PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
NHỮNG KHÓ KHĂN THƯỜNG GẶP<br />
CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM<br />
HÀ NỘI KHI HỌC DẠNG BỊ ĐỘNG TIẾNG PHÁP<br />
VÀ GIẢI PHÁP TRONG GIẢNG DẠY<br />
TRẦN HƯƠNG LAN*<br />
*<br />
Đại học Sư phạm Hà Nội, lancuong70@yahoo. com<br />
Ngày nhận bài: 19/11/2017; ngày sửa chữa: 13/12 /2017; ngày duyệt đăng: 30/12/2017<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Ngữ pháp đóng vai trò quan trọng trong việc học một ngôn ngữ nói chung và trong việc học tiếng<br />
Pháp nói riêng. Để học tốt tiếng Pháp, ngoài rất nhiều yếu tố khác, người học cần phải nắm vững<br />
những hiện tượng ngữ pháp cơ bản. Một trong những hiện tượng ngữ pháp cơ bản và tương đối<br />
phổ biến của tiếng Pháp là dạng câu bị động. Tuy nhiên, trong quá trình giảng dạy tại trường Đại học<br />
Sư phạm Hà Nội, chúng tôi nhận thấy, sinh viên thường gặp rất nhiều khó khăn khi học hiện tượng<br />
ngữ pháp này. Nội dung chủ yếu của bài viết là phân tích những khó khăn thường gặp của sinh viên<br />
khi học dạng bị động, từ đó tìm ra nguyên nhân và đề xuất các biện pháp giải quyết trong giảng dạy.<br />
Từ khóa: dạng bị động, dịch thuật, giảng dạy ngữ pháp<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
1. ĐẶT VẤN ĐỀ Trong quá trình giảng dạy môn ngữ pháp cho<br />
sinh viên khoa Pháp, thông qua việc thống kê,<br />
Hiện nay, đa số các sinh viên chuyên ngành phân tích các lỗi sai của sinh viên khi họ thực hành<br />
tiếng Pháp ở trường Đại học Sư phạm Hà Nội có trên lớp và làm các bài tập tự học, chúng tôi nhận<br />
đầu vào là không và bắt đầu học tiếng Pháp từ đầu. thấy các sinh viên gặp khá nhiều khó khăn khi<br />
Trong khi đó sinh viên chuyên ngành tiếng Anh khi học về dạng bị động đặc biệt là khi chuyển từ câu<br />
bước vào đại học đa số đã đạt được trình độ B1. chủ động sang bị động và ngược lại hoặc khi dịch<br />
Sau 4 năm học, sinh viên tiếng Pháp và tiếng Anh những câu bị động từ tiếng Pháp sang tiếng Việt và<br />
đều có đầu ra như nhau, đó là C1. Đây quả là bài tiếng Việt sang tiếng Pháp.<br />
toán vô cùng khó đối với không chỉ sinh viên tiếng Nghiên cứu và tìm ra những khó khăn của sinh<br />
Pháp mà ngay cả đối với giảng viên tiếng Pháp. viên khi học hiện tượng ngữ pháp này, từ đó đưa ra<br />
Với thời lượng quá ít ỏi như vậy mà ngữ pháp biện pháp giải quyết và khắc phục là một việc làm<br />
tiếng Pháp tương đối khó nên rất nhiều sinh viên cần thiết để nâng cao chất lượng và hiệu quả trong<br />
không nắm được các hiện tượng ngữ pháp cơ bản. học tập và giảng dạy nội dung này.<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
Số 15 - 9/2018 47<br />
v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY<br />
<br />
<br />
2. CÁC CÁCH DIỄN ĐẠT VÀ GIÁ TRỊ SỬ 2.1.3. Bị động với động từ phản thân<br />
DỤNG CỦA DẠNG BỊ ĐỘNG<br />
Theo Grévisse (1988, tr.541), “Những động từ<br />
2.1. Các cách diễn đạt bị động phản thân có ý nghĩa bị động khi chủ ngữ chịu<br />
hành động mà không hoàn thành hành động”.<br />
2.1.1. Bị động với cấu trúc “être + participe Người ta thường sử dụng động từ phản thân với ý<br />
passé” nghĩa bị động nhưng chỉ dùng đối với chủ ngữ chỉ<br />
vật và luôn không chỉ rõ tác nhân. Chúng ta có sơ<br />
Bị động trong tiếng Pháp được biểu hiện bằng đồ sau:<br />
dạng cấu trúc đặc biệt, gồm: trợ động từ “être” và<br />
quá khứ phân từ (PP) của động từ độc lập. Hãy Pa: SN1 + V + SN2<br />
quan sát sơ đồ chuyển sang dạng bị động như sau: Pp: SN2 + Pronom (de réfléchi) +V<br />
<br />
Pa: SN1 + V + SN2 Ví dụ:<br />
Pp: SN2 + être + PP + par/de + SN1<br />
Pa: On vend ce livre à la librairie Tràng Tiền.<br />
(Pa: câu chủ động, Pp: câu bị động, SN1: ngữ<br />
Pp: Ce livre se vend à la librairie Tràng Tiền.<br />
