intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Những điều cơ bản về Luật Di sản thừa kế từ lý luận và thực tiễn luật dân sự Việt Nam: Phần 2

Chia sẻ: Vô Sắc | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:132

26
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Phần 2 cuốn sách "Những vấn đề lý luận và thực tiễn về di sản thừa kế theo pháp luật dân sự Việt Nam" trình bày các nội dung: Thanh toán và phân chia tài sản thừa kế, thực tiễn áp dụng trong việc xác định, thanh toán, phân chia di sản thừa kế và kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật về di sản thừa kế. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Những điều cơ bản về Luật Di sản thừa kế từ lý luận và thực tiễn luật dân sự Việt Nam: Phần 2

  1. Di sản thừa kế theo pháp luật dán sự Việt Nam.. Phần III THANH TOÁN VÀ PHÂN CHIA DI SẢN THỪA KẾ Nếu việc xác định di sản thừa kế là khâu đầu tiên cần thiết và quan trọng, là việc làm có ý nghĩa quyết định cho các bước tiếp theo trong quan hệ pháp luật về thừa kế, thì thanh toán và phân chia di sản là khâu cuốỉ cùng, và cũng là kết quả của quá trình thực hiện các nội dung đó. Bản thân nó cũng đòi hỏi, những yêu cầu riêng biệt, đồng thời nó cũng có tính quyết định thể hiện kết quả đạt ở mức nào trong việc thực hiện các nội dung của quan hệ thừa kế trên thực tế. Trước khi thực hiện việc phân chia • • • • A di sản thừa kế là một loạt các công việc phải làm của những người thừa kế. I. THANH TOÁN DI SẢN THỪA KẾ Khi trong gia đình có người nằm xuống thì việc đầu tiên của những ngưòi thân, họ mạc là việc lo mai táng “mồ yên, mả đẹp ” cho ngưòi đã mất, tiếp đến là những công việc khác liên quan đến di sản thừa kế mà ngưòi chết để lại. Những ngưòi thừa kế cần có sự bàn bạc,thoả thuận trong việc quản lý di sản, ngưòi phân chia di sản, cách thức phân 252
  2. Phần III. Thanh toán và phán chia di sấn thừa kế chia di sản... Bởi vậy, họ thưòng họp mặt nhũng ngưòi thừa kế để thông nhất các vấn đề cần thiết nêu trên. 1. Họp mặt những người thừa kế Họp mặt những người thừa kế hay không là phụ thuộc vào ý chí của ngưòi thừa kế, điều đó có nghĩa là pháp luật không buộc phải thực hiện việc họp mặt này. Tuy nhiên, nếu những người thừa kế xét thấy cần phải họp mặt để dễ dàng đi đến thống nhất về việc cử người quản lý di sản, ngưòi phân chia di sản; nghĩa vụ của từng người thừa kế nếu người để lại di sản không định đoạt trong di chúc và cơ bản nhất là thống nhất cách phân chia di sản(1>. Để cho những thoả thuận đó là bằng chứng pháp lý trong việc xem xét và giải quyết những tranh chấp có thể xảy ra, thì mọi thoả thuận trong buổi họp mặt những ngưòi thừa kế phải được lập thành văn bản, trong văn bản này phải có đầy đủ chữ ký của những người thừa kế. Đối với những người không có, hạn chế hoặc chưa có năng lực hành vi dân sự thì người đại diện theo pháp luạt của họ thay mặt họ ký vào văn bản họp mặt những người thừa kế. Nếu trong một gia đình hoà thuận, thương yêu, gắn bó thì vấn đề chia thừa kế cho ai và họ được hưởng bao nhiêu, ai là người quản lý di sản dùng vào việc thò cúng... sẽ không mấy khó khăn. Trên thực tế việc quản lý di sản cũng (UĐiều 648 Bộ luật Dân sự năm 2005. 253
