Ngô Ngọc Linh<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
91(03): 171 - 176<br />
<br />
NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM RÚT RA TỪ TÁM THÁNG ĐẤU TRANH<br />
DU KÍCH TRÊN CĂN CỨ ĐỊA BẮC SƠN – VÕ NHAI (7/1941 – 2/1942)<br />
Ngô Ngọc Linh*<br />
Trường Đại học Khoa học – ĐH Thái Nguyên<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Xứ ủy Bắc kỳ, quân và dân Bắc Sơn – Võ Nhai mà<br />
Cứu quốc quân là lực lượng nòng cốt, đã tiến hành Tám tháng đấu tranh du kích chống địch khủng<br />
bố (7/1941-2/1942) hết sức oanh liệt và sôi nổi trên căn cứ địa cách mạng của mình. Những thắng<br />
lợi của cuộc đấu tranh ấy đã để lại cho Đảng ta và cách mạng Việt Nam những bài học kinh<br />
nghiệm có giá trị trên nhiều phương diện. Quân và dân Bắc Sơn – Võ Nhai đã ghi tên mình vào<br />
những trang sử hào hùng của dân tộc Việt Nam.<br />
Từ khóa: Đấu tranh du kích, du kích, căn cứ địa Bắc Sơn – Võ Nhai.<br />
<br />
Cuộc đấu tranh du kích chống địch khủng bố<br />
trên căn cứ địa Bắc Sơn – Võ Nhai (từ tháng<br />
7/1941 đến tháng 2/1942) là một quá trình<br />
chiến đấu vô cùng gian khổ của quân và dân<br />
ta. Dù cho quá trình đấu tranh đó còn một vài<br />
hạn chế do hoàn cảnh lịch sử song đã để lại<br />
cho Đảng ta và cách mạng Việt Nam nhiều<br />
bài học kinh nghiệm vô cùng quí giá, đặc biệt là<br />
về vấn đề đấu tranh vũ trang, khởi nghĩa giành<br />
chính quyền và đặc biệt là về những vấn đề liên<br />
quan của một cuộc chiến tranh du kích.*<br />
Vấn đề “Tám tháng đấu tranh du kích trên<br />
căn cứ địa Bắc Sơn – Võ Nhai” là vấn đề đã<br />
được chúng tôi đề cập đến trong công trình<br />
nghiên cứu đã công bố trên tạp chí Khoa học<br />
và Công nghệ - Đại học Thái Nguyên, tập 79,<br />
số 3, năm 2011. Tuy nhiên, trong phạm vi của<br />
nghiên cứu này, chúng tôi cố gắng đưa ra và<br />
phân tích sâu về sự kiện quan trọng này trên<br />
góc độ những bài học kinh nghiệm mà Tám<br />
tháng đấu tranh du kích chống địch khủng bố<br />
trên căn cứ địa Bắc Sơn – Võ Nhai đã để cho<br />
phong trào cách mạng Việt Bắc nói riêng và<br />
phong trào cách mạng Việt Nam nói chung;<br />
Từ đó, chúng ta có thể có những nhận định<br />
đúng đắn, chính xác về vị trí, vai trò của sự<br />
kiện lịch sử này trong tiến trình cách mạng<br />
Việt Nam.<br />
Quán triệt đường lối chỉ đạo chiến lược<br />
cách mạng của Đảng và những quan điểm<br />
của Hồ Chí Minh về đấu tranh du kích đối<br />
với lực lượng vũ trang cách mạng<br />
*<br />
<br />
Tel: 0983.851.565; Email: ngongoclinhvn@gmail.com<br />
<br />
Ngay từ khi Khởi nghĩa Bắc Sơn bùng nổ đến<br />
Tám tháng đấu tranh du kích chống địch<br />
khủng bố, lực lượng quân du kích luôn nhận<br />
được sự chỉ đạo tích cực, sự hỗ trợ kịp thời<br />
của Trung ương Đảng ta. Ngay trong Khởi<br />
nghĩa Bắc Sơn, Trung ương Đảng, Xứ ủy Bắc<br />
kỳ đã cử ngay cán bộ lên tăng cường cho<br />
quân du kích, cùng với cán bộ, đảng viên tích<br />
cực xây dựng lực lượng du kích Bắc Sơn và<br />
khu du kích Bắc Sơn (hai Ủy viên Xứ ủy Bắc<br />
kỳ là Trần Đăng Ninh và Nguyễn Thành<br />
