intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Những khó khăn thường gặp của sinh viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội khi học dạng bị động tiếng Pháp và giải pháp trong giảng dạy

Chia sẻ: ViBoruto2711 ViBoruto2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:9

71
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nội dung chủ yếu của bài viết là phân tích những khó khăn thường gặp của sinh viên khi học dạng bị động, từ đó tìm ra nguyên nhân và đề xuất các biện pháp giải quyết trong giảng dạy.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Những khó khăn thường gặp của sinh viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội khi học dạng bị động tiếng Pháp và giải pháp trong giảng dạy

PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> NHỮNG KHÓ KHĂN THƯỜNG GẶP<br /> CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM<br /> HÀ NỘI KHI HỌC DẠNG BỊ ĐỘNG TIẾNG PHÁP<br /> VÀ GIẢI PHÁP TRONG GIẢNG DẠY<br /> TRẦN HƯƠNG LAN*<br /> *<br /> Đại học Sư phạm Hà Nội,  lancuong70@yahoo. com<br /> Ngày nhận bài: 19/11/2017; ngày sửa chữa: 13/12 /2017; ngày duyệt đăng: 30/12/2017<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Ngữ pháp đóng vai trò quan trọng trong việc học một ngôn ngữ nói chung và trong việc học tiếng<br /> Pháp nói riêng. Để học tốt tiếng Pháp, ngoài rất nhiều yếu tố khác, người học cần phải nắm vững<br /> những hiện tượng ngữ pháp cơ bản. Một trong những hiện tượng ngữ pháp cơ bản và tương đối<br /> phổ biến của tiếng Pháp là dạng câu bị động. Tuy nhiên, trong quá trình giảng dạy tại trường Đại học<br /> Sư phạm Hà Nội, chúng tôi nhận thấy, sinh viên thường gặp rất nhiều khó khăn khi học hiện tượng<br /> ngữ pháp này. Nội dung chủ yếu của bài viết là phân tích những khó khăn thường gặp của sinh viên<br /> khi học dạng bị động, từ đó tìm ra nguyên nhân và đề xuất các biện pháp giải quyết trong giảng dạy.<br /> Từ khóa: dạng bị động, dịch thuật, giảng dạy ngữ pháp<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Trong quá trình giảng dạy môn ngữ pháp cho<br /> sinh viên khoa Pháp, thông qua việc thống kê,<br /> Hiện nay, đa số các sinh viên chuyên ngành phân tích các lỗi sai của sinh viên khi họ thực hành<br /> tiếng Pháp ở trường Đại học Sư phạm Hà Nội có trên lớp và làm các bài tập tự học, chúng tôi nhận<br /> đầu vào là không và bắt đầu học tiếng Pháp từ đầu. thấy các sinh viên gặp khá nhiều khó khăn khi<br /> Trong khi đó sinh viên chuyên ngành tiếng Anh khi học về dạng bị động đặc biệt là khi chuyển từ câu<br /> bước vào đại học đa số đã đạt được trình độ B1. chủ động sang bị động và ngược lại hoặc khi dịch<br /> Sau 4 năm học, sinh viên tiếng Pháp và tiếng Anh những câu bị động từ tiếng Pháp sang tiếng Việt và<br /> đều có đầu ra như nhau, đó là C1. Đây quả là bài tiếng Việt sang tiếng Pháp.<br /> toán vô cùng khó đối với không chỉ sinh viên tiếng Nghiên cứu và tìm ra những khó khăn của sinh<br /> Pháp mà ngay cả đối với giảng viên tiếng Pháp. viên khi học hiện tượng ngữ pháp này, từ đó đưa ra<br /> Với thời lượng quá ít ỏi như vậy mà ngữ pháp biện pháp giải quyết và khắc phục là một việc làm<br /> tiếng Pháp tương đối khó nên rất nhiều sinh viên cần thiết để nâng cao chất lượng và hiệu quả trong<br /> không nắm được các hiện tượng ngữ pháp cơ bản. học tập và giảng dạy nội dung này.<br /> <br /> <br /> KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br /> Số 15 - 9/2018 47<br /> v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY<br /> <br /> <br /> 2. CÁC CÁCH DIỄN ĐẠT VÀ GIÁ TRỊ SỬ 2.1.3. Bị động với động từ phản thân<br /> DỤNG CỦA DẠNG BỊ ĐỘNG<br /> Theo Grévisse (1988, tr.541), “Những động từ<br /> 2.1. Các cách diễn đạt bị động phản thân có ý nghĩa bị động khi chủ ngữ chịu<br /> hành động mà không hoàn thành hành động”.