  3. Di sản thừa kế theo pháp luật dân sự ViệtNam... như phân chia di sản thưòng được những người tlừa kê thoả thuận phân chia một cách hoà thuận và nhường nhịn lẫn nhau. Bỏi vậy những tranh chấp về thừa kế sẽ không xảy ra đôi với những gia đình này. Việc họp mặt những ngưòi thừa kế mà không đem đến những kết quả của việc bàn bạc của những người tlừa kế thì nguy cơ dẫn đến những tranh chấp về di sản thừa kế, về những người được hưởng di sản thừa kế rất dễ xẻy ra. Tuỳ từng trường hợp cụ thể mà cuộc họp mặt ihững người thừa kế cần bàn bạc, thoả thuận những vấn đề gì. Nếu người để lại di sản không chỉ định ngưòi quản lý, người phân chia di sản, ngưòi công bố di chúc... thì Tấn đề quản lý di sản, người phân chia di sản phải được đưs ra để bàn bạc, thống nhất đối với những vấn đề này để có ngưòi quản lý di sản trong thòi gian di sản chưa được phân chia nhằm tránh được mất mát, hư hỏng, tẩu tán, giấu diếm di sản thừa kế... những ngưồi thừa kế có thể thống nhất cách phân chia di sản nếu họ quyết định phân chia di sản trong thời gian này. Quyền và nghĩa vụ của người quản lý di sản và người phân chia di sản có thể do những người thừa kế cùng nhau thoả thuận như: về thòi gian quản lý, thù lao được hưởng, bảo quản di sản, bồi thưòng thiệt hại... Nếu không thoả thuận thì quyền và nghĩa vụ của những ngưòi này được xác định và thực hiện theo quy định tại Điều 638 và Điều 639 BLDS năm 2005. ^ 254
  4. Phần III. Thanh toán và phân chia di sản thừa kế 2. Người phân chia di sản Là người trong thực tế đứng ra tổ chức, thực hiện việc phân chia di sản cho những ngưòi thừa kế theo di chúc hoặc theo sự thoả thuận của những người thừa kế. Một trong những quyền của người lập di chúc được Điều 648 BLDS năm 2005 quy định là chỉ định ngưòi giữ di chúc, ngưòi quản lý di sản và ngưòi phân chia di sản. Người phân chia di sản không bắt buộc phải nằm trong diện thừa kế mà có thể là một người bất kỳ nào đó theo ý chí của người lập di chúc hoặc do thoả thuận của những người thừa kế. Người phân chia di sản có thể đồng thòi là người quản lý di sản nhưng cũng có thể là hai ngưòi khác nhau, mỗi người thực hiện một công việc. Người phân chia di sản phải chia di sản theo đúng ý chí của ngưòi để lại di sản đã thể hiện trong di chúc theo Điều 684 BLDS năm 2005. Nếu người lập di chúc không xác định cách phân chia di sản cho ai, bao nhiêu, tài sản nào, hoặc đôi với phần tài sản không được định đoạt trong di chúc, phần tài sản liên quan đến phần di chúc không có hiệu lực pháp luật, phần tài sản bị từ chôl... được áp dụng chia thừa kế theo pháp luật thì ngưòi phân chia di sản phải phân chia theo đúng thoả thuận của những thừa kế viên. Người phân chia di sản chỉ được hưởng thù lao đối với công việc quản lý và phân chia di sản nếu được ngưòi lập 255
  5. Di sẩn thừa kế theo pháp luật dân sự Việt Nam... di chúc cho phép. Mức thù lao được hưởng được xác định theo ý chí của ngưòi để lại di sản. Nếu trong di chúc không xác định việc hưởng thù lao và mức thù lao, nhưng nếu có sự thoả thuận của những thừa kế viên thì ngưòi phân chia di sản vẫn được hưởng thù lao theo sự thoả thuận đó. Hiện nay, luật dân sự của nước ta mới chỉ quy định ngưòi quản lý di sản là ngưòi phân chia di sản mà chưa quy định thòi điểm bắt đầu kiểm kê di sản cho đến khi kết thúc kiểm kê di sản thừa kế trong vòng bao nhiêu ngày. Chúng tôi cho rằng, việc quy định này có ý nghĩa lớn trong việc đánh giá tình hình di sản thừa kế của người để lại di sản. Nếu để quá lâu thì khả năng thất lạc, mất mát, hư hỏng, tẩu tán di sản xảy ra càng lớn. Hơn nữa, có nhiều trưòng hợp di sản của ngưòi quá cố thuộc về rất nhiều người thừa kế mà chưa được xác định tài sản nào thuộc về ai, bởi vậy ý thức bảo quản di sản của họ bị hạn chế nhiều so với việc đã xác định kiểm kê di sản và trao quyền cho ngưòi đó đó quản lý khối di sản đó. Bộ luật Dân sự của đa sô" các nước trên thế giới đều quy định về vấn đề thanh toán di sản trước khi chia di sản thừa kế. Bộ luật Dân sự của Pháp tại Điều 870 quy định: “các đồng thừa k ế cùng phải trả các món nợ và các nghĩa vụ khác của di sản, mỗi người theo tỉ lệ phần mình được hường’. Theo điều luật này thì những món nợ và nghĩa vụ phát sinh trong các quan hệ pháp luật mà trưốc khi chết 256