Diên). Tại đây, các cán bộ Xứ ủy tham gia<br />
trực tiếp lãnh đạo đội phát triển lực lượng du<br />
kích quân, cơ sở cách mạng của quần chúng<br />
và đấu tranh với quân thù. Tuy nhiên, do Cứu<br />
quốc quân còn quá non trẻ và mỏng về lực<br />
lượng, vũ khí thô sơ nên đã bị thực dân Pháp<br />
khủng bố và phải rút vào hoạt động bí mật.<br />
Khi phong trào ở Bắc Sơn đang còn lúng<br />
túng, chưa có hướng đi thì Hội nghị lần thứ<br />
bảy của Trung ương Đảng đã họp và vạch ra<br />
phương hướng tiến lên của phong trào cách<br />
mạng và đội du kích Bắc Sơn. Đồng chí<br />
Hoàng Văn Thụ được Hội nghị phân công<br />
trực tiếp lãnh đạo phong trào Bắc Sơn – Võ<br />
Nhai. Trung ương Đảng còn phát động một<br />
phong trào ủng hộ Bắc Sơn khởi nghĩa trong<br />
toàn quốc và phong trào diễn khá sôi nổi, nhất<br />
là ở các tỉnh lân cận. Sau đó, đồng chí Lương<br />
Văn Chi - Ủy viên Thường vụ Xứ ủy Bắc kỳ<br />
và một số cán bộ ở dưới xuôi lên tăng cường<br />
cho căn cứ Bắc Sơn – Võ Nhai. Nhờ đó, đến<br />
thời điểm đầu năm 1941, khu căn cứ địa Bắc<br />
Sơn – Võ Nhai dần hình thành dưới sự lãnh<br />
đạo trực tiếp của Trung ương Đảng và Xứ ủy<br />
Bắc kỳ.<br />
171<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
Ngô Ngọc Linh<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
Trung ương Đảng không những vạch ra<br />
đường lối, chủ trương, phương châm hoạt<br />
động, hình thức đấu tranh cho quân và dân<br />
Bắc Sơn – Võ Nhai, tăng cường, bổ sung cán<br />
bộ cốt cán cho khu căn cứ, mà còn chăm lo<br />
đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ, xây dựng tổ chức<br />
Đảng trong quân du kích. Các đồng chí lãnh<br />
đạo khu căn cứ, Ban chỉ huy quân du kích đã<br />
mở nhiều lớp huấn luyện chính trị, quân sự<br />
ngắn ngày cho cán bộ, chiến sĩ, đảng viên địa<br />
phương nhằm nâng cao trình độ cho cán bộ và<br />
chiến sĩ du kích. Trên đường đi dự Hội nghị<br />
Trung ương 8, các đồng chí trong Ban chấp<br />
hành Trung ương đã dừng lại nơi đây; sau khi<br />
nghe Ban lãnh đạo khu căn cứ báo cáo tình<br />
hình, Trung ương Đảng đã có chỉ đạo cụ thể<br />
về các mặt hoạt động cho Ban lãnh đạo căn<br />
cứ và đặc biệt là cho Ban chỉ huy Đội du kích<br />
Bắc Sơn. Khi kết thúc Hội nghị, trên đường<br />
về xuôi, mặc dù địch khủng bố dã man, các<br />
đồng chí trong Ban Thường vụ (BTV) Trung<br />
ương vẫn bố trí thời gian ở lại công tác tại địa<br />
phương để chỉ đạo phong trào và mở một số<br />
lớp huấn luyện chính trị cho cán bộ, chiến sĩ<br />
Bắc Sơn – Võ Nhai. Nội dung các lớp này là<br />
học tập Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8,<br />
Chương trình, Điều lệ Việt Minh… Mặt khác,<br />
theo quyết định của Hội nghị Trung ương 8<br />
(5/1941) và thực hiện lời kêu gọi của Hội<br />
nghị cán bộ toàn xứ Bắc kỳ (25/9/1941) “Cơ<br />
hội giải phóng đã tới, các đồng chí phải hoạt<br />
động gấp đôi, gấp ba trước, theo lời hiệu<br />
triệu của Trung ương” [1] nhiều đồng chí cán<br />
bộ của Đảng đã lên tăng cường cho Cứu quốc<br />
quân và khu căn cứ Bắc Sơn – Võ Nhai, trong<br />