<br /> 2.1.1. Bị động với cấu trúc “être + participe Người ta thường sử dụng động từ phản thân với ý<br /> passé” nghĩa bị động nhưng chỉ dùng đối với chủ ngữ chỉ<br /> vật và luôn không chỉ rõ tác nhân. Chúng ta có sơ<br /> Bị động trong tiếng Pháp được biểu hiện bằng đồ sau:<br /> dạng cấu trúc đặc biệt, gồm: trợ động từ “être” và<br /> quá khứ phân từ (PP) của động từ độc lập. Hãy Pa: SN1 + V + SN2<br /> quan sát sơ đồ chuyển sang dạng bị động như sau: Pp: SN2 + Pronom (de réfléchi) +V<br /> <br /> Pa: SN1 + V + SN2 Ví dụ:<br />  Pp: SN2 + être + PP + par/de + SN1<br /> Pa: On vend ce livre à la librairie Tràng Tiền.<br /> (Pa: câu chủ động, Pp: câu bị động, SN1: ngữ<br /> Pp: Ce livre se vend à la librairie Tràng Tiền.<br /> đoạn danh từ 1, V: động từ, SN2: ngữ đoạn danh từ<br /> 2, PP: phân từ quá khứ) 2.1.4. Bị động với cấu trúc “se faire/se laisser<br /> + infinitif”<br /> Ví dụ: Pa: Nam fait ce travail.<br /> Trong tiếng Pháp, có một cấu trúc đặc biệt của<br /> Pp: Ce travail est fait par Nam.<br /> dạng bị động: se faire/se laisser như trợ động từ +<br /> Đây là cấu trúc bị động được sử dụng nhiều động từ nguyên thể, thay vì động từ “être” + PP.<br /> nhất trong tiếng Pháp. Động từ “se faire” nhấn mạnh vào sự tham gia<br /> một cách có chủ ý của chủ ngữ vào hành động.<br /> 2.1.2. Bị động với động từ đối xứng Động từ “se laisser” chỉ sự tham gia một cách<br /> miễn cưỡng hoặc không có chủ đích của chủ ngữ<br /> Động từ đối xứng còn được gọi là động từ có đối với hành động.<br /> khả năng xuất hiện với cùng hệ thống đặc trưng về<br /> mặt hình thái học trong câu bị động và trong câu Ví dụ: (1) Elle se fait aimer de tout le monde.<br /> biến đổi sang dạng bị động. Người ta coi việc sử (2) Elle se laisse aimer de tout le monde.<br /> dụng động từ đối xứng như dạng thức đặc biệt của<br /> bị động vì không phải thêm trợ động từ “être” vào Trong câu (1), “se faire aimer” có ý nghĩa<br /> trong câu bị động. Dạng bị động với những động rằng, cô ấy làm tất cả mọi chuyện để được yêu<br /> từ này đơn giản là một sự thay đổi vị trí danh ngữ. quý; nhưng “se laisser aimer” có ý chỉ rằng, tất<br /> Hãy xem xét dạng bị động của động từ đối xứng cả mọi người yêu quý cô ấy vì sự tử tế của cô ấy<br /> bằng sơ đồ sau: hoặc là vì đặc điểm nào đó của cô ấy. “se laisser<br /> aimer” là một hành động không chủ đích và nó<br /> Pa: SN1 + V + SN2 tương đương với “être aimé”.<br /> Pp: SN2 + V + SN1 (Pp hoàn thành).<br /> Hoặc: SN2 + V (Pp chưa hoàn thành) 2.2. Giá trị sử dụng của dạng bị động<br /> <br /> Ví dụ: Pa: Le vent casse les branches. 2.2.1. Nhấn mạnh<br /> <br /> Pp: Les branches cassent sous le vent./ Khi chúng ta muốn nhấn mạnh một yếu tố của<br /> Les branches cassent. câu, chúng ta sẽ thường đặt yếu tố này đứng đầu<br /> <br /> <br /> KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br /> 48 Số 15 - 9/2018<br /> PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v<br /> <br /> <br /> <br /> câu. Dạng bị động cho phép chúng ta nhấn mạnh 2.2.4. Giảm nhẹ cấu trúc<br /> vào bổ ngữ của hành động, bổ ngữ tác nhân và<br /> chính vào hành động. Có những đoạn văn, một cụm danh từ là bổ<br /> ngữ của rất nhiều động từ. Trong trường hợp này,<br /> Ví dụ: Ce film a été projecté plusieurs fois. dạng bị động được dùng để làm cho câu văn ngắn<br /> lại hoặc giảm nhẹ đi và thu hút người đọc vào<br /> Trong câu này, người ta muốn nhấn mạnh vào thành phần quan trọng của câu.<br /> “ce film” chứ không phải là những bộ phim khác<br /> hoặc người chiếu bộ phim đó. Ví dụ: Les patrons ont pris une décision. Les<br /> syndicats ont désapprouvé cette décision. Les<br /> 2.2.2. Một yếu tố làm rõ nghĩa travailleurs l’ont mal accueillie. Le gouvernement<br /> va la modifier.<br /> Ví dụ: Pierre est un bon ouvrier. Le patron a (Morsel, 1993, tr.124)<br /> bien apprécié ses mérites.<br /> Câu văn sẽ được giảm nhẹ nếu người ta dùng<br /> Theo nguyên tắc, tính từ sở hữu thay cho một dạng bị động.