  6. Phần III. Thanh toán và phán chia di sản thừa kế người để lại di sản thừa kế đã tham gia mà chưa kịp thực hiện, thì các đồng thừa kế phải thực hiện trước những ngưòi mang quyền trước khi chia di sản thừa kế. Điều 873 Bộ luật này còn quy định: “Những người thừa k ế phải chịu trách nhiệm cá nhân về các món nợ trong di sản trong phạm vi phần di sản của mình hưởng và chịu trách nhiệm về mặt th ế chấp đối với toàn bộ di sản; trừ việc họ kiện các đồng thừa k ế hoặc những người được hưởng”. Điều luật này dự liệu trong trường hợp người thừa kế nhận một tài sản mà người để lại di sản đã thế chấp cho chủ nợ để bảo đảm nghĩa vụ thanh toán, thì người thừa kế này phải thanh toán toàn bộ món nợ để giải trừ việc thế chấp. Sau khi trả được nợ, thì ngưòi thừa kế này được quyền yêu cầu các thừa kế viên khác hoàn trả phần nợ vượt quá phần di sản mà người này đã thanh toán. Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan từ Điều 1734 đến Điều 1744 cũng quy định về vấn đề thanh toán di sản: “Người thừa k ế có nghĩa vụ tiết lộ cho người quản lý tất cà và nợ nần của người chết mà mình biết; các chủ nợ của khối tài sản có quyền được trả nợ từ các tài sản trong khối tài sản đó; trong trường hợp người thừa k ế đã trả nợ cho người chủ vượt quá phần tỷ lệ tương ứng của mình trong nghĩa vụ trả nỢ đó, có quyền kiện lại những người thừa k ế khác,...”a\ Các quy định này thể hiện rất cụ thể phần nghĩa vụ mà ,l) BLDS và Thương mại Thái Lan, Điều 1734,1735 và Điều 1738. 257
  7. Di sản thừa kế theo pháp luật dân sự Việt Nam... mỗi ngưòi thừa kế phải gánh chịu và buộc phải thựĩ hiện trước những người chủ nợ toàn bộ nghĩa vụ mà triíốc đó ngưòi để lại di sản chưa thực hiện. Điều 899 Bộ luật Dân sự Nhật Bản quy định: ‘Từng đồng sở hữu chủ sẽ thừa k ế quyền và nghĩa vụ của ngibi đ ể lại thừa k ế theo tỷ lệ phần trong thừa kế...”. Bộ Dân luật Sài Gòn năm 1972 tại Điều 542 cũng thể hiện tinh thần này. Nhìn chung các Bộ luật Dân sự nêu trên đều quy định việc thanh toán di sản thừa kế khi phân chia di sản của người chết cho những ngưòi thừa kế. Luật Dân sự nưốc ta tại Điều 34 PLTK và các Điều 636, 637, 683 BLDS năm 2005 quy định việc thanh toán di sản thừa kế. “K ể từ thời điểm mở thừa kế, những người thừa k ế có các quyền, nghĩa vụ tài sản do người chết đ ể lại”. Quyền và nghĩa vụ của người thừa kế là những quyền và nghĩa vụ về tài sản từ khôi di sản mà người chết để lại. Kể từ thời điểm người để lại di sản chết, thì xác định quyền sở hữu đó và tài sản đó thuộc về những người thừa kế, đồng thòi cũng phát sinh nghĩa vụ tài sản do người chết để lại. “Người hưởng thừa k ế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết đ ể lại”n\ Khi thực hiện nghĩa vụ tài sản xảy ra hai trường hợp:
  8. phần Iil. Thanh toán và phán chia di sản thừa kế - Trường hợp 1: Di sản chưa chìa Theo quy định tại khoản 2 Điều 637 BLDS năm 2005: “Trong trường hợp di sản chưa chia, thì nghĩa vụ tài sản do người chết đ ể lại được người quản lý di sản thực hiện theo thoả thuận của những người thừa k ể ’. Theo quy định này, người quản lý di sản phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại. Họ phải thanh toán tất cả các khoản nợ của người chết để lại trước khi chia di sản. Các khoản thanh toán này phải theo thứ tự được quy định tại Điều 686 BLDS năm 2005. Nghĩa vụ tài sản do người chết để lại thưòng là phải thanh toán bằng tiền, nhưng cũng có trưòng hợp thanh toán bằng hiện vật. + Nếu phải thanh toán bằng tiền mà di sản đ ể lại bằng hiện vật • ♦ Thực tế cho tài sản bằng tiền mà ngưòi chết để lại thì ngưòi quản lý di sản phải bán bớt hoặc bán toàn bộ (trong trưòng hợp sô' nợ bằng hoặc lốn hơn di sản mà ngưòi chết để lại) để thanh toán các khoản nợ. Tuy nhiên nếu được sự đồng ý của người chủ nợ (người man g quyền) thì ngưòi quản lý di sản có thể thanh toán bằng hiện vật. +■Nếu phải thanh toán bằng hiện vật mà di sản thừa k ế đ ể lạ i bằng tiền hoặc giấy tờ có giá Trong trường hớp này thì ngưòi quản lý di sản và người thừa kế phải dùng tiền để mua hiện vật thanh toán theo yêu 259
  9. Di sắn thừa kế theo pháp luật dán sự Việt Nam... cầu của người mang quyền nếu không có thoả thuận khác. Nhìn chung, các khoản nợ và các chi phí do ngưòi chết để lại thì ngưòi quản lý di sản thay mặt người thừa kế phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đó. Nghĩa vụ tài sản mà người thừa kế phải thực hiện không vượt quá giá trị tài sản mà ngưòi chết để lại. Nếu vượt quá khôi di sản thừa kế đó thì họkhông có nghĩa vụ phải thanh toán. Nếu ngưòi được hưởng thừa kế là nhà nước, cơ quan hay tổ chức xã hội khác, thì cũng phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại như những ngưòi thừa kế là cá nhân. - Trường hợp 2: Di sán đã được chia Khác vài di sản chưa được chia, phương thức thanh toán trong trưòng hợp này là mỗi ngưòi thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại tương ứng với phần mà mình đã nhận (Khoản 3 Điều 637 BLDS năm 2005). Nếu di sản chia theo luật thì những ngưòi thừa kế cùng hàng được hưởng di sản thừa kế bằng nhau. Bởi vậy mà nghĩa vụ về tài sản của mỗi ngưòi đó do người chết để lại được xác định bằng nhau. Nếu di sản thừa kế được chia theo di chúc thì ngưòi thừa kế có nghĩa vụ thanh toán các nghĩa vụ về tài sản và các khoản chi phí liên quan đến người để lại di sản tương ứng với phần tài sản mà mình đã được chỉ định trong di chúc. Nhưng việc lập di chúc của ngưòi thừa kế để lại di 260
  10. Phần III. Thanh toán và phân chia di sẩn thừa kế sản giao nghĩa vụ cho những người thừa kế lại có thể xảy ra nhiều tình thế khác nhau: 1. Trong trưòng hợp người chết để lại một nghĩa vụ về tài sản và xác định một người thừa kế phải thực hiện nghĩa vụ đó (nhưng thực hiện vối danh nghĩa đại diện), thì ngưòi này có quyền trích từ khốỉ di sản để thực hiện nghĩa vụ, những nghĩa vụ tài sản là nghĩa vụ của những người thừa kế của người chết nếu có nhiều người thừa kế. 2. Trong trường hợp ngưòi để lại di sản, xác định một ngưòi thừa kế phải thực hiện nghĩa vụ tài sản đó thì ngưòi này phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ đó trong phạm vi di sản được nhận. • » 3. Trong trường hợp ngưòi để lại di sản không xác định rõ ai phải thực hiện nghĩa vụ thì theo quy định tại Điều 637 BLDS năm 2005, ngưòi nào hưỏng thừa kế thì người đó phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do ngưòi chết để lại. 4. Trường hợp người để lại di sản đã xác định rõ phần nghĩa vụ mà mỗi ngưòi thừa kế phải thực hiện thì mỗi ngưôi chỉ thực hiện phần được giao đó trong phạm vi di sản mà jmình được hưởng. Nếu một trong sô" những người thừa kế mày có nghĩa vụ vượt quá phần di sản được hưỏng, thì ngưồi thừa kê khác phải thực hiện tương ứng với phần di sản họ đã nhận được. 5. Trong trường hợp người để lại di sản chỉ giao cho một hoặtc một sô' người trong số những người thừa kế, thì chỉ 261