đó có đồng chí Phùng Chí Kiên - Ủy viên<br />
Trung ương Đảng; BTV cũng phân công đồng<br />
chí Hoàng Quốc Việt - Ủy viên Thường vụ<br />
Trung ương ở lại chỉ đạo khu căn cứ thêm<br />
một thời gian (khoảng 1 tháng); Như vậy đến<br />
thời điểm này (9/1941), khu căn cứ địa Bắc<br />
Sơn – Võ Nhai đã được đặt dưới sự lãnh đạo<br />
trực tiếp của BTV Trung ương Đảng.<br />
Qua thực tiễn hoạt động về mọi mặt của<br />
mình, Cứu quốc quân đã quán triệt đường lối<br />
chỉ đạo của Trung ương Đảng và tư tưởng của<br />
Hồ Chí Minh về chiến tranh du kích, nghệ<br />
thuật đấu tranh du kích. Nhờ đó khu căn cứ đã<br />
<br />
91(03): 171 - 176<br />
<br />
có nhiều bước trưởng thành vượt bậc, nhất là<br />
trong lực lượng Cứu quốc quân. Ở mỗi tiểu<br />
đội, tổ công tác của Cứu quốc quân đều có chi<br />
bộ, tổ đảng hoặc do các đảng viên lãnh đạo.<br />
Qua học tâp, sinh hoạt, công tác; với tinh thần<br />
dân chủ, đoàn kết, phê bình và tự phê bình<br />
cao, đội ngũ đảng viên được nâng cao trình<br />
độ, luôn giữ vững phẩm chất cách mạng, luôn<br />
hoàn thành tốt những nhiệm vụ được giao.<br />
Nhờ có công tác Đảng và việc quán triệt<br />
đường lối của Đảng mà các đảng viên chiến sĩ<br />
Cứu quốc quân hoàn toàn có đủ trình độ lý<br />
luận chính trị, quân sự để có thể hoạt động<br />
độc lập, tự chủ ở địa phương hay trong hoàn<br />
cảnh bị địch khủng bố ác liệt.<br />
Vấn đề áp dụng chiến thuật du kích trong đấu<br />
tranh chống địch khủng bố là vấn đề đã được<br />
nêu lên trong chủ trương của Đảng và trong<br />
quan điểm quân sự của Nguyễn Ái Quốc – Hồ<br />
Chí Minh. Theo chủ trương, quan điểm đó,<br />
trong chiến đấu chống địch khủng bố, các<br />
chiến sĩ du kích phải quán triệt phương châm<br />
vũ trang công tác, khi cần thì đấu tranh chống<br />
địch khủng bố bằng cách áp dụng nghệ thuật<br />
đánh du kích để chống lại những đội quân<br />
hùng mạnh với vũ khí hiện đại của địch:<br />
“Chiến thuật của các chiến hữu là chiến thuật<br />
du kích, đã có những thể nghiệm, vì đó là<br />
chiến thuật của các du kích Trung Hoa đã<br />
dùng hàng trǎm lần. Các chiến hữu cũng<br />
dùng nó, tấn công các đoàn tàu, làm suy kiệt<br />
lực lượng bọn cướp nước và từng tí từng tí<br />
một phát triển cuộc chiến tranh du kích. Các<br />
bạn nên nhớ rằng những cơn gió nhẹ có thể<br />
trở thành bão tố, những kết quả nhỏ có thể<br />
trở thành thắng lợi to. Hãy tiếp tục thu những<br />
kết quả nhỏ. Khẩu hiệu của các chiến hữu<br />
hiện nay phải là vừa đánh quân thù vừa chiếm<br />
đoạt vũ khí của chúng. Mục đích của các chiến<br />
hữu phải là mục đích của toàn dân” [2].<br />
Từ thực tiễn đấu tranh của quân và dân Bắc<br />
Sơn – Võ Nhai cho thấy chiến thuật du kích<br />
đã được áp dụng triệt để và rất hiệu quả. Bằng<br />
cách đánh du kích như: phục kích, tập kích,<br />
truy kích… Cứu quốc quân đã tiêu diệt được<br />
nhiều sinh lực địch. Có những trận đánh mặc<br />
<br />
172<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
Ngô Ngọc Linh<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