<br /> đại từ nhân xưng gần với nó hơn. Trong trường<br /> hợp này, người ta sẽ nghĩ rằng ses mérites thay cho La décision prise par les patrons, désapprouvée<br /> les mérites du patron. Nhưng thực tế, ses mérites par les syndicats et mal accueillie par les<br /> travailleurs va être modifiée par le gouvernement.<br /> thay cho les mérites de Pierre. Dạng bị động cho<br /> phép chúng ta loại bỏ đi sự mơ hồ của tính từ sở 2.2.5. Sự trung hòa của ngôn ngữ khoa học<br /> hữu ses.<br /> Trong ngôn ngữ, nhất là trong ngôn ngữ khoa<br /> Pierre est un bon ouvrier. Ses mérites sont bien học, khi muốn đưa ra một thông tin có tính khách<br /> appréciées par le patron. quan hơn, người ta hay dùng dạng bị động.<br /> <br /> 2.2.3. Tổ chức lời nói Ví dụ: Le vaccin contre la rage a été découvert<br /> en 1885 par Louis Pasteur.<br /> Theo nguyên tắc trật tự của ngữ đoạn danh từ<br /> (chủ ngữ là danh từ chỉ sự sống  đối tượng là Trong ví dụ này, chủ ngữ “Louis Pasteur” làm<br /> danh từ không chỉ sự sống, chủ ngữ số ít  đối ra hành động “découvrir” và đứng cuối câu; điều<br /> tượng số nhiều), dạng bị động cho phép thiết lập này làm giảm đi ít nhiều vai trò của ông ấy trong<br /> mối quan hệ này. câu và người đọc sẽ không chú ý đến sự hiện diện<br /> của ông ấy. Chính vì vậy, “Le vaccin contre la rage<br /> Ví dụ: Je suis trompé par cette nouvelle. a été découvert en 1885 par Louis Pasteur.” diễn<br /> ra một cách khách quan.<br /> Thay vì: Cette nouvelle me trompe.<br /> 3. NHỮNG KHÓ KHĂN THƯỜNG GẶP<br /> Phát ngôn dạng chủ động “Cette nouvelle me CỦA SINH VIÊN KHI HỌC DẠNG BỊ ĐỘNG<br /> trompe” thì không thông dụng bằng phát ngôn TIẾNG PHÁP<br /> dạng bị động “Je suis trompé par cette nouvelle”.<br /> Trong các cách diễn đạt bị động của tiếng Pháp,<br /> Hoặc: “L’embouteillage augmente par les “être +PP” là cấu trúc bị động thường gặp nhất và<br /> vacances” thì được chấp nhận hơn là “Les sinh viên cũng gặp khó khăn nhiều nhất khi học<br /> vacances augmentent l’embouteillage”. cấu trúc bị động này. Vì vậy trong phần này, chúng<br /> <br /> <br /> KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br /> Số 15 - 9/2018 49<br /> v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY<br /> <br /> <br /> tôi sẽ tập trung phân tích những khó khăn của sinh remonter, redescendre…, nhiều sinh viên cho rằng,<br /> viên khi học dạng bị động “être + PP”. đó là câu chủ động động từ chia ở quá khứ.<br /> <br /> Để tìm ra những khó khăn của sinh viên, chúng Ví dụ :<br /> tôi đã tiến hành điều tra về việc sử dụng câu bị<br /> động của 30 sinh viên năm thứ 2 khoa Pháp trường Le mobilier du jardin était rentré chaque<br /> Đại học Sư phạm Hà Nội. Chúng tôi chọn sinh automne dans une petite cabane en sapin.<br /> viên năm thứ 2 là đối tượng nghiên cứu vì họ vừa<br /> được học hiện tượng ngữ pháp này. Cuộc điều tra Dès que la malle aura été redescendue à la<br /> của chúng tôi gồm 2 phần: cave, la chambre sera vite en ordre.<br /> <br /> Phần 1: Phiếu điều tra La pendule est remontée chaque dimanche à<br /> midi. <br /> Phần 2: Bài test về cách sử dụng dạng bị động (Cardiot-Cueilleron, 1992, tr.77)<br /> trong tiếng Pháp<br /> Ba câu trên, các chủ ngữ  “le mobilier du<br /> Phiếu điều tra gồm 10 câu giúp chúng tôi biết jardin, la malle, la pendule” không thực hiện các<br /> được sinh viên đã nắm được khái niệm của câu hành động “rentrer, redescendre, remonter” mà<br /> bị động trong tiếng Pháp chưa, khi học dạng bị chịu tác động của hành động. Vì vậy, ba câu này<br /> động họ gặp những khó khăn gì và nguyên nhân không thể là câu chủ động được, chúng phải là câu<br /> của những khó khăn đó. Bài test gồm 3 bài tập: bị động. Nhưng hầu hết các sinh viên cho rằng, đó<br /> nhận biết câu bị động và câu chủ động, chuyển là câu chủ động, động từ chia ở quá khứ với trợ<br /> từ câu chủ động sang bị động và ngược lại, dịch động từ “être”.