  11. Di sản thừa k ế theo pháp luật dân sự Việt Nam... riêng nh-ững người được giao này phải thực hiện nghĩa vụ đó. Khi có phần nghĩa vụ vượt quá sô" di sản mà người này được hưỏng thì những ngưòi thừa kế còn lại phải thực hiện tương ứng với phần di sản mà họ được hưởng. Ví dụ: Bà M lập di chúc định đoạt khối di sản của mình là 150 triệu đồng như sau: N được hưỏng 30 triệu đồng, Q được hưởng 30 triệu đồng, G hưởng 60 triệu đồng và H hưởng 30 triệu đồng. Bà M còn nợ Y 38 triệu, nợ ông X 34 triệu đồng. Nhưng bà M chỉ giao cho Q trả nợ ông Y và N trả nợ cho ông X. Như vậy số di sản mà Q và N được hưởng ít hơn phần nghĩa vụ phải thực hiện, nên trên thực tế là Q và N không được hưởng di sản theo di chúc. Sau khi lấy hết số di sản được hưởng để thanh toán nghĩa vụ thì khoản nợ đầu còn thiếu 12 triệu đồng. Khoản nợ này do G và H phải thực hiện tương đương vói phần G và H hưởng. Nên G phải thực hiện là 8 triệu và H là 4 triệu đồng. 6. Nếu ngưòi để lại di sản chỉ định người được hưởng thừa kê là nhà nưốc, cơ quan hay tổ chức xã hội, thì cũng phải thực hiện nghĩa vụ tài sản như nhũng người thừa kế là cá nhân. Tất nhiên cũng chỉ thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản được hưỏng. 7. Trưòng hợp người để lại di chúc có để lại một phần di sản dùng vào việc thò cúng, nếu di sản của ngưòi chết (còn lại sau khi trừ đi di sản thò cúng) đủ để thanh toán nghĩa vụ thì phần di sản thò cúng không bị khấu trừ vào. Nhưng nếu toàn bộ di sản khổng đủ để thanh toán nghĩa vụ của 262
  12. Phần HI. Thanh toán và phân chia di sản thừa kế ngưòi đó thì di sản thờ cúng cũng sẽ được dùng để thanh toán nghĩa vụ. Ví dụ: Ông A lập di chúc định đoạt tài sản của ông có ngôi nhà 3 gian như sau: cho B (con trưởng) một gian giữa và gian đầu giao cho B quản lý, thò cúng, gian thứ ba cho c hưởng. Khi ông A chết còn nợ T 200 triệu và chưa trả tiền công lao động cho công nhân là 100 triệu đồng. Nhưng giá trị 3 gian nhà chỉ là 250 triệu. Như vậy cả ba gian nhà đó phải dùng hết để thanh toán nghla vụ nêu trên, mà không được dành gian giữa để làm nơi thò cúng. 8. Nếu người lập di chúc dành một phần di sản để tặng cho ngưòi khác thì ngưòi được di tặng không phải thực hiện nghĩa vụ đốỉ vói tài sản được di tặng. Nhưng nếu toàn bộ di sản không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người di tặng, thì phần di tặng cũng được dùng để thực hiện phần nghĩa vụ còn lại của người này. Nhưng trong thực tế có trưồng hợp người để lại di sản vừa dành một phần di sản cho thờ cúng, vừa dành phần di sản để di tặng. Song khi thực hiện nghĩa vụ, di sản còn lại không đủ để thanh toán thì sẽ dùng di sản thò cúng để thanh toán nghĩa vụ hay di sản dùng cho di tặng để thanh toán. Xét ví dụ: Ông A bằng di chúc định đoạt khôi di sản của mình trị giá 200 triệu đồng như sau: Cho B (con trưởng) hưởng 50 triệu Cho c (con gái) hưỏng 20 triệu 263