dù lực lượng quân địch nhiều hơn ta rất nhiều<br />
nhưng chúng vẫn thất bại bởi quân ta đã triệt<br />
để áp dụng lối đánh du kích, khiến chúng<br />
không kịp trở tay và phải rút quân. Hay có<br />
những trận quân du kích tổ chức phục kích và<br />
tiêu diệt được nhiều tên mật thám đầu sỏ, gian<br />
ác, có nhiều nợ máu với nhân dân…<br />
Tóm lại, sự lãnh đạo của Đảng đối với phong<br />
trào cách mạng Bắc Sơn – Võ Nhai, với Cứu<br />
quốc quân là trực tiếp, toàn diện cả về chính<br />
trị lẫn quân sự. Đây là một nhân tố vô cùng<br />
quan trọng quyết định mọi thắng lợi của quá<br />
trình xây dựng, phát triển lực lượng cách<br />
mạng, quá trình công tác, chiến đấu của lực<br />
lượng vũ trang. Đảng ta cũng đã nhận định:<br />
“…Cứu quốc quân tiến hành chiến tranh du<br />
kích đánh địch kéo dài trong tám tháng, nêu<br />
cao tinh thần chiến đấu bất khuất và lòng<br />
trung thành vô hạn của một đội quân cách<br />
mạng. Sự kiện này chứng tỏ rằng, nhân dân<br />
ta dưới sự lãnh đạo của Đảng có khả năng<br />
lập căn cứ địa cách mạng, kết hợp với phong<br />
trào đấu tranh chính trị rộng lớn của quần<br />
chúng, tiến hành chiến tranh du kích chống<br />
lại một quân đội đế quốc có ưu thế về vũ khí<br />
và lực lượng ” [3]. Đây chính là một bài học<br />
kinh nghiệm đáng quí được rút ra từ cuộc đấu<br />
tranh chống địch khủng bố trên căn cứ địa<br />
Bắc Sơn – Võ Nhai và nó đã trở thành<br />
nguyên tắc xây dựng lực lượng vũ trang<br />
cách mạng của Đảng ta trong các thời kỳ<br />
cách mạng tiếp diễn.<br />
Xây dựng, phát triển những tổ chức của<br />
quần chúng cách mạng; lấy đó làm cơ sở<br />
phát triển phong trào đấu tranh cách mạng<br />
– phong trào du kích chiến.<br />
Cứu quốc quân lãnh đạo quần chúng đấu<br />
tranh chống địch khủng bố thông qua các tổ<br />
chức của quần chúng và các tổ chức đó chính<br />
là cơ sở để quân du kích liên hệ, phối hợp, tổ<br />
chức quần chúng đấu tranh. Nhận thức được<br />
vai trò của các tổ chức quần chúng, Cứu quốc<br />
quân luôn chú ý gây dựng, phát triển các tổ<br />
chức này, lấy đó làm cơ sở để phát triển, đẩy<br />
mạnh cuộc đấu tranh du kích chống địch<br />
khủng bố trên căn cứ địa Bắc Sơn – Võ Nhai.<br />
Có thể thấy, đa số các đồng chí trong đội Cứu<br />
quốc quân đều có xuất thân từ những lực<br />
<br />
91(03): 171 - 176<br />
<br />
lượng, tổ chức của quần chúng, họ đều là cán<br />
bộ, chiến sĩ, đảng viên của các đội tự vệ, các<br />
cán bộ và hội viên của các Hội cứu quốc ở địa<br />
phương hoặc ở dưới xuôi lên tăng cường cho<br />
căn cứ Bắc Sơn – Võ Nhai. Trong các phong<br />
trào đấu tranh của quần chúng: đòi các quyền<br />
dân sinh, dân chủ, chống sưu cao, thuế<br />
nặng… họ là những người hăng hái, nhiệt<br />
tình, dũng cảm đấu tranh. Trải qua một quá<br />
trình rèn luyện qua các tổ chức cách mạng và<br />
phong trào đấu tranh của quần chúng, họ<br />
được Đảng tuyên truyền, giác ngộ, đào tạo rồi<br />
bổ sung vào lực lượng du kích quân chiến đấu<br />
chống lại kẻ thù. Quá trình ra đời, phát triển<br />
nhanh chóng của các lực lượng quân du kích<br />