đoạn danh từ 1, V: động từ, SN2: ngữ đoạn danh từ<br />
2, PP: phân từ quá khứ) 2.1.4. Bị động với cấu trúc “se faire/se laisser<br />
+ infinitif”<br />
Ví dụ: Pa: Nam fait ce travail.<br />
Trong tiếng Pháp, có một cấu trúc đặc biệt của<br />
Pp: Ce travail est fait par Nam.<br />
dạng bị động: se faire/se laisser như trợ động từ +<br />
Đây là cấu trúc bị động được sử dụng nhiều động từ nguyên thể, thay vì động từ “être” + PP.<br />
nhất trong tiếng Pháp. Động từ “se faire” nhấn mạnh vào sự tham gia<br />
một cách có chủ ý của chủ ngữ vào hành động.<br />
2.1.2. Bị động với động từ đối xứng Động từ “se laisser” chỉ sự tham gia một cách<br />
miễn cưỡng hoặc không có chủ đích của chủ ngữ<br />
Động từ đối xứng còn được gọi là động từ có đối với hành động.<br />
khả năng xuất hiện với cùng hệ thống đặc trưng về<br />
mặt hình thái học trong câu bị động và trong câu Ví dụ: (1) Elle se fait aimer de tout le monde.<br />
biến đổi sang dạng bị động. Người ta coi việc sử (2) Elle se laisse aimer de tout le monde.<br />
dụng động từ đối xứng như dạng thức đặc biệt của<br />
bị động vì không phải thêm trợ động từ “être” vào Trong câu (1), “se faire aimer” có ý nghĩa<br />
trong câu bị động. Dạng bị động với những động rằng, cô ấy làm tất cả mọi chuyện để được yêu<br />
từ này đơn giản là một sự thay đổi vị trí danh ngữ. quý; nhưng “se laisser aimer” có ý chỉ rằng, tất<br />
Hãy xem xét dạng bị động của động từ đối xứng cả mọi người yêu quý cô ấy vì sự tử tế của cô ấy<br />
bằng sơ đồ sau: hoặc là vì đặc điểm nào đó của cô ấy. “se laisser<br />
aimer” là một hành động không chủ đích và nó<br />
Pa: SN1 + V + SN2 tương đương với “être aimé”.<br />
Pp: SN2 + V + SN1 (Pp hoàn thành).<br />
Hoặc: SN2 + V (Pp chưa hoàn thành) 2.2. Giá trị sử dụng của dạng bị động<br />
<br />
Ví dụ: Pa: Le vent casse les branches. 2.2.1. Nhấn mạnh<br />
<br />
Pp: Les branches cassent sous le vent./ Khi chúng ta muốn nhấn mạnh một yếu tố của<br />
Les branches cassent. câu, chúng ta sẽ thường đặt yếu tố này đứng đầu<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
48 Số 15 - 9/2018<br />
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v<br />
<br />
<br />
<br />
câu. Dạng bị động cho phép chúng ta nhấn mạnh 2.2.4. Giảm nhẹ cấu trúc<br />
vào bổ ngữ của hành động, bổ ngữ tác nhân và<br />
chính vào hành động. Có những đoạn văn, một cụm danh từ là bổ<br />
ngữ của rất nhiều động từ. Trong trường hợp này,<br />
Ví dụ: Ce film a été projecté plusieurs fois. dạng bị động được dùng để làm cho câu văn ngắn<br />
lại hoặc giảm nhẹ đi và thu hút người đọc vào<br />
Trong câu này, người ta muốn nhấn mạnh vào thành phần quan trọng của câu.<br />
“ce film” chứ không phải là những bộ phim khác<br />
hoặc người chiếu bộ phim đó. Ví dụ: Les patrons ont pris une décision. Les<br />
syndicats ont désapprouvé cette décision. Les<br />
2.2.2. Một yếu tố làm rõ nghĩa travailleurs l’ont mal accueillie. Le gouvernement<br />
va la modifier.<br />
Ví dụ: Pierre est un bon ouvrier. Le patron a (Morsel, 1993, tr.124)<br />
bien apprécié ses mérites.<br />
Câu văn sẽ được giảm nhẹ nếu người ta dùng<br />
Theo nguyên tắc, tính từ sở hữu thay cho một dạng bị động.<br />
đại từ nhân xưng gần với nó hơn. Trong trường<br />
hợp này, người ta sẽ nghĩ rằng ses mérites thay cho La décision prise par les patrons, désapprouvée<br />
les mérites du patron. Nhưng thực tế, ses mérites par les syndicats et mal accueillie par les<br />
travailleurs va être modifiée par le gouvernement.<br />
thay cho les mérites de Pierre. Dạng bị động cho<br />
phép chúng ta loại bỏ đi sự mơ hồ của tính từ sở 2.2.5. Sự trung hòa của ngôn ngữ khoa học<br />
hữu ses.<br />
Trong ngôn ngữ, nhất là trong ngôn ngữ khoa<br />
Pierre est un bon ouvrier. Ses mérites sont bien học, khi muốn đưa ra một thông tin có tính khách<br />
