cyprinus carpio, Linnaeus, 1758)<br /> <br /> 100<br /> <br /> Halver J.E (1989)<br /> <br /> Cá hồi Đại Tây Dương (Salmo salar Linnaeus, 1758)<br /> <br /> 35<br /> <br /> Halver J.E (1989)<br /> <br /> Cá nheo (Parasilurus asotus L, Linnaeus, 1758)<br /> <br /> 50<br /> <br /> Halver J.E (1989)<br /> <br /> Cá chình (Anguilla marmorata Quoy et Gaimrd, 1824)<br /> <br /> 200<br /> <br /> Halver J.E (1989)<br /> <br /> Cá cam (Seriola dumerili Risso, 1810)<br /> <br /> 119<br /> <br /> Halver J.E (1989)<br /> <br /> 3. Mối quan hệ giữa Vitamin E và vitamin C trong<br /> nuôi trồng thủy sản<br /> Vitamin E và vitamin C đóng vai trò rất quan<br /> trọng trong quá trình sinh học của cơ thể như ngăn<br /> ngừa các bệnh về lão hóa, đục nhân thể mắt, xơ<br /> vữa động mạch, bệnh đái tháo đường, suy nhược<br /> thần kinh, ngăn ngừa các bệnh về tim mạch và<br /> ung thư, tuy nhiên vài trò chính của vitamin E và<br /> vitamin C vẫn là chống quá trình oxy hóa [12]. Mối<br /> liên hệ giữa hai loại vitamin này cũng đã được<br /> nghiên cứu trên các loài cá như: cá hồi vân<br /> Oncorhynchus mykiss, cá hồi Đại Tây Dương<br /> Salmo salar và cá tầm Acipenser fulvescens [33],<br /> [18], [27]. Hamre và ctv (1997) chỉ ra rằng khẩu<br /> phần thức ăn thiếu vitamin C sẽ làm giảm đáng kể<br /> hàm lượng vitamin E có trong gan, đồng thời các<br /> tác giả này cũng cho thấy có sự tương tác lẫn nhau<br /> giữa hai loại vitamin này [18].<br /> Dabrowski và cộng sự (2003) đã nghiên cứu<br /> về ảnh hưởng của vitamin E và vitamin C (có bổ<br /> sung cả hai loại vitamin: +E +C; chỉ bổ sung vitamin<br /> E: +E-C; chỉ bổ sung vitamin C: -E+C và không bổ<br /> sung cả hai loại vitamin C và E: –E-C) đến tốc độ<br /> tăng trưởng, thành phần lipid và triệu chứng bệnh<br /> lý của cá vược vàng (Perca flavenscens). Kết quả<br /> cho thấy lô thí nghiệm có bổ sung +C+E cá có tốc<br /> độ tăng trưởng cao nhất, lượng thức ăn sử dụng<br /> và hiệu suất thức ăn cao hơn so với những nghiệm<br /> thức thức ăn không bổ sung vitamin C. Hàm lượng<br /> vitamin C trong cơ thể cá cao hơn ở những lô thí<br /> nghiệm có bổ sung hàm lượng vitamin C so với<br /> các lô thí nghiệm không bổ sung hoặc bổ sung ít.<br /> <br /> Hàm lượng vitamin E có sự gia tăng ở những lô<br /> thí nghiệm có bổ sung vitamin C cao và thấp ở lô<br /> không bổ sung hoặc bổ sung ít vitamin C, điều này<br /> cho thấy sự tác động của vitamin C tới hàm lượng<br /> vitamin E trong thức ăn. Những nghiệm thức không<br /> bổ sung vitamin C (-C-E; -C+E) thì cá thường mắc<br /> nhiều bệnh khác nhau như: chứng vẹo xương sống,<br /> bệnh đục nhân mắt, chứng chán ăn và xuất huyết.<br /> Số lượng cá chết tích lũy trong lô thí nghiệm –C-E<br /> là cao nhất [11].<br /> Năm 2008, Aksoy A.Y và ctv đã kết luận rằng<br /> vitamin E và vitamin C đều có tác động rõ rệt lên tốc<br /> độ tăng trưởng, hiệu quả sử dụng thức ăn và tỷ lệ<br /> sống của ấu trùng cá basa. Tuy nhiên sự tương tác<br /> qua lại giữa hai loại vitamin này không có ý nghĩa<br /> đối với tốc độ tăng trưởng, tỷ lệ sống cũng như hiệu<br /> quả sử dụng thức ăn của ấu trùng cá basa [1].<br /> Sealey (1994) khi nghiên cứu trên cá vược sọc<br /> lai kết luận rằng với việc bổ sung các mức vitamin<br /> C tối thiểu 25 mg/kg có thể cải thiện lượng thức<br /> ăn tiêu thụ và đồng thời làm gia tăng tốc độ tăng<br /> trưởng cũng như làm giảm tỷ lệ chết đối với những<br /> lô thí nghiệm không được bổ sung vitamin E. Đồng<br /> thời với mức 30mg/kg vitamin E trong khẩu phần<br /> thức ăn có thể làm giảm tỷ lệ chết đối với những lô<br /> thí nghiệm không bổ sung vitamin C. Đối với mức<br /> 300mg vitamin E/kg thức ăn là mức cần thiết để gia<br /> tăng tốc độ tăng trưởng ở những nghiệm thức không<br /> bổ sung vitamin C, tuy nhiên ở mức này không thể<br /> cải thiện được lượng thức ăn tiêu thụ [29].<br /> Gatlin và ctv (1986) khi nghiên cứu trên cá trê<br /> sông đã khẳng định rằng, thức ăn không bổ sung<br /> <br /> TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 189<br /> <br /> Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br /> vitamin C thì cá chậm lớn, khối lượng cá có thể bị<br /> giảm sút đồng thời lượng thức ăn tiêu thụ cũng ít đi<br /> bất chấp việc có bổ sung vitamin E hay không. Đối<br /> với những nghiệm thức có bổ sung vitamin C, không<br /> quan sát thấy sự thiếu hụt đối với vitamin E trên cá<br /> mặc dù không bổ sung vitamin E [14]. Frischknecht<br /> và ctv (1994) đã chứng minh được khả năng của<br /> vitamin C trong thức ăn có thể giúp cá hồi vân<br /> (Oncorhynchus mykiss) tránh được bệnh thiếu máu<br /> cũng như giảm thiểu tỷ lệ chết [13].<br /> Mocia và ctv (1984) khi tiến hành nghiên cứu<br /> trên cá hồi cũng có những kết luận tương tự, vitamin<br /> E và vitamin C có sự liên quan chặt chẽ đến sự gia<br /> tăng về tốc độ tăng trưởng của cá, giảm tỷ lệ chết và<br /> hàm lượng vitamin tổng số của cơ thể [26]. Huang<br /> và ctv (2004) cũng cho rằng hàm lượng vitamin E<br /> tối ưu cho cá rô phi lai tăng trưởng và phát triển<br /> là 62,5mg/kg, tốc độ tăng trưởng của cá có sự sai<br /> khác có ý nghĩa thống kê giữa nghiệm thức không<br /> bổ sung vitamin E và nghiệm thức có bổ sung hàm<br /> lượng vitamin E cao (P
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2