trên căn cứ địa Bắc Sơn – Võ Nhai (từ năm<br />
1940 đến đầu năm 1942) phần lớn cũng nhờ<br />
sự bổ sung lực lượng kịp thời của các tổ chức<br />
quần chúng. Thực vậy, từ các tổ chức, phong<br />
trào cách mạng của quần chúng hình thành<br />
trước năm 1940 mà Khởi nghĩa Bắc Sơn bùng<br />
nổ, Đội du kích Bắc Sơn – tiền thân của các<br />
Trung đội Cứu quốc quân đã ra đời. Phong<br />
trào Bắc Sơn – Võ Nhai tiếp tục có nhiều<br />
bước phát triển mới dưới ánh sáng soi đường<br />
của Hội nghị Trung ương 7 (11/1940), Đội du<br />
kích Bắc Sơn và các tổ chức quần chúng được<br />
củng cố không ngừng. Kết quả là Trung đội<br />
Cứu quốc quân I – tiền thân của Trung đội<br />
Cứu quốc quân II, đã ra đời (1/5/1941): “Tại<br />
các địa phương, Cứu quốc quân vừa tiến<br />
hành tuyển chọn lực lượng bổ sung cho đội<br />
vừa tiến hành công tác tuyên truyền, mở các<br />
lớp đào tạo cấp tốc cho Cứu quốc quân” [4].<br />
Trong tám tháng đấu tranh du kích, các tổ<br />
chức quần chúng (Hội Cứu quốc, Đội tự vệ)<br />
tiếp tục được xây dựng, phát triển, dẫn tới sự<br />
ra đời của Trung đội Cứu quốc quân II<br />
(15/9/1941). Trong sự phát triển liên hoàn của<br />
các lực lượng du kích trên căn cứ địa Bắc Sơn<br />
– Võ Nhai, vai trò của các tổ chức cách mạng<br />
của quần chúng là rất quan trọng. Lực lượng<br />
chính trị và lực lượng tự vệ đông đảo cùng<br />
như phong trào cách mạng phát triển là những<br />
điều kiện rất cơ bản để phát triển Cứu quốc<br />
quân. Các địa phương có phong trào cách<br />
mạng quần chúng sâu rộng trong khu căn cứ:<br />
Bắc Sơn, Tràng Định, Thoát Lãng (Lạng<br />
Sơn), Võ Nhai, Đại Từ, Định Hóa, Đồng Hỷ<br />
(Thái Nguyên)… là những nơi đóng góp cho<br />
173<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
Ngô Ngọc Linh<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
các lực lượng du kích Bắc Sơn – Võ Nhai rất<br />
nhiều cán bộ, chiến sĩ ưu tú. Không thể có các<br />
Trung đội Cứu quốc quân cũng như những<br />
thắng lợi to lớn của họ, nếu không có sự tham<br />
gia của những quần chúng trung kiên, những<br />
người đã được rèn luyện, trưởng thành trong các<br />
tổ chức quần chúng cách mạng địa phương.<br />
Nhận thức được vai trò của mặt công tác này<br />
trong cuộc đấu tranh cách mạng, Cứu quốc<br />
quân xác định đây là một công tác trọng tâm<br />
nhằm tạo dựng cho quân du kích có địa bàn<br />
hoạt động, có chỗ dựa về cả vật chất lẫn tinh<br />
thần khi bị địch càn quét khủng bố mạnh. Chú<br />
trọng mặt công tác đó, Cứu quốc quân đã chia<br />
ra nhiều tổ về các địa phương xây dựng cơ sở<br />
quần chúng, lãnh đạo, tổ chức quần chúng<br />
đấu tranh chống địch khủng bố. Họ đã cùng<br />
với cán bộ, đảng viên địa phương ra sức xây<br />
dựng và phát triển các Hội Cứu quốc, các đội<br />
tự vệ. Trên cơ sở quán triệt đường lối cách<br />
mạng của Đảng; nắm vững tâm lý và nguyện<br />
vọng của đồng bào các dân tộc; với nhiều<br />
hình thức tuyên truyền, giác ngộ quần chúng<br />
phong phú, Cứu quốc quân đã xây dựng được<br />
cho khu căn cứ Bắc Sơn – Võ Nhai những cơ<br />