<br /> từ tiếng Việt sang tiếng Pháp và tiếng Pháp sang<br /> tiếng Việt. Sau khi nhận được bài test từ các sinh 3.2. Xác định sai các thành phần của câu<br /> viên, chúng tôi đã thống kê tất cả các lỗi mà sinh<br /> viên gặp phải. Kết quả của phiếu điều tra và bài Muốn chuyển đúng một câu chủ động sang bị<br /> test là cơ sở để chúng tôi xác định được những khó động hoặc ngược lại, trước hết người học cần phải<br /> khăn và nguyên nhân của những khó khăn, cũng xác định đúng các thành phần của câu. Nhưng điều<br /> như đưa ra một số đề xuất sư phạm. này cũng là một trở ngại đối với nhiều sinh viên.<br /> <br /> 3.1. Chưa nhận biết được câu chủ động và Ví dụ: L’entreprise réembauchera les ouvrières<br /> câu bị động licenciées il y a un mois.<br /> (Morsel, 1993, tr.120)<br /> Rất nhiều sinh viên không thể phân biệt được<br /> câu chủ động và câu bị động. Các em thường nhầm Trong câu này “il y a un mois” không phải là bổ<br /> lẫn giữa hai loại câu này. Sở dĩ có sự nhầm lẫn này ngữ của cả câu mà nó chỉ là bổ ngữ của nhóm danh<br /> vì câu bị động tiếng Pháp có sự tham gia của trợ từ “les ouvrières licenciées”. Nhưng hầu hết các<br /> động từ “être”, trong khi đó, động từ tiếng Pháp sinh viên mà chúng tôi tiến hành điều tra đều cho<br /> khi chia ở quá khứ cũng có một số động từ được rằng “il y a un mois” là bổ ngữ của cả câu, họ đã<br /> chia với trợ động từ être. Chính sự giống nhau không để ý đến thời của động từ “réembauchera”.<br /> này đã gây cho các em khá nhiều khó khăn trong Động từ “réembauchera” chia ở thì tương lai vì<br /> việc nhận biết. Đặc biệt là nếu trong câu bị động vậy “il y a un mois” (cách đây một tháng) không<br /> xuất hiện những động từ khi chia ở quá khứ có thể là bổ ngữ của cả câu. Nếu “il y a un mois” là<br /> thể chia với trợ động từ “être” hoặc “avoir” như bổ ngữ của cả câu, động từ “réembaucher” phải<br /> monter, descendre, sortir, passer, rentrer, retourner, chia ở quá khứ không phải ở tương lai.<br /> <br /> <br /> KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br /> 50 Số 15 - 9/2018<br /> PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v<br /> <br /> <br /> <br /> Chính vì xác định sai các thành phần của câu Mặt khác thời, thức của động từ tiếng Pháp quá<br /> mà nhiều sinh viên đã chuyển sai câu trên. phức tạp, quá khác biệt so với tiếng Việt. Đây là<br /> một trở ngại lớn nhất đối với sinh viên học tiếng<br /> Câu sai: Les ouvrières licenciées seront Pháp. Lỗi sai liên quan đến động từ là lỗi mà các<br /> réembauchées par l’entreprise il y a un mois. sinh viên mắc nhiều nhất trong khi sử dụng câu bị<br /> động tiếng Pháp.<br /> Câu đúng: Les ouvrières licenciées il y a un<br /> mois seront réembauchées par l’entreprise 3.4. Quá lệ thuộc vào cách diễn đạt của tiếng<br /> Pháp hoặc tiếng Việt<br /> Trong quá trình giảng dạy, chúng tôi nhận thấy,<br /> việc các sinh viên xác định sai thành phần của câu Do chưa nắm vững những nét tương đồng và<br /> còn do vốn từ vựng của các em quá nghèo nàn, các khác biệt giữa hai ngôn ngữ Pháp-Việt đã làm cho<br /> em không hiểu được hết nghĩa của câu cần chuyển. người học quá lệ thuộc vào cách diễn đạt của tiếng<br /> Do không hiểu hết được nghĩa nên các em đã xác Pháp hoặc tiếng Việt.<br /> định sai thành phần của câu. Vì xác định sai thành<br /> phần của câu, các em đã chuyển sai từ câu chủ Khi dịch sang tiếng Việt không nhất thiết phải<br /> động sang bị động hoặc ngược lại. sử dụng hư từ bị, được. Hai hư từ này làm cho câu<br /> văn trở nên nặng nề.<br /> 3.3. Không nắm vững các hiện tượng ngữ<br /> pháp cơ bản khác. Ví dụ: Il est épuisé par ses voyages incessants.<br /> Une promesse qui a été faite doit être tenue.<br /> Ngữ pháp tiếng Pháp rất khó và có nhiều điểm (Cardiot-Cueilleron, 1992, tr.81)<br /> không giống với tiếng Việt. Vì vậy, đa số các sinh<br /> viên chưa nắm vững các hiện tượng ngữ pháp cơ có thể dịch như sau: <br /> bản như đại từ làm bổ ngữ trực tiếp, gián tiếp, thời<br /> thể của động từ, vấn đề hợp giống, số của phân từ Anh ta kiệt sức vì những chuyến đi không ngừng.