appréciées par le patron. quan hơn, người ta hay dùng dạng bị động.<br />
<br />
2.2.3. Tổ chức lời nói Ví dụ: Le vaccin contre la rage a été découvert<br />
en 1885 par Louis Pasteur.<br />
Theo nguyên tắc trật tự của ngữ đoạn danh từ<br />
(chủ ngữ là danh từ chỉ sự sống đối tượng là Trong ví dụ này, chủ ngữ “Louis Pasteur” làm<br />
danh từ không chỉ sự sống, chủ ngữ số ít đối ra hành động “découvrir” và đứng cuối câu; điều<br />
tượng số nhiều), dạng bị động cho phép thiết lập này làm giảm đi ít nhiều vai trò của ông ấy trong<br />
mối quan hệ này. câu và người đọc sẽ không chú ý đến sự hiện diện<br />
của ông ấy. Chính vì vậy, “Le vaccin contre la rage<br />
Ví dụ: Je suis trompé par cette nouvelle. a été découvert en 1885 par Louis Pasteur.” diễn<br />
ra một cách khách quan.<br />
Thay vì: Cette nouvelle me trompe.<br />
3. NHỮNG KHÓ KHĂN THƯỜNG GẶP<br />
Phát ngôn dạng chủ động “Cette nouvelle me CỦA SINH VIÊN KHI HỌC DẠNG BỊ ĐỘNG<br />
trompe” thì không thông dụng bằng phát ngôn TIẾNG PHÁP<br />
dạng bị động “Je suis trompé par cette nouvelle”.<br />
Trong các cách diễn đạt bị động của tiếng Pháp,<br />
Hoặc: “L’embouteillage augmente par les “être +PP” là cấu trúc bị động thường gặp nhất và<br />
vacances” thì được chấp nhận hơn là “Les sinh viên cũng gặp khó khăn nhiều nhất khi học<br />
vacances augmentent l’embouteillage”. cấu trúc bị động này. Vì vậy trong phần này, chúng<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
Số 15 - 9/2018 49<br />
v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY<br />
<br />
<br />
tôi sẽ tập trung phân tích những khó khăn của sinh remonter, redescendre…, nhiều sinh viên cho rằng,<br />
viên khi học dạng bị động “être + PP”. đó là câu chủ động động từ chia ở quá khứ.<br />
<br />
Để tìm ra những khó khăn của sinh viên, chúng Ví dụ :<br />
tôi đã tiến hành điều tra về việc sử dụng câu bị<br />
động của 30 sinh viên năm thứ 2 khoa Pháp trường Le mobilier du jardin était rentré chaque<br />
Đại học Sư phạm Hà Nội. Chúng tôi chọn sinh automne dans une petite cabane en sapin.<br />
viên năm thứ 2 là đối tượng nghiên cứu vì họ vừa<br />
được học hiện tượng ngữ pháp này. Cuộc điều tra Dès que la malle aura été redescendue à la<br />
của chúng tôi gồm 2 phần: cave, la chambre sera vite en ordre.<br />
<br />
Phần 1: Phiếu điều tra La pendule est remontée chaque dimanche à<br />
midi. <br />
Phần 2: Bài test về cách sử dụng dạng bị động (Cardiot-Cueilleron, 1992, tr.77)<br />
trong tiếng Pháp<br />
Ba câu trên, các chủ ngữ “le mobilier du<br />
Phiếu điều tra gồm 10 câu giúp chúng tôi biết jardin, la malle, la pendule” không thực hiện các<br />
được sinh viên đã nắm được khái niệm của câu hành động “rentrer, redescendre, remonter” mà<br />
bị động trong tiếng Pháp chưa, khi học dạng bị chịu tác động của hành động. Vì vậy, ba câu này<br />
động họ gặp những khó khăn gì và nguyên nhân không thể là câu chủ động được, chúng phải là câu<br />
của những khó khăn đó. Bài test gồm 3 bài tập: bị động. Nhưng hầu hết các sinh viên cho rằng, đó<br />
nhận biết câu bị động và câu chủ động, chuyển là câu chủ động, động từ chia ở quá khứ với trợ<br />
từ câu chủ động sang bị động và ngược lại, dịch động từ “être”.<br />
từ tiếng Việt sang tiếng Pháp và tiếng Pháp sang<br />
tiếng Việt. Sau khi nhận được bài test từ các sinh 3.2. Xác định sai các thành phần của câu<br />
viên, chúng tôi đã thống kê tất cả các lỗi mà sinh<br />
viên gặp phải. Kết quả của phiếu điều tra và bài Muốn chuyển đúng một câu chủ động sang bị<br />
test là cơ sở để chúng tôi xác định được những khó động hoặc ngược lại, trước hết người học cần phải<br />
khăn và nguyên nhân của những khó khăn, cũng xác định đúng các thành phần của câu. Nhưng điều<br />