sở quần chúng vững chắc; đó là lực lượng<br />
chính trị quan trọng, hỗ trợ, giúp đỡ, tác chiến<br />
cùng quân du kích trong cuộc đấu tranh chống<br />
địch khủng bố. Mặt khác, trong cuộc đấu<br />
tranh ấy, Cứu quốc quân đã cùng nhân dân<br />
các dân tộc Bắc Sơn – Võ Nhai chia ngọt sẻ<br />
bùi trong những ngày địch càn ác liệt. Vì lẽ<br />
đó, đồng bào các dân tộc hết lòng giúp đỡ và<br />
chăm lo cho lực lượng du kích từ miếng cơm,<br />
manh áo, thuốc men, gạo tiền… cho đến việc<br />
chở che cho Cứu quốc quân khi bị địch truy<br />
kích, tìm diệt. Hơn nữa, đồng bào còn trực<br />
tiếp tham gia vào các mặt công tác của Cứu<br />
quốc quân: công tác binh vận, địch vận, theo<br />
dõi bọn mật thám, tay sai… tạo mọi điều kiện<br />
để quân du kích xây dựng, phát triển lực<br />
lượng. Nhờ quá trình hoạt động của Cứu quốc<br />
quân trong lòng quần chúng nên các tổ chức<br />
của quần chúng trên địa bàn căn cứ địa phát<br />
triển rất nhanh; đặc biệt, do họ được Cứu<br />
quốc quân giác ngộ nên khả năng đấu tranh<br />
chính trị trực tiếp với quân thù của quần chúng<br />
cách mạng đã cải thiện, nâng cao rõ rệt.<br />
Tóm lại, lực lượng chính trị của quần chúng<br />
có vai trò đặc biệt quan trọng trong mọi cuộc<br />
đấu tranh, cách mạng vì sự phát triển của các<br />
tổ chức quần chúng có tác dụng tạo nên nền<br />
<br />
91(03): 171 - 176<br />
<br />
móng vững chắc cho phong trào cách mạng.<br />
Do đó, trong tám tháng đấu tranh du kích<br />
chống địch khủng bố, Cứu quốc quân luôn<br />
chú trọng mặt công tác này và đã tạo ra một<br />
phong trào đấu tranh rộng rãi với sức mạnh<br />
vô địch, sức mạnh của sự kết hợp giữa lực<br />
lượng chính trị và lực lượng vũ trang, giữa<br />
đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang.<br />
Không ngừng củng cố, mở rộng căn cứ địa<br />
cách mạng nhằm xây dựng, tăng cường lực<br />
lượng quân du kích, tạo chỗ đứng chân cho<br />
lực lượng khi hiểm nguy cũng như làm bàn<br />
đạp để tiến công địch khi thời cơ đến.<br />
“Chiến tranh du kích và căn cứ địa là hai yếu<br />
tố cơ bản của chiến tranh cách mạng nhằm<br />
giải phóng dân tộc. Hai yếu tố này luôn gắn<br />
bó với nhau trong truyền thống quân sự của<br />
dân tộc” [5]. Xây dựng căn cứ địa là công tác<br />
hậu phương, đấu tranh du kích là công tác<br />
tiền tuyến, chúng có mối quan hệ chặt chẽ,<br />
khăng khít, không tách rời. Vì vậy, xây dựng<br />
căn cứ địa cách mạng và tiến hành đấu tranh<br />
du kích là hai hoạt động trọng tâm của Đảng<br />
trong giai đoạn này. Quá trình đấu tranh của các<br />
đội quân du kích cách mạng trên căn cứ địa Bắc<br />
Sơn – Võ Nhai đã chứng minh điều đó.<br />
Quá trình hình thành, phát triển căn cứ địa<br />
cách mạng luôn gắn với sự trưởng thành của<br />
Cứu quốc quân: khi Đội du kích Bắc Sơn ra<br />
đời thì căn cứ du kích Bắc Sơn cũng hình<br />
thành; sự ra đời của Trung đội Cứu quốc quân<br />
I gắn liền với quá trình phát triển của khu du<br />
kích Bắc Sơn; khi trung tâm căn cứ địa Bắc<br />
Sơn – Võ Nhai hình thành thì Trung đội Cứu<br />