<br /> quá khứ… Chính vì không nắm vững những kiến Một lời đã hứa phải ráng giữ.<br /> thức ngữ pháp cơ bản nên các sinh viên đã mắc rất (Nguyễn Dũng, 2005, tr.158)<br /> nhiều kiểu lỗi khác nhau.<br /> Nhưng đa số sinh viên sử dụng hai hư từ này<br /> Ví dụ: “On ne l’a pas promue.” để dịch hai câu trên.<br /> <br /> Một số sinh viên không tìm được bổ ngữ trực Anh ta bị kiệt sức vì những chuyến đi không ngừng.<br /> tiếp của câu này vì bổ ngữ trực tiếp thường đứng Một lời được hứa thì phải được làm.<br /> sau động từ nhưng trong trường hợp này, bổ ngữ<br /> Một lý do khác làm cho câu văn tiếng Việt trở<br /> trực tiếp được thay bằng đại từ làm bổ ngữ và đặt<br /> nên nặng nề, đó là các sinh viên đã quá lạm dụng<br /> trước động từ. Do không xác định được bổ ngữ<br /> từ bởi khi dịch bổ ngữ tác nhân.<br /> trực tiếp nên họ cho rằng, câu này không chuyển<br /> được sang dạng bị động. Anh ta bị kiệt sức bởi những chuyến đi không<br /> ngừng.<br /> Có những sinh viên xác định được đại từ “l’” là<br /> bổ ngữ trực tiếp của câu, nhưng lại không biết “l’” Ngược lại khi dịch từ tiếng Việt sang tiếng<br /> là “le” hay “la”. Họ đã không để ý đến phân từ Pháp, một số sinh viên lại quá lệ thuộc vào câu tiếng<br /> quá khứ “promue”. Do không biết “l’” là “le” hay Việt nên đã dịch sai. Trong các câu tiếng Việt sau:<br /> “la” nên họ không biết chủ ngữ của câu bị động sẽ<br /> là “Il” hay “Elle”. Vì vậy có những em đã chuyển Chúng tôi đã rất bối rối vì sự phát hiện này.<br /> câu trên thành: *Il n’a pas été promu. (Nguyễn Dũng, 2005, tr.158)<br /> <br /> <br /> KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br /> Số 15 - 9/2018 51<br /> v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY<br /> <br /> <br /> Gương mặt cô ta ướt đẫm nước mắt. chính sinh viên phải tự tìm ra trên cơ sở phân tích<br /> (Nguyễn Dũng, 2005, tr.157) các ví dụ. Có như vậy, những kiến thức sinh viên<br /> thu được sẽ được nhớ lâu hơn.<br /> Trong hai câu này không có hư từ bị, được<br /> nên khi dịch sang tiếng Pháp các sinh viên lại để 4.2. Đưa nội dung giảng dạy các hiện tượng<br /> các động từ troubler, mouiller ở dạng chủ động vì ngữ pháp nói chung và câu bị động nói riêng<br /> vậy có một số câu sai kiểu như sau: vào các giờ thực hành tiếng.<br /> <br /> * Nous avons troublé à cause de cette Dạy một ngoại ngữ, đó là làm cho người học<br /> révélation. phát triển toàn diện cả bốn kỹ năng: nghe, nói, đọc,<br /> viết. Ngữ pháp đóng một vai trò quan trọng trong<br /> * Son visage mouille les larmes. việc học ngoại ngữ. Người học phải nắm chắc ngữ<br /> pháp để có thể học tốt bốn kỹ năng trên. Ngược<br /> Thực ra hai câu này khi dịch sang tiếng Pháp các lại, thông qua bốn kỹ năng trên, người ta có thể<br /> động từ troubler, mouiller phải để ở dạng bị động dạy và học ngữ pháp. Vì vậy, giảng viên không chỉ<br /> dạy ngữ pháp nói chung và câu bị động nói riêng<br /> Nous avons été troublés par cette révélation. trong các giờ ngữ pháp mà có thể đưa nội dung<br /> (Cardiot-Cueilleron, 1992, tr.81) này vào trong quá trình dạy các kỹ năng nghe, nói,<br /> đọc, viết.<br /> Son visage était mouillé de larmes.<br /> (Cardiot-Cueilleron, 1992, tr.80) 4.3. Một số tiêu chí phân biệt “être + PP”<br /> dạng bị động với “être + PP” hình thái động từ.<br /> 4. GIẢI PHÁP TRONG GIẢNG DẠY<br /> Một trong những nguyên nhân sử dụng sai<br /> Xuất phát từ những khó khăn của sinh viên đã<br /> được phân tích ở trên, chúng tôi xin đưa ra một số dạng bị động trong tiếng Pháp của sinh viên Việt<br /> đề xuất về việc giảng dạy và dịch thuật nhằm giúp nam học tiếng Pháp đó là người học chưa phân<br /> cho người học có thể sử dụng tốt hơn dạng bị động biệt được câu chủ động và câu bị động đặc biệt là<br /> trong tiếng Pháp. phân biệt câu chủ động có động từ chia ở quá khứ<br /> với trợ động từ être với câu bị động. Để phân biệt<br /> 4.1. Đổi mới phương pháp giảng dạy hai dạng này, chúng ta có thể dựa vào những dấu<br /> hiệu như sau:<br /> Từ trước đến nay, khi dạy một hiện tượng ngữ<br /> pháp, giảng viên thường sử dụng phương pháp - Thứ nhất, trong câu chủ động, chủ ngữ làm<br /> truyền thống: truyền đạt những kiến thức cho sinh ra hành động trong khi trong câu bị động, chủ ngữ<br /> viên. Người học rất thụ động trong quá trình nắm chịu tác động của hành động do bổ ngữ tác nhân<br /> bắt kiến thức. “Những năm gần đây các tài liệu gây ra.