như đưa ra một số đề xuất sư phạm. này cũng là một trở ngại đối với nhiều sinh viên.<br />
<br />
3.1. Chưa nhận biết được câu chủ động và Ví dụ: L’entreprise réembauchera les ouvrières<br />
câu bị động licenciées il y a un mois.<br />
(Morsel, 1993, tr.120)<br />
Rất nhiều sinh viên không thể phân biệt được<br />
câu chủ động và câu bị động. Các em thường nhầm Trong câu này “il y a un mois” không phải là bổ<br />
lẫn giữa hai loại câu này. Sở dĩ có sự nhầm lẫn này ngữ của cả câu mà nó chỉ là bổ ngữ của nhóm danh<br />
vì câu bị động tiếng Pháp có sự tham gia của trợ từ “les ouvrières licenciées”. Nhưng hầu hết các<br />
động từ “être”, trong khi đó, động từ tiếng Pháp sinh viên mà chúng tôi tiến hành điều tra đều cho<br />
khi chia ở quá khứ cũng có một số động từ được rằng “il y a un mois” là bổ ngữ của cả câu, họ đã<br />
chia với trợ động từ être. Chính sự giống nhau không để ý đến thời của động từ “réembauchera”.<br />
này đã gây cho các em khá nhiều khó khăn trong Động từ “réembauchera” chia ở thì tương lai vì<br />
việc nhận biết. Đặc biệt là nếu trong câu bị động vậy “il y a un mois” (cách đây một tháng) không<br />
xuất hiện những động từ khi chia ở quá khứ có thể là bổ ngữ của cả câu. Nếu “il y a un mois” là<br />
thể chia với trợ động từ “être” hoặc “avoir” như bổ ngữ của cả câu, động từ “réembaucher” phải<br />
monter, descendre, sortir, passer, rentrer, retourner, chia ở quá khứ không phải ở tương lai.<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
50 Số 15 - 9/2018<br />
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v<br />
<br />
<br />
<br />
Chính vì xác định sai các thành phần của câu Mặt khác thời, thức của động từ tiếng Pháp quá<br />
mà nhiều sinh viên đã chuyển sai câu trên. phức tạp, quá khác biệt so với tiếng Việt. Đây là<br />
một trở ngại lớn nhất đối với sinh viên học tiếng<br />
Câu sai: Les ouvrières licenciées seront Pháp. Lỗi sai liên quan đến động từ là lỗi mà các<br />
réembauchées par l’entreprise il y a un mois. sinh viên mắc nhiều nhất trong khi sử dụng câu bị<br />
động tiếng Pháp.<br />
Câu đúng: Les ouvrières licenciées il y a un<br />
mois seront réembauchées par l’entreprise 3.4. Quá lệ thuộc vào cách diễn đạt của tiếng<br />
Pháp hoặc tiếng Việt<br />
Trong quá trình giảng dạy, chúng tôi nhận thấy,<br />
việc các sinh viên xác định sai thành phần của câu Do chưa nắm vững những nét tương đồng và<br />
còn do vốn từ vựng của các em quá nghèo nàn, các khác biệt giữa hai ngôn ngữ Pháp-Việt đã làm cho<br />
em không hiểu được hết nghĩa của câu cần chuyển. người học quá lệ thuộc vào cách diễn đạt của tiếng<br />
Do không hiểu hết được nghĩa nên các em đã xác Pháp hoặc tiếng Việt.<br />
định sai thành phần của câu. Vì xác định sai thành<br />
phần của câu, các em đã chuyển sai từ câu chủ Khi dịch sang tiếng Việt không nhất thiết phải<br />
động sang bị động hoặc ngược lại. sử dụng hư từ bị, được. Hai hư từ này làm cho câu<br />
văn trở nên nặng nề.<br />
3.3. Không nắm vững các hiện tượng ngữ<br />
pháp cơ bản khác. Ví dụ: Il est épuisé par ses voyages incessants.<br />
Une promesse qui a été faite doit être tenue.<br />
Ngữ pháp tiếng Pháp rất khó và có nhiều điểm (Cardiot-Cueilleron, 1992, tr.81)<br />
không giống với tiếng Việt. Vì vậy, đa số các sinh<br />
viên chưa nắm vững các hiện tượng ngữ pháp cơ có thể dịch như sau: <br />
bản như đại từ làm bổ ngữ trực tiếp, gián tiếp, thời<br />
thể của động từ, vấn đề hợp giống, số của phân từ Anh ta kiệt sức vì những chuyến đi không ngừng.<br />
quá khứ… Chính vì không nắm vững những kiến Một lời đã hứa phải ráng giữ.<br />
thức ngữ pháp cơ bản nên các sinh viên đã mắc rất (Nguyễn Dũng, 2005, tr.158)<br />
nhiều kiểu lỗi khác nhau.<br />
Nhưng đa số sinh viên sử dụng hai hư từ này<br />
Ví dụ: “On ne l’a pas promue.” để dịch hai câu trên.<br />
<br />
Một số sinh viên không tìm được bổ ngữ trực Anh ta bị kiệt sức vì những chuyến đi không ngừng.<br />
tiếp của câu này vì bổ ngữ trực tiếp thường đứng Một lời được hứa thì phải được làm.<br />
sau động từ nhưng trong trường hợp này, bổ ngữ<br />
Một lý do khác làm cho câu văn tiếng Việt trở<br />
trực tiếp được thay bằng đại từ làm bổ ngữ và đặt<br />
nên nặng nề, đó là các sinh viên đã quá lạm dụng<br />
trước động từ. Do không xác định được bổ ngữ<br />
từ bởi khi dịch bổ ngữ tác nhân.<br />
trực tiếp nên họ cho rằng, câu này không chuyển<br />
được sang dạng bị động. Anh ta bị kiệt sức bởi những chuyến đi không<br />
ngừng.<br />
Có những sinh viên xác định được đại từ “l’” là<br />
bổ ngữ trực tiếp của câu, nhưng lại không biết “l’” Ngược lại khi dịch từ tiếng Việt sang tiếng<br />
là “le” hay “la”. Họ đã không để ý đến phân từ Pháp, một số sinh viên lại quá lệ thuộc vào câu tiếng<br />
quá khứ “promue”. Do không biết “l’” là “le” hay Việt nên đã dịch sai. Trong các câu tiếng Việt sau:<br />
“la” nên họ không biết chủ ngữ của câu bị động sẽ<br />
là “Il” hay “Elle”. Vì vậy có những em đã chuyển Chúng tôi đã rất bối rối vì sự phát hiện này.<br />
câu trên thành: *Il n’a pas été promu. (Nguyễn Dũng, 2005, tr.158)<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
Số 15 - 9/2018 51<br />
v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY<br />
<br />
<br />
Gương mặt cô ta ướt đẫm nước mắt. chính sinh viên phải tự tìm ra trên cơ sở phân tích<br />
(Nguyễn Dũng, 2005, tr.157) các ví dụ. Có như vậy, những kiến thức sinh viên<br />
thu được sẽ được nhớ lâu hơn.<br />
Trong hai câu này không có hư từ bị, được<br />
nên khi dịch sang tiếng Pháp các sinh viên lại để 4.2. Đưa nội dung giảng dạy các hiện tượng<br />
các động từ troubler, mouiller ở dạng chủ động vì ngữ pháp nói chung và câu bị động nói riêng<br />
vậy có một số câu sai kiểu như sau: vào các giờ thực hành tiếng.<br />
<br />
* Nous avons troublé à cause de cette Dạy một ngoại ngữ, đó là làm cho người học<br />
révélation. phát triển toàn diện cả bốn kỹ năng: nghe, nói, đọc,<br />
viết. Ngữ pháp đóng một vai trò quan trọng trong<br />
* Son visage mouille les larmes. việc học ngoại ngữ. Người học phải nắm chắc ngữ<br />
pháp để có thể học tốt bốn kỹ năng trên. Ngược<br />
Thực ra hai câu này khi dịch sang tiếng Pháp các lại, thông qua bốn kỹ năng trên, người ta có thể<br />
động từ troubler, mouiller phải để ở dạng bị động dạy và học ngữ pháp. Vì vậy, giảng viên không chỉ<br />
dạy ngữ pháp nói chung và câu bị động nói riêng<br />
Nous avons été troublés par cette révélation. trong các giờ ngữ pháp mà có thể đưa nội dung<br />
(Cardiot-Cueilleron, 1992, tr.81) này vào trong quá trình dạy các kỹ năng nghe, nói,<br />
đọc, viết.<br />
Son visage était mouillé de larmes.<br />
(Cardiot-Cueilleron, 1992, tr.80) 4.3. Một số tiêu chí phân biệt “être + PP”<br />
dạng bị động với “être + PP” hình thái động từ.<br />
4. GIẢI PHÁP TRONG GIẢNG DẠY<br />
Một trong những nguyên nhân sử dụng sai<br />
Xuất phát từ những khó khăn của sinh viên đã<br />
được phân tích ở trên, chúng tôi xin đưa ra một số dạng bị động trong tiếng Pháp của sinh viên Việt<br />
đề xuất về việc giảng dạy và dịch thuật nhằm giúp nam học tiếng Pháp đó là người học chưa phân<br />
cho người học có thể sử dụng tốt hơn dạng bị động biệt được câu chủ động và câu bị động đặc biệt là<br />
trong tiếng Pháp. phân biệt câu chủ động có động từ chia ở quá khứ<br />
với trợ động từ être với câu bị động. Để phân biệt<br />
4.1. Đổi mới phương pháp giảng dạy hai dạng này, chúng ta có thể dựa vào những dấu<br />
hiệu như sau:<br />
Từ trước đến nay, khi dạy một hiện tượng ngữ<br />
pháp, giảng viên thường sử dụng phương pháp - Thứ nhất, trong câu chủ động, chủ ngữ làm<br />
truyền thống: truyền đạt những kiến thức cho sinh ra hành động trong khi trong câu bị động, chủ ngữ<br />
viên. Người học rất thụ động trong quá trình nắm chịu tác động của hành động do bổ ngữ tác nhân<br />
bắt kiến thức. “Những năm gần đây các tài liệu gây ra.<br />
giáo dục và dạy học ở nước ngoài và trong nước<br />
thường nói tới việc cần thiết phải chuyển từ dạy Ví dụ:<br />
học giảng viên trung tâm sang dạy học học sinh Nous sommes rentrés tard à la maison. (Pa).<br />
trung tâm” (Trần Bá Hoành, 2003, tr.1). Chúng ta<br />
nên áp dụng phương pháp giảng dạy mới này khi Nous sommes trompés par ce garçon-là. (Pp).<br />
dạy một hiện tượng ngữ pháp nói chung và dạy câu<br />
bị động nói riêng. Trước tiên, giảng viên yêu cầu - Thứ hai, trong cấu trúc bị động, thời của động<br />
người học quan sát các ví dụ về câu chủ động và bị từ phụ thuộc vào thời động từ “être” chứ không<br />
động. Giảng viên sẽ không phải là người giới thiệu phụ thuộc vào sự kết hợp giữa “être + PP” như<br />
cấu trúc của câu bị động, quy tắc chuyển đổi mà trong câu chủ động.<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
52 Số 15 - 9/2018<br />
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v<br />
<br />
<br />
<br />
Ví dụ: Il est admis à l’école. (Pp chia thời hiện tại) - Cuối cùng, về mối quan hệ biến đổi, dạng bị<br />
động “être + PP” là kết quả của một sự chuyển đổi<br />
Il a été admis à l’école. (Pp chia thời quá khứ) từ mệnh đề chủ động. Trong khi dạng thức kép “être<br />
+ PP” thể hiện mệnh đề chủ động. Cấu trúc này<br />
Elle est allée travailler en France (Pa chia thời không phải là kết quả của bất cứ sự biến đổi nào.<br />
quá khứ kép)<br />
Ví dụ: Ce pont a été construit en 1990.<br />
Elle était allée travailler en France. (Pa chia<br />
thời tiền quá khứ). Câu này được chuyển từ câu “On a construit<br />
ce pont en 1990.”<br />
- Thứ ba, về mặt hình thức và ngữ nghĩa,<br />
những yếu tố tạo nên cấu trúc bị động thì khá độc Trong khi câu “Je suis sortie avec mes amis.”<br />
lập với nhau: trong cấu trúc bị động, quá khứ phân không phải là sự chuyển đổi từ bất cứ một câu nào.<br />
từ được dùng với tư cách là tính ngữ (tức là không<br />
có động từ “être”) và có giá trị bị động như cấu Trên đây là bốn tiêu chí giúp cho người học<br />
trúc này. phân biệt câu chủ động chia ở quá khứ với trợ<br />
động từ être và câu bị động với trợ động từ être.<br />
Ví dụ: Une lettre est écrite = Une lettre écrite<br />
4.4. Xác định rõ thành phần của câu trước<br />
La moto a été réparée = La moto réparée. khi chuyển từ câu chủ động sang bị động hoặc<br />
ngược lại.<br />
Trong cấu trúc bị động, quá khứ phân từ này<br />
có thể được thay thế bằng đại từ nhân xưng trung Một nguyên nhân khác khiến sinh viên chuyển<br />
lập “le”. sai câu chủ động sang bị động, đó là xác định sai<br />
thành phần của câu. Vì vậy, giảng viên cần yêu cầu<br />
Ví dụ: Tu es aimé de tout le monde, tu l’es sinh viên xác định rõ thành phần của câu trước khi<br />
vraiment. chuyển đặc biệt thành phần chủ ngữ, bổ ngữ trực<br />
tiếp trong câu chủ động và tác nhân trong câu bị<br />
Ngoài ra, khác với hình thái về thời gian, quá động. Việc này giảng viên cũng thường không yêu<br />
khứ phân từ có thể đứng trước động từ “être”. cầu sinh viên vì họ nghĩ rằng, đây là vấn đề đơn<br />
giản. Nhưng thực tế, không ít sinh viên chuyển sai<br />
Ví dụ: “Aimé, tu l’étais.”<br />
vì không xác định được thành phần của câu.<br />
Khi quan sát những ví dụ trên, những yếu tố<br />
4.5. Các hiện tượng ngữ pháp cơ bản phải<br />
cấu trúc bị động không thể tạo ra đơn vị phân tích<br />
thường xuyên được củng cố trong suốt quá<br />
giống như dạng thức kép của động từ chủ động.<br />
trình học.<br />
Dạng thức này đặc trưng bởi sự kết hợp chặt chẽ<br />
của những thành tố. Để học tốt dạng bị động, người học phải nắm<br />
vững rất nhiều các hiện tượng ngữ pháp khác.<br />
Ví dụ: Mon père est arrivé<br />
Nhưng thực tế các sinh viên thường không nhớ hết<br />
Người ta không nói: Mon père arrivé. các hiện tượng ngữ pháp đã học. Chính vì vậy, khi<br />
học một hiện tượng ngữ pháp mới giảng viên cần<br />
Đối với câu “Il est arrivé” quá khứ phân từ giúp các em ôn lại những hiện tượng ngữ pháp có<br />
không thể thay bằng đại từ le hoặc đứng trước trợ liên quan. Ví dụ khi học về câu bị động, sinh viên<br />
động từ être. bắt buộc phải nắm vững một số các hiện tượng<br />
ngữ pháp cơ bản sau: thời thức của động từ, đại từ<br />
Người ta không nói: Il l’est hoặc Arrivé, il l’est. làm bổ ngữ trực tiếp, hợp giống số của phân từ quá<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
Số 15 - 9/2018 53<br />
v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY<br />
<br />
<br />
khứ… Nói tóm lại các vấn đề ngữ pháp phải thường xuyên được củng cố, nhắc lại và nâng cao trong suốt<br />
quá trình học ngoại ngữ.<br />
<br />
4.6. So sánh câu bị động trong tiếng Anh và tiếng Pháp<br />
<br />
Hiện nay, hầu như sinh viên chuyên ngành tiếng Pháp đều là sinh viên được xét tuyển từ tổ hợp Anh,<br />
Toán, Ngoại ngữ, có nghĩa là họ đã học tiếng Anh ít nhất 3 năm ở phổ thông và tiếng Anh là một trong<br />
ba môn xét tuyển vào đại học. Như vậy, họ đã đạt được một trình độ tiếng Anh tương đối tốt. Tiếng Anh<br />
và tiếng Pháp có chung nguồn gốc là cùng thuộc hệ ngôn ngữ Latinh nên hai thứ tiếng này có rất nhiều<br />
điểm tương đồng về mặt từ vựng và cấu trúc ngữ pháp. Đây là một lợi thế cho những người đã biết tiếng<br />
Anh học tiếng Pháp (Nguyễn Thị Dương Nga, 2017, tr.16). Dạng bị động của tiếng Anh có khá nhiều<br />
điểm giống tiếng Pháp, nhất là vấn đề liên quan đến thời trong câu bị động trong khi đó, vấn đề này trong<br />
tiếng Việt lại hoàn toàn khác biệt. Nhờ đặc điểm này chúng tôi xin đưa ra một đề xuất như sau: đối với<br />
những sinh viên thi đầu vào bằng tiếng Anh, họ đã hiểu rõ cách dùng dạng bị động trong tiếng Anh, vì<br />
vậy, giảng viên có thể chỉ cho họ những điểm giống nhau của dạng bị động trong tiếng Anh và tiếng Pháp.<br />
<br />
Ví dụ :<br />
<br />
Câu chủ động<br />
Câu bị động tiếng Pháp Câu bị động tiếng Anh<br />
tiếng Pháp<br />
Cấu SN2 + être + PP (participe SN2 + to be + PP (past participle)<br />
SN1 + V + SN2<br />
trúc passé) + par/de +SN1 + by +SN1<br />
V(présent) être (présent) + PP to be (simple present) + PP<br />
V(passé composé) être (passé composé) + PP to be (simple past) + PP<br />
Thời, V(imparfait) être (imparfait) + PP to be (past continuous) + PP<br />
thức V(plus-que-parfait) être (plus-que-parfait) + PP to be (past pefect) + PP<br />
của V(futur simple) être ( futur simple) + PP to be (simple future) + PP<br />
động V(conditionnel être (conditionnel présent)+ PP to be (present conditionnel + PP<br />
từ présent)<br />
V(conditionnel être (conditionnel passé) + PP to be (past conditionnel) + PP<br />
passé)<br />
<br />
Bằng cách so sánh này sinh viên đã học tiếng Anh sẽ hiểu về dạng bị động tiếng Pháp một cách dễ<br />
dàng hơn.<br />
<br />
4.7. Chú ý những nét khác biệt giữa tiếng Pháp và tiếng Việt trong khi dịch.<br />
<br />
Vấn đề dịch thuật, sinh viên thường quá lệ thuộc vào cách diễn đạt tiếng Pháp hoặc tiếng Việt. Sở dĩ<br />
như vậy vì người học chưa thấy rõ được những nét tương đồng và khác biệt giữa hai ngôn ngữ. Vì vậy<br />
trong quá trình giảng dạy giảng viên cần phải so sánh đối chiếu hiện tượng ngữ pháp này giữa hai ngôn<br />
ngữ. Nếu được phân tích kỹ những nét tương đồng và khác biệt giữa dạng bị động tiếng Pháp và lối nói<br />
tiếp thụ trong tiếng Việt thì người học sẽ thấy rằng, không nhất thiết cứ phải chuyển một câu bị động của<br />
tiếng Pháp thành lối nói tiếp thụ trong tiếng Việt. Trong những trường hợp phải chỉ rõ bổ ngữ tác nhân thì<br />
khi dịch sang tiếng Việt cũng không nhất thiết phải dùng cấu trúc có sự tham gia của từ bởi mà người học<br />
có thể dùng cấu trúc có từ do, vì.<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
54 Số 15 - 9/2018<br />
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v<br />
<br />
<br />
<br />
Il est épuisé par ses voyages incessants. Tài liệu tham khảo:<br />
(Cardiot-Cueilleron, 1992, tr.77)<br />
Nguyễn Dũng (2005), 350 exercices (Niveau<br />
Anh ta kiệt sức vì những chuyến đi không supérieur1), Bản dịch từ tiếng Pháp, NXB Thanh<br />
ngừng. (Nguyễn Dũng, 2005, tr.158) niên, TP Hồ Chí Minh.<br />
<br />
Trần Bá Hoành (2003), “Dạy học lấy người học làm<br />
Còn trong những trường hợp cần thể hiện sự<br />
trung tâm: nguồn gốc, bản chất, đặc điểm”, Tạp chí<br />
đánh giá của người nói đối với tác động của hành<br />
Thông tin khoa học giáo dục, số 96, tr.1-5.<br />
động lên đối tượng thì người học phải có sự cân<br />
nhắc giữa cấu trúc có các từ bị và được. Trần Hương Lan, Trần Thị Hoàng Minh (2011), So sánh<br />
dạng bị động trong tiếng Pháp và trong tiếng Việt,<br />
5. KẾT LUẬN Đề tài nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Sư<br />
Dạng bị động trong tiếng Pháp là một hiện phạm Hà Nội.<br />
tượng ngữ pháp tương đối khó. Để học tốt dạng Nguyễn Thị Dương Nga (2017), “Mạo từ trong tiếng<br />
bị động đòi hỏi người học phải nắm vững khá Pháp và tiếng Anh - Một số lưu ý trong giảng dạy<br />
nhiều các hiện tượng ngữ pháp cơ bản khác. Trong môn ngoại ngữ 2 tiếng Pháp cho học viên, sinh viên<br />
khi đó, sinh viên khoa tiếng Pháp hầu như chưa chuyên ngành tiếng Anh tại Học viện Khoa học<br />
được học tiếng Pháp ở bậc phổ thông nên việc<br />
Quân sự”, Tạp chí Khoa học Ngoại ngữ Quân sự,<br />
nắm chắc tất cả các hiện tượng ngữ pháp không<br />
số 07, tr.16-25.<br />
phải là dễ đối với các em. Vì vậy, chúng tôi đã<br />
thực hiện nghiên cứu này với hy vọng nó sẽ là một Cardiot-Cueilleron J. et autres (1992), 350 exercices<br />
tài liệu hữu ích cho giảng viên và sinh viên khoa (Niveau supérieur1), Hachette, Paris.<br />
tiếng Pháp nhằm giúp cho giảng viên có những<br />
Grévisse M. (1988), Le Bon Usage – 3è édition, Duculot,<br />
phương pháp giảng dạy thích hợp, còn sinh viên<br />
Paris.<br />
nhận ra lỗi của mình và có thể tránh được các lỗi<br />
đó trong quá trình học dạng bị động tiếng Pháp./. Morsel M.H. et autres (1993), L’exercisier, Grenoble.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
A STUDY ON THE DIFFICULTIES IN LEARNING THE FRENCH PASSIVE VOICE<br />
ENCOUNTERED BY THE STUDENTS AT HANOI NATIONAL UNIVERSITY<br />
OF EDUCATION AND SEVERAL SUGGESTIONS TO TEACHING METHODS<br />
TRAN HUONG LAN<br />
Abstract: Grammar plays an important role in learning a language in general and in learning French<br />
in particular. To learn French well, besides many other factors, the learner must first master basic<br />
grammatical phenomena. One of the most basic and popular grammatical phenomena in French is<br />
the passive voice. During the process of teaching, we realize that students often have to face a lot<br />
of difficulties in learning this grammatical phenomenon. This report aims to analyse the common<br />
difficulties of students in learning passive voice, as well as identify the reasons and then propose<br />
some suggestion to improve teaching methods.<br />
Keywords: passive voice, grammatical teaching methods, translation<br />
Received: 19/11/2017; Revised: 13/12/2017; Accepted for publication: 30/12/2017<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
Số 15 - 9/2018 55<br />