quốc quân II ra đời. Quá trình phát triển của<br />
cách mạng Bắc Sơn – Võ Nhai đã chứng thực<br />
rõ mối quan hệ không thể tách rời giữa sự<br />
hình thành, phát triển căn cứ địa và sự trưởng<br />
thành của các lực lượng du kích quân. Dựa<br />
vào căn cứ địa, Cứu quốc quân mới có thể<br />
đấu tranh du kích chống địch khủng bố, bảo<br />
toàn và phát triển lực lượng, thực hiện những<br />
nhiệm vụ mà Trung ương giao phó. Căn cứ<br />
địa nhờ có sự bảo vệ, xây dựng của Cứu quốc<br />
quân mà ngày càng phát triển, mở rộng hơn.<br />
Nói một cách cụ thể, căn cứ địa Bắc Sơn – Võ<br />
Nhai, với một vị trí chiến lược cơ động “tiến<br />
khả dĩ công, lui khả dĩ thủ”, với một nền kinh<br />
tế tự cấp, tự túc, đặc biệt với phong trào cách<br />
mạng mạnh và lực lượng chính trị rộng lớn…<br />
là “mảnh đất tốt” cho quá trình trưởng thành<br />
của Cứu quốc quân.<br />
<br />
174<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
Ngô Ngọc Linh<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
Đặc điểm của quá trình hình thành, mở rộng<br />
căn cứ địa Bắc Sơn – Võ Nhai là đi từ thấp<br />
đến cao và nó gắn với quá trình đấu tranh du<br />
kích chống khủng bố của Cứu quốc quân.<br />
Nhận định quá trình đó đi từ thấp đến cao là<br />
bởi nó được xây dựng từ lực lượng chính trị<br />
tiến lên xây dựng lực lượng vũ trang, từ<br />
những căn cứ nhỏ, bị chia cắt tiến lên nối liền<br />
các căn cứ đó với nhau thành một khu căn cứ<br />
rộng lớn, từ chưa hoàn chỉnh đến ngày càng<br />
hoàn chỉnh. Quá trình ấy gắn liền với hoạt<br />
động đấu tranh du kích của Cứu quốc quân vì:<br />
trong điều kiện địch khủng bố ác liệt, nhiều<br />
khi quân du kích phải “hóa chỉnh vi linh”,<br />
phân tán lực lượng, dựa vào dân hoạt động bí<br />
mật. Cũng nhờ thế, các chiến sĩ du kích có<br />
điều kiện gần dân, giác ngộ quần chúng, xây<br />
dựng cơ sở cách mạng. Ở góc độ khác, công<br />
tác mở rộng địa bàn hoạt động, căn cứ cũng là<br />
một nhiệm vụ trọng tâm của Cứu quốc quân;<br />
nó nhằm xây dựng, tăng cường lực lượng<br />
quân du kích, tạo chỗ đứng chân cho lực<br />
lượng khi hiểm nguy cũng như làm bàn đạp<br />
để tiến công địch khi thời cơ đến. Cho nên<br />
Cứu quốc quân đã phân tán, chia nhỏ lực<br />
lượng về các địa phương trong và ngoài khu<br />
trung tâm căn cứ để thực hiện những nhiệm<br />
vụ trên. Do đó, đầu cuối năm 1941, các tổ<br />
công tác của Cứu quốc quân được phân công<br />
đi về các địa phương ở Bắc Sơn, Võ Nhai,<br />
Chợ Chu (Định Hóa), Phương Liễn (Sơn<br />
Dương – Tuyên Quang), Hữu Lũng, Yên Thế<br />
(Bắc Giang)… để mở rộng địa bàn của khu<br />
căn cứ địa Bắc Sơn – Võ Nhai. Kết quả: căn<br />
cứ địa được mở rộng; nhiều cơ sở Đảng cũ<br />
được khôi phục; gây dựng, phát triển thêm<br />
được nhiều cở sở cách mạng quần chúng mới;<br />
nối liền được nhiều tuyến giao thông liên<br />
lạc giữa trong và ngoài căn cứ; bổ sung<br />
được nhiều quần chúng ưu tú cho lực lương<br />
du kích quân…<br />
Tóm lại, vấn đề mở rộng căn cứ địa có nhiều<br />
ý nghĩa quan trọng: nó vừa là chỗ dựa để xây<br />