<br /> giáo dục và dạy học ở nước ngoài và trong nước<br /> thường nói tới việc cần thiết phải chuyển từ dạy Ví dụ:<br /> học giảng viên trung tâm sang dạy học học sinh Nous sommes rentrés tard à la maison. (Pa).<br /> trung tâm” (Trần Bá Hoành, 2003, tr.1). Chúng ta<br /> nên áp dụng phương pháp giảng dạy mới này khi Nous sommes trompés par ce garçon-là. (Pp).<br /> dạy một hiện tượng ngữ pháp nói chung và dạy câu<br /> bị động nói riêng. Trước tiên, giảng viên yêu cầu - Thứ hai, trong cấu trúc bị động, thời của động<br /> người học quan sát các ví dụ về câu chủ động và bị từ phụ thuộc vào thời động từ “être” chứ không<br /> động. Giảng viên sẽ không phải là người giới thiệu phụ thuộc vào sự kết hợp giữa “être + PP” như<br /> cấu trúc của câu bị động, quy tắc chuyển đổi mà trong câu chủ động.<br /> <br /> <br /> KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br /> 52 Số 15 - 9/2018<br /> PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v<br /> <br /> <br /> <br /> Ví dụ: Il est admis à l’école. (Pp chia thời hiện tại) - Cuối cùng, về mối quan hệ biến đổi, dạng bị<br /> động “être + PP” là kết quả của một sự chuyển đổi<br /> Il a été admis à l’école. (Pp chia thời quá khứ) từ mệnh đề chủ động. Trong khi dạng thức kép “être<br /> + PP” thể hiện mệnh đề chủ động. Cấu trúc này<br /> Elle est allée travailler en France (Pa chia thời không phải là kết quả của bất cứ sự biến đổi nào.<br /> quá khứ kép)<br /> Ví dụ: Ce pont a été construit en 1990.<br /> Elle était allée travailler en France. (Pa chia<br /> thời tiền quá khứ). Câu này được chuyển từ câu “On a construit<br /> ce pont en 1990.”<br /> - Thứ ba, về mặt hình thức và ngữ nghĩa,<br /> những yếu tố tạo nên cấu trúc bị động thì khá độc Trong khi câu “Je suis sortie avec mes amis.”<br /> lập với nhau: trong cấu trúc bị động, quá khứ phân không phải là sự chuyển đổi từ bất cứ một câu nào.<br /> từ được dùng với tư cách là tính ngữ (tức là không<br /> có động từ “être”) và có giá trị bị động như cấu Trên đây là bốn tiêu chí giúp cho người học<br /> trúc này. phân biệt câu chủ động chia ở quá khứ với trợ<br /> động từ être và câu bị động với trợ động từ être.<br /> Ví dụ: Une lettre est écrite = Une lettre écrite<br /> 4.4. Xác định rõ thành phần của câu trước<br /> La moto a été réparée = La moto réparée. khi chuyển từ câu chủ động sang bị động hoặc<br /> ngược lại.<br /> Trong cấu trúc bị động, quá khứ phân từ này<br /> có thể được thay thế bằng đại từ nhân xưng trung Một nguyên nhân khác khiến sinh viên chuyển<br /> lập “le”. sai câu chủ động sang bị động, đó là xác định sai<br /> thành phần của câu. Vì vậy, giảng viên cần yêu cầu<br /> Ví dụ: Tu es aimé de tout le monde, tu l’es sinh viên xác định rõ thành phần của câu trước khi<br /> vraiment. chuyển đặc biệt thành phần chủ ngữ, bổ ngữ trực<br /> tiếp trong câu chủ động và tác nhân trong câu bị<br /> Ngoài ra, khác với hình thái về thời gian, quá động. Việc này giảng viên cũng thường không yêu<br /> khứ phân từ có thể đứng trước động từ “être”. cầu sinh viên vì họ nghĩ rằng, đây là vấn đề đơn<br /> giản. Nhưng thực tế, không ít sinh viên chuyển sai<br /> Ví dụ: “Aimé, tu l’étais.”<br /> vì không xác định được thành phần của câu.<br /> Khi quan sát những ví dụ trên, những yếu tố<br /> 4.5. Các hiện tượng ngữ pháp cơ bản phải<br /> cấu trúc bị động không thể tạo ra đơn vị phân tích<br /> thường xuyên được củng cố trong suốt quá<br /> giống như dạng thức kép của động từ chủ động.<br /> trình học.<br /> Dạng thức này đặc trưng bởi sự kết hợp chặt chẽ<br /> của những thành tố. Để học tốt dạng bị động, người học phải nắm<br /> vững rất nhiều các hiện tượng ngữ pháp khác.<br /> Ví dụ: Mon père est arrivé<br /> Nhưng thực tế các sinh viên thường không nhớ hết<br /> Người ta không nói: Mon père arrivé. các hiện tượng ngữ pháp đã học. Chính vì vậy, khi<br /> học một hiện tượng ngữ pháp mới giảng viên cần<br /> Đối với câu “Il est arrivé” quá khứ phân từ giúp các em ôn lại những hiện tượng ngữ pháp có<br /> không thể thay bằng đại từ le hoặc đứng trước trợ liên quan. Ví dụ khi học về câu bị động, sinh viên<br /> động từ être. bắt buộc phải nắm vững một số các hiện tượng<br /> ngữ pháp cơ bản sau: thời thức của động từ, đại từ<br /> Người ta không nói: Il l’est hoặc Arrivé, il l’est. làm bổ ngữ trực tiếp, hợp giống số của phân từ quá<br /> <br /> <br /> KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br /> Số 15 - 9/2018 53<br /> v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY<br /> <br /> <br /> khứ… Nói tóm lại các vấn đề ngữ pháp phải thường xuyên được củng cố, nhắc lại và nâng cao trong suốt<br /> quá trình học ngoại ngữ.<br /> <br /> 4.6. So sánh câu bị động trong tiếng Anh và tiếng Pháp<br /> <br /> Hiện nay, hầu như sinh viên chuyên ngành tiếng Pháp đều là sinh viên được xét tuyển từ tổ hợp Anh,<br /> Toán, Ngoại ngữ, có nghĩa là họ đã học tiếng Anh ít nhất 3 năm ở phổ thông và tiếng Anh là một trong<br /> ba môn xét tuyển vào đại học. Như vậy, họ đã đạt được một trình độ tiếng Anh tương đối tốt. Tiếng Anh<br /> và tiếng Pháp có chung nguồn gốc là cùng thuộc hệ ngôn ngữ Latinh nên hai thứ tiếng này có rất nhiều<br /> điểm tương đồng về mặt từ vựng và cấu trúc ngữ pháp. Đây là một lợi thế cho những người đã biết tiếng<br /> Anh học tiếng Pháp (Nguyễn Thị Dương Nga, 2017, tr.16). Dạng bị động của tiếng Anh có khá nhiều<br /> điểm giống tiếng Pháp, nhất là vấn đề liên quan đến thời trong câu bị động trong khi đó, vấn đề này trong<br /> tiếng Việt lại hoàn toàn khác biệt. Nhờ đặc điểm này chúng tôi xin đưa ra một đề xuất như sau: đối với<br /> những sinh viên thi đầu vào bằng tiếng Anh, họ đã hiểu rõ cách dùng dạng bị động trong tiếng Anh, vì<br /> vậy, giảng viên có thể chỉ cho họ những điểm giống nhau của dạng bị động trong tiếng Anh và tiếng Pháp.<br /> <br /> Ví dụ :<br /> <br /> Câu chủ động<br /> Câu bị động tiếng Pháp Câu bị động tiếng Anh<br /> tiếng Pháp<br /> Cấu SN2 + être + PP (participe SN2 + to be + PP (past participle)<br /> SN1 + V + SN2<br /> trúc passé) + par/de +SN1 + by +SN1<br /> V(présent) être (présent) + PP to be (simple present) + PP<br /> V(passé composé) être (passé composé) + PP to be (simple past) + PP<br /> Thời, V(imparfait) être (imparfait) + PP to be (past continuous) + PP<br /> thức V(plus-que-parfait) être (plus-que-parfait) + PP to be (past pefect) + PP<br /> của V(futur simple) être ( futur simple) + PP to be (simple future) + PP<br /> động V(conditionnel être (conditionnel présent)+ PP to be (present conditionnel + PP<br /> từ présent)<br /> V(conditionnel être (conditionnel passé) + PP to be (past conditionnel) + PP<br /> passé)<br /> <br /> Bằng cách so sánh này sinh viên đã học tiếng Anh sẽ hiểu về dạng bị động tiếng Pháp một cách dễ<br /> dàng hơn.<br /> <br /> 4.7. Chú ý những nét khác biệt giữa tiếng Pháp và tiếng Việt trong khi dịch.<br /> <br /> Vấn đề dịch thuật, sinh viên thường quá lệ thuộc vào cách diễn đạt tiếng Pháp hoặc tiếng Việt. Sở dĩ<br /> như vậy vì người học chưa thấy rõ được những nét tương đồng và khác biệt giữa hai ngôn ngữ. Vì vậy<br /> trong quá trình giảng dạy giảng viên cần phải so sánh đối chiếu hiện tượng ngữ pháp này giữa hai ngôn<br /> ngữ. Nếu được phân tích kỹ những nét tương đồng và khác biệt giữa dạng bị động tiếng Pháp và lối nói<br /> tiếp thụ trong tiếng Việt thì người học sẽ thấy rằng, không nhất thiết cứ phải chuyển một câu bị động của<br /> tiếng Pháp thành lối nói tiếp thụ trong tiếng Việt. Trong những trường hợp phải chỉ rõ bổ ngữ tác nhân thì<br /> khi dịch sang tiếng Việt cũng không nhất thiết phải dùng cấu trúc có sự tham gia của từ bởi mà người học<br /> có thể dùng cấu trúc có từ do, vì.<br /> <br /> <br /> KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br /> 54 Số 15 - 9/2018<br /> PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v<br /> <br /> <br /> <br /> Il est épuisé par ses voyages incessants. Tài liệu tham khảo:<br /> (Cardiot-Cueilleron, 1992, tr.77)<br /> Nguyễn Dũng (2005), 350 exercices (Niveau<br /> Anh ta kiệt sức vì những chuyến đi không supérieur1), Bản dịch từ tiếng Pháp, NXB Thanh<br /> ngừng. (Nguyễn Dũng, 2005, tr.158) niên, TP Hồ Chí Minh.<br /> <br /> Trần Bá Hoành (2003), “Dạy học lấy người học làm<br /> Còn trong những trường hợp cần thể hiện sự<br /> trung tâm: nguồn gốc, bản chất, đặc điểm”, Tạp chí<br /> đánh giá của người nói đối với tác động của hành<br /> Thông tin khoa học giáo dục, số 96, tr.1-5.<br /> động lên đối tượng thì người học phải có sự cân<br /> nhắc giữa cấu trúc có các từ bị và được. Trần Hương Lan, Trần Thị Hoàng Minh (2011), So sánh<br /> dạng bị động trong tiếng Pháp và trong tiếng Việt,<br /> 5. KẾT LUẬN Đề tài nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Sư<br /> Dạng bị động trong tiếng Pháp là một hiện phạm Hà Nội.<br /> tượng ngữ pháp tương đối khó. Để học tốt dạng Nguyễn Thị Dương Nga (2017), “Mạo từ trong tiếng<br /> bị động đòi hỏi người học phải nắm vững khá Pháp và tiếng Anh - Một số lưu ý trong giảng dạy<br /> nhiều các hiện tượng ngữ pháp cơ bản khác. Trong môn ngoại ngữ 2 tiếng Pháp cho học viên, sinh viên<br /> khi đó, sinh viên khoa tiếng Pháp hầu như chưa chuyên ngành tiếng Anh tại Học viện Khoa học<br /> được học tiếng Pháp ở bậc phổ thông nên việc<br /> Quân sự”, Tạp chí Khoa học Ngoại ngữ Quân sự,<br /> nắm chắc tất cả các hiện tượng ngữ pháp không<br /> số 07, tr.16-25.<br /> phải là dễ đối với các em. Vì vậy, chúng tôi đã<br /> thực hiện nghiên cứu này với hy vọng nó sẽ là một Cardiot-Cueilleron J. et autres (1992), 350 exercices<br /> tài liệu hữu ích cho giảng viên và sinh viên khoa (Niveau supérieur1), Hachette, Paris.<br /> tiếng Pháp nhằm giúp cho giảng viên có những<br /> Grévisse M. (1988), Le Bon Usage – 3è édition, Duculot,<br /> phương pháp giảng dạy thích hợp, còn sinh viên<br /> Paris.<br /> nhận ra lỗi của mình và có thể tránh được các lỗi<br /> đó trong quá trình học dạng bị động tiếng Pháp./. Morsel M.H. et autres (1993), L’exercisier, Grenoble.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> A STUDY ON THE DIFFICULTIES IN LEARNING THE FRENCH PASSIVE VOICE<br /> ENCOUNTERED BY THE STUDENTS AT HANOI NATIONAL UNIVERSITY<br /> OF EDUCATION AND SEVERAL SUGGESTIONS TO TEACHING METHODS<br /> TRAN HUONG LAN<br /> Abstract: Grammar plays an important role in learning a language in general and in learning French<br /> in particular. To learn French well, besides many other factors, the learner must first master basic<br /> grammatical phenomena. One of the most basic and popular grammatical phenomena in French is<br /> the passive voice. During the process of teaching, we realize that students often have to face a lot<br /> of difficulties in learning this grammatical phenomenon. This report aims to analyse the common<br /> difficulties of students in learning passive voice, as well as identify the reasons and then propose<br /> some suggestion to improve teaching methods.<br /> Keywords: passive voice, grammatical teaching methods, translation<br /> Received: 19/11/2017; Revised: 13/12/2017; Accepted for publication: 30/12/2017<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br /> Số 15 - 9/2018 55<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2