  13. Di sẩn thừa kế theo pháp luật dân sự Việt Nam... Cho D (v ông) hưởng 40 triệu Cho E (cháu ông) hưởng 30 triệu Di tặng cho cụ F (chú ông) hưỏng 20 triệu Giao cho B 30 triệu để xây thêm miếu thò trên đất dùng cho thờ cúng của chi họ và lo hương khói sau này. Nhưng ông A chết còn nợ ngưòi khác là 170 triệu đồng, như vậy nếu lấy sô" di sản còn lại (sau khi ông A dành cho di tặng và cho thòi cúng) thanh toán nghĩa vụ thì vẫn còn nợ là 20 triệu đồng. Vấn đề đặt ra là sẽ sử dụng di sản dành cho di tặng cụ F 20 triệu hay dùng di sản dành cho thờ cúng là 30 triệu đồng, hay dùng cả hai loại di sản này theo tỷ lệ tương ứng để thanh toán. Có ý kiến cho rằng, phải dùng di sản dùng cho di tặng để thanh toán nghĩa vụ, vì theo quy định tại Điều 670 BLDS năm 2005: “..D i sản dùng vào việc thờ cúng là di sản không được chia....”. Ý kiến khác lại cho rằng, phải dùng di sản dành cho thờ cúng để thanh toán nghĩa vụ, vì nếú dùng di sản dành cho di tặng sẽ ảnh hưỏng trực tiếp đến đòi sống của ngưòi được di tặng, với quan niệm, người này thưòng gặp khó khăn trong đời sống kinh tế và quan hệ gia đình. Ý kiến thứ ba thì dung hoà hai ý kiến trên. Tức là dùng cả di sản thờ cúng và di sản dành cho di tặng để thanh toán. Chúng tôi nhận thấy ý kiến này là hợp lý hơn cả. Vì: Căn cứ vào Điều 670 và Điều 671 BLDS năm 2005 thì cơ sở 264
  14. Phần III. Thanh toán và phân chia di sẩn thừa k ế để dùng cả hai loại di sản trên đều là: “Toàn bộ di sản đều không đủ đ ể thanh toán nghĩa vụ tài sản của người chết”, mà không có một quy định ưu tiên nào cho di sản thờ cúng hoặc di tặng. Như vậy, về mặt pháp lý là ở thế “cân bằng” nhau. Còn về mặt thực tế thì cũng rất khó lý giải nên dùng loại di sản nào để thanh toán trong trường hợp nêu trên. Vì, tính đa dạng của quan hệ pháp luật thừa kế; về tình trạng phân chia, hoàn cảnh của người được di tặng, về mức chênh lệch giữa di sản dùng vào việc thờ cúng, di sản dành cho di tặng,... mà không cho phép dùng di sản này mà không dùng di sản kia để thanh toán nghĩa vụ của người chết khi toàn bộ khối di sản không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của ngưòi này. Sau khi đã xác định được ai phải thực hiện, thực hiện bao nhiêu đốì với nghĩa vụ tài sản mà người chết để lại, những ngưòi thừa kế phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán về tài sản và các khoản chi phí liên quan đến thừa kê theo quy định tại Điều 686 BLDS năm 1995 hay Điều 683 BLDS năm 2005. Thứ nhất, Chi phí hợp lý cho việc mai táng theo tập quán Là những chi phí trong nghi lễ đưa tang, chôn cất, điếu phúng ngưòi chết như: tiền mua quan tài, khăn vải liệm, chi phí cho chôn cất và các nghi lễ khác mà hiện đang được tập quán địa phương của người chết thừa nhận. Nếu chi phí mai táng được lấy từ tài sản của người chết thì di sản thừa kê của người này là phần còn lại. Vấn đề thanh toán 265
  15. Di sản thừa kế theo pháp luật dân sự Việt Sam... chi phí mai táng chỉ được đặt ra khi các khoản chỉ phí đó là do một ngưòi thừa kế bỏ ra hoặc vay mượn của người khác để lại cho việc mai táng. Tuy nhiên nếu những người này tự nguyện (như con lo cho cha mẹ, vợ lo cho chồng) không có yêu cầu phải thanh toán,, thì vấn đề thanh toán trong trường hợp này cũng không đặt ra. Thứ hai, Tiền cấp dưỡng còn thiếu Đây là khoản tiền mà người để lại di sản khi côn sống phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng đối với những người được cấp dưỡng theo quy định của pháp luật (như cấp dưõng nuôi con khi vợ chồng ly hôn, cấp dưỡng cho ngưòi bị người để lại di sản gây thiệt hại về tài sản, tính mạng, sức khoẻ...) nhưng chưa kịp cấp dưỡng thì đã chết. Ví dụ : Ông Q phải có nghĩa vụ cấp dưỡng cho T mỗi tháng là 100.000 đồng nhưng 6 tháng trước khi chết ông Q chưa đưa tiền cấp dưỡng cho T thì (100.000 X 6 tháng) = 600.000 đồng ông Q chưa thực hiện đó phải được thanh toán cho T trước khi những ngưòi thừa kế được hưởng di sản của ông. Thứ ba, Tiền trợ cốp cho nguời sống nương nhờ Thực tế trong xã hội ta còn một sô' ngưòi gặp nhiều khó khăn mà bản thân họ không tự lao động để nuôi sống bản thân. Đó là những người sống trong cảnh đơn côi, già yếu, tàn tật, gặp ngưòi tốt bụng cưu mang, trợ giúp cho họ sống nương nhò, như vậy cuộc sống của họ hoàn toàn phụ thuộc (nương nhờ) vào ngưòi khác. Nếu người cho họ sống nương 266
  16. Phần tỉ. Thanh toán và phán chia đi sản thừa kế nhờ chết, họ sẽ lâm vào tình trạng hết sức khó khằn về mọi mặt, dể giúp họ khắc phục được phần nào khó khăn đó phải trích nột phần di sản của người chết cho họ. Thứ tư, Tiến công lao động Là khoản tiền công phải trả cho ngưòi lao động mà khi còn scng người để lại di sản đã sử dụng sức lao động của họ. Kli người sử dụng sức lao động chết chưa trả được tiền công cho ngưòi lao động, thì phải trích một phần di sản thừa kê để trả cho người lao động. Thứnăm, Tiền bồi thường thiệt hại Lồ khoản tiền mà ngưòi để lại di sản phải bồi thường do xâu phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản mà gây ra thiệt hại cho người bị thiệt hại. Khi ngưòi để lại di sản còn sông chưa kịp bồi thường hoặc bồi thường chưa đủ thì khi ngưòi này chết phải trích ra một phần để bồi thường cho người bị thiệt hại. Ví dụ: Ông A khi còn sống có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại cho B về tài sản và sức khoẻ là 5 triệu đồng, ông A mối bồi thường được 2 triệu cho B thì A bị tai nạn chết. Sô' tiền 3 triệu đồng còn lại phải thanh toán cho B từ di sản của A. Thứsáu, Thuế và các khoản nợ khác đối VỚI nhà nước Là các khoản tiền mà người để lại di sản khi còn sống phải nộp thuế cho nhà nước (như thuế thu nhập, thuế kinh 267
  17. Di sản thừa kế theo pháp luật dân sự Việt Nam... doanh, thuế chuyển quyền sử dụng đất...) và các khoản tiền mà ngưòi này còn nợ của Nhà nưốc, mà họ chưa thực hiện hoặc thực hiện chưa đủ thì chết. Thứ bảy, Tiển phạt Là khoản tiền mà một ngưòi phải nộp phạt, bao gồm những khoản tiền do bị phạt hành chính, những khoản tiền phạt do vi phạm hợp đồng, nhưng họ chưa nộp thì đã chết. Thứ tám, Các khoản nợ khác đối với cá nhân, pháp nhân hoặc một chủ thể khác Là những khoản tiền mà người để lại di sản phải thực hiện trưốc ngưòi khác, trước pháp nhân hoặc trưốc tổ chức được xác lập thông qua các giao dịch dân sự hoặc thông qua các hợp đồng kinh tế. Nếu ngưòi để lại di sản chết mà chưa thực • hiện *được các • khoản nợ nói • trên thì các chủ nợ được • • quyền thanh toán từ di sản của ngưòi chết. Thứ chín, Chi phí cho việc báo quản di sản Đó là nhũng khoản tiền mà người bảo quản di sản đã chi dùng một cách hợp lý cho việc bảo quản giá trị cùa di sản (như sửa chữa, bảo daỡng những hư hỏng tự nhiên, tiền chi cho việc phòng ngừa, tránh mất mát, tẩu tán di sản, tiền xây tường bao hàng rào... và các khoản thù lao nếu có mà ngưòi đó được hưỏng. 268
  18. Phần III. Thanh toán vồ phán chia di sản thừa kế Thứ mười, Các chi phí khác Sau khi đã thanh toán các khoản kể trên, trước khi hưởng di sản, nếu có các chi phí khác liên quan đến di sản mà ảnh hưởng đến lợi ích vật chất của một người nào đó bất kỳ, thì ngưòi thừa kế cũng phải thanh toán các khoản chi phí khác đó. Qua quy định của Điều 683 BLDS năm 2005 về thứ tự ưu tiên thanh toán, chúng tôi cho rằng việc quy định tại các khoản 5, 6 và 8 là chưa hợp lý, gây bất lợi cho một số cá nhân, pháp nhân hoặc các tổ chức đối vổi các khoản nợ mà người thừa kế phải có trách nhiệm thanh toán. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, nhà nưóc khuyến khích phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự điều tiết của Nhà nước, thì mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng cho nên họ có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong giao dịch dân sự về yêu cầu pháp luật bảo vệ quyền lợi hợp pháp; về đòi nỢ, thanh toán. Nên họ phải có vị trí được đòi thanh toán ngang nhau mà không thể trước sau như khoản 5, 6, và 8 Điều 683 BLDS năm 2005. II. PHẢN CHIA DI SẢN THỪA KẾ Sau khi mở thừa kế thì bất cứ lúc nào những người thừa kế cũng có quyền yêu cầu chia di sản, nhưng trong thực Itế rất ít khi di sản được đem chia ngay, thường là qua 269
  19. Di sản thừa kế theo pháp luật dán sự Việt Nam... một thồi gian dài hay ngắn kể từ khi mỏ thừa kế, tuỳ thuộc vào sự thoả thuận của những ngưòi thừa kế. Việc di sản được chia ngay có rất nhiều lý do có thể là sự vắng mặt các thừa kế viên, di sản rải rác nhiều nơi chưa tập hợp được, hoặc là do ý muốn của người quá cố, hoặc do thoả thuận của những người thừa kế... Bởi vậy, việc bảo quản di sản diễn ra trước, trong và sau khi chia di sản lại càng có ý nghĩa hơn trong việc bảo đảm, giữ nguyên giá trị của di sản thừa kế. Về thời điểm phân chia di sản, so sánh với luật cũ chúng ta thấy Điều 369 Bộ dân luật Bắc kỳ và Điều 371 Bộ luật Trung kỳ đều quy định rằng: “Không người thừa k ế nào bị bó buộc phải đ ể lại di sản mà không chia. Tuy nhiên những người thừa k ế củng có th ể thoả thuận nhaụ hoàn thành việc phân chia trong một thời gian. Trong khi chưa phân chm tài sản ấy vẫn cứ đăng ký nguyên tên người mệnh một trong địa hộ". Bộ luật dân sự Sài Gòn năm 1972 tại Điều 541 cũng quy định về việc những ngưòi thừa kế có thể thoả thuận hoàn việc chia thừa kế nhưng thời hạn không quả 5 năm. Bộ luật Dân sự Pháp (phần sửa đểi) cũng quy định rằng: “Không ai có thể bị bó buộc trong tình trạng vị phân và lúc nào củng có thể yêu cầu chia di sản, trừ khi có tạm hoãn do bản án hoặc• thoả thuận, việc tạm hoãn mà• *do •Toà• quyết định với thời hạn không quá 2 năm, nếu việc phân chia ngay có thể làm thiệt hại đến di sản vị phân." Bộ luật 270
  20. Phẩn III. Thanh toán và phân chia di sản thừa kế Dân sự Nhật Bản tại Điều 907 quy định: “Các đồng thừa k ế có thể thoả thuận chia tài sản vào bất cứ lúc nào, trừ trường hợp việc chia tài sản đã bị cấm bời di chúc của người đ ể lại thừa kế. Nếu có lý do đặc biệt thì toà hôn nhân gia đình có thể cấm chia một phần hoặc toàn bộ di sản”. Như vậy, các Bộ luật dân sự của Việt Nam trước đây và luật dân sự một số nước trên thế giới đã quy định ngưòi thừa kế có quyền yêu cầu chia di sản thừa kế bất cứ lúc nào, nhưng cũng đồng thòi quy định cho việc thoả thuận hoãn việc phân chia trong một thời gian nhất định, quy định cho Toà án có quyền hoãn việc phân chia di sản, hoặc phân chia di sản sau một thời gian nhất định, thì chỉ khi hết thòi hạn đó di sản mới được đem chia. Việc quy định như vậy là hết sức cần thiết, sẽ tôn trọng ý chí định đoạt của người để lại di sản, tôn trọng và bảo vệ sự thoả thuận của những ngưòi thừa kê đồng thòi trong trường hợp cần thiết (việc phân chia ngay gây thiệt hại đến giá trị của di sản, hoặc không đảm bảo cho việc khai thác di sản...) Toà án có quyền quyết định hoãn việc phân chia di sản. Hiện nay, BLDS nước ta chỉ mới quy định thòi điểm phát sinh quyền và nghĩa vụ của người thừa kế từ thòi điểm tứ thừa kế. Điểu đó có nghĩa là kể từ thời điểm mở thừa kế thì người thừa kế có quyền kiểm kê, bảo quản, phân chia di sản thừa kế. Việc phân chia di sản thừa kế bị hạn chế theo quy định của Điều 686 BLDS năm 2005: “Trorìụg trường hợp theo ý chí của người lập di chúc hoặc 271
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2