dựng lực lượng vũ trang và lực lượng cách<br />
mạng, vừa là bàn đạp để tiến công quân địch<br />
bằng chính trị lẫn vũ trang nhằm đánh lùi<br />
từng bước, đánh đổ từng bộ phận, tiến lên đập<br />
tan hoàn toàn ách thống trị của bọn thực dân<br />
xâm lược và bè lũ tay sai bán nước. Cũng<br />
chính vì thế, căn cứ địa luôn nằm trong tình<br />
trạng bị uy hiếp, nguy hiểm vì đó là mục tiêu<br />
đánh phá ác liệt của kẻ thù. Do vậy, trong quá<br />
trình xây dựng, phát triển, lực lượng vũ trang<br />
<br />
91(03): 171 - 176<br />
<br />
cách mạng phải không ngừng xây dựng, mở<br />
rộng địa bàn căn cứ địa. Nhìn lại vấn đề này,<br />
Quân đội ta đã đánh giá: “Tám tháng đánh du<br />
kích ở Bắc Sơn – Võ Nhai đã chỉ ra rằng dưới<br />
ách thống trị đế quốc, phát xít Pháp – Nhật,<br />
nhân dân ta do Đảng lãnh đạo, có thể lập<br />
được căn cứ cách mạng ở vùng nông thôn,<br />
rừng núi và đánh du kích lâu dài để tiêu hao<br />
và tiêu diệt quân đội của đế quốc có ưu thế<br />
tuyệt đối về số lượng và trang bị” [6]. Bài học<br />
kinh nghiệm đáng quí được rút ra qua quá<br />
trình đấu tranh du kích này còn được Đảng ta<br />
quán triệt, áp dụng nhiều trong các giai đoạn<br />
cách mạng tiếp theo.<br />
Giáo dục chính trị, tư tưởng là nhiệm vụ<br />
trọng tâm, căn bản nhất trong quá trình<br />
rèn luyện các đội quân du kích để có đủ<br />
sức mạnh để hoàn thành mọi nhiệm vụ<br />
cách mạng<br />
Xuất phát từ nhận thức: trong cuộc chiến đấu<br />
không cân sức này, kẻ địch hơn ta về nhiều<br />
mặt: vũ khí, phương tiện chiến tranh, quân<br />
số… nhưng ta lại hơn địch ở tinh thần quyết<br />
tâm, anh dũng, mưu trí… Những thắng lợi<br />
của Cứu quốc quân II trên nhiều mặt trận<br />
trong tám tháng đấu tranh du kích có được<br />
phần nhiều do du kích quân ta đã thấm nhuần,<br />
tin tưởng vào đường lối, tư tưởng cách mạng<br />
của Đảng; vì thế, quyết tâm chống Pháp cũng<br />
được củng cố, nâng cao hơn. Xét về nguyên<br />
nhân sâu xa của thực tế này là do lực lượng<br />
du kích của ta đã được giáo dục, nâng cao<br />
trình độ chính trị, tư tưởng trong quá trình<br />
chiến đấu. Các lớp huấn luyện về chính trị, tư<br />
tưởng do Trung ương Đảng, Xứ uỷ, Ban chỉ<br />
huy Cứu quốc quân và các chi bộ, tổ Đảng tổ<br />
chức ngay trên căn cứ địa trong những điều<br />
kiện gian khổ đã chứng minh Đảng ta rất<br />
quan tâm và coi đây là một trong những<br />
nhiệm vụ chính trị trọng tâm của Đảng.<br />
Nội dung học tập chính trị, tư tưởng của cán<br />
bộ, chiến sĩ du kích là học về đường lối, chính<br />
sách của Đảng như: Nghị quyết Hội nghị lần<br />
thứ tám của BCH Trung ương Đảng, Chương<br />
trình và Điều lệ Việt Minh,… Cạnh đó, các<br />
chi bộ, tổ Đảng thường xuyên tổ chức họp,<br />
kiểm điểm, rút kinh nghiệm công tác và chiến<br />
đấu; công tác khen thưởng và kỷ luật trong<br />
Đảng cũng được thực hiện kịp thời, nghiêm<br />
minh. Những nội dung và hoạt động sinh hoạt<br />
chính trị, tư tưởng cùng nhiều hình thức<br />
phong phú trên đã giúp cán bộ, chiến sĩ Cứu<br />
175<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />