JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE<br />
Social Science, 2018, Vol. 63, Iss. 1, pp. 113-120<br />
This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn<br />
<br />
DOI: 10.18173/2354-1067.2018-0016<br />
<br />
NHỮNG NHÂN TỐ ĐƯA ĐẾN THẮNG LỢI<br />
CỦA CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945 Ở INDONESIA<br />
Phạm Thị Huyền Trang<br />
<br />
Khoa Khoa học Cơ bản, Trường Đại học Tân Trào<br />
Tóm tắt. Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Indonesia là một trong những cuộc cách mạng<br />
nổ ra sớm nhất ở Đông Nam Á sau khi Chiến tranh thế giới thứ II kết thúc. Cuộc cách mạng<br />
mở đầu bằng bản Tuyên ngôn độc lập của nước Cộng hòa Indonesia đã được soạn thảo và<br />
công bố vào ngày 17 tháng 8 năm 1945. Sau đó, nhân dân Indonesia đã đứng lên đấu tranh<br />
giành chính quyền từ tay phát xít Nhật một cách rất nhanh chóng. Ngay ngày hôm sau, một<br />
“Ủy ban trù bị độc lập” đã họp và đến ngày 4 tháng 9 năm 1945, chính phủ quốc gia mới<br />
đã được thành lập, đứng đầu là Tổng thống Sukarno. Thắng lợi đó không phải là một sự<br />
“ăn may”, mà đó là sự hòa hợp của các nhân tố bên trong và bên ngoài, là sự trưởng thành<br />
của phong trào dân tộc chủ nghĩa và những điều kiện quốc tế thuận lợi.<br />
Từ khóa: Cách mạng tháng Tám, Indonesia.<br />
<br />
1.<br />
<br />
Mở đầu<br />
<br />
Vào những năm cuối của Chiến tranh thế giới thứ II, phe phát xít đang bị thua đau trên khắp<br />
các chiến trường, từ Âu sang Á. Phát xít Nhật cũng bị quân Đồng minh giáng cho những đòn chí tử,<br />
buộc phải đầu hàng Đồng minh không điều kiện vào giữa tháng Tám năm 1945. Đây chính là thời<br />
cơ ngàn năm có một cho nhân dân các nước Đông Nam Á nói chung và nhân dân Indonesia nói<br />
riêng đứng lên giành độc lập. Ngày 17 tháng 8 năm 1945, trước cửa ngôi nhà số 56, phố Pegansan<br />
Timua, nơi Sukarno đã sống, bản Tuyên ngôn độc lập đã được đọc lên một cách ngắn gọn và súc<br />
tích: “Chúng tôi, dân tộc Indonesia chính thức tuyên bố nền độc lập của Indonesia, những vấn đề<br />
liên quan đến việc chuyển giao chính quyền và những vấn đề khác sẽ được giải quyết theo cách<br />
thức chu đáo nhất trong một thời hạn ngắn nhất. Thay mặt cho dân tộc Indonesia: Sukarno, Hatta”<br />
[4; 172]. Khi lá cờ Tổ quốc được kéo lên, Indnonesia đã trở thành quốc gia đầu tiên tuyên bố độc<br />
lập ở Đông Nam Á.<br />
Có rất nhiều luồng ý kiến khác nhau về sự kiện này. Trong cuốn Indonesia đấu tranh vì<br />
độc lập tự do 1942-1950 của Nguyễn Văn Hồng, xuất bản năm 1991, tác giả đánh giá cách mạng<br />
tháng Tám năm 1945 ở Indonesia là một cuộc “chuyển giao chính quyền chứ không phải là lật<br />
đổ, xóa đi thay thế một chính quyền mới” [6; 77]. Hay Anthony J.S.Reid, trong cuốn Indonesian<br />
National Revolution 1945 – 1950, xuất bản năm 1974, cũng cho rằng cách mạng tháng Tám năm<br />
1945 ở Indonesia là một sự ăn may, “vì phần lớn là do dự”, không có sự chuẩn bị gì cho cách mạng.<br />
Ngày nhận bài: 15/12/2016. Ngày sửa bài: 20/12/2017. Ngày nhận đăng: 20/1/2018.<br />
Liên hệ: Phạm Thị Huyền Trang, e-mail: trangsp1987@gmail.com.<br />
<br />
113<br />
<br />
Phạm Thị Huyền Trang<br />
<br />
“Nếu không có sự can đảm của pemuda trong việc đối đầu với quân đội phương Tây và xua tan<br />
đi bóng ma bất chính, thì các nhà ngoại giao của nước Cộng hòa sẽ phải khóc vì bị bỏ rơi trong<br />
vùng hoang dã” [1; 170].Trong Genesis of power, General Sudirman and the Indonesia military<br />
in politics 1945-1946, Salim Said cũng gọi cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 và sự thành lập<br />
chính phủ ở Indonesia là “chính phủ bất đắc dĩ” [10; 10]. . . Ngoài ra, trong các tác phẩm của cả<br />
học giả người Việt Nam và học giả người nước ngoài, đều có đề cập đến cuộc cách mạng tháng<br />
Tám năm 1945 ở Indnonesia trên bình diện khái quát, chưa đi sâu vào đánh giá, phân tích.<br />
Trong bài viết này, tác giả không nhằm mục đích nghiên cứu khái quát về cuộc cách mạng<br />
tháng Tám năm 1945 ở Indonesia, hay phân tích những quan điểm của các nhà nghiên cứu khác về<br />
bản chất của cuộc cách mạng này, mà tập trung đi sâu làm rõ những nhân tố đưa đến thắng lợi của<br />
cuộc cách mạng trên góc nhìn của một nhà nghiên cứu Việt Nam.<br />
<br />
2.<br />
<br />
Nội dung nghiên cứu<br />
<br />
Nếu xét về các nhân tố khách quan và chủ quan, cũng như vai trò của các nhân tố đó đối với<br />
cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Indonesia, chúng ta sẽ thấy rõ đó là kết quả của cả một<br />
quá trình đấu tranh anh dũng và bền bỉ của nhân dân Indonesia chống ách thực dân và phát xít suốt<br />
hơn 350 năm.<br />
<br />
2.1.<br />
<br />
Tác động của tình hình thế giới và khu vực trong những năm 1942-1945<br />
<br />
Trong những năm 1942-1945, cuộc Chiến tranh thế giới thứ Hai bước vào giai đoạn khốc<br />
liệt nhất. Ở cả mặt trận Châu Âu và mặt trận Châu Á - Thái Bình Dương, cả phe Phát xít và phe<br />
Đồng minh đều có những trận đánh lớn, có tính bước ngoặt đối với mỗi bên. Sự chuyển biến mau<br />
lẹ của cuộc chiến cũng như sự thay đổi tương quan so sánh lực lượng giữa hai phe này, là nhân<br />
tố đưa đến sự bùng nổ và thắng lợi của các cuộc cách mạng ở các nước thuộc địa, trong đó có<br />
Indonesia.<br />
Sau khi đánh Trân Châu cảng, Nhật tự do chinh phục Đông Nam Á và tiến vào khu vực này<br />
với tốc độ nhanh chóng. Chỉ từ tháng 12 năm 1941 đến tháng 5 năm 1942, trong vòng nửa năm,<br />
Nhật Bản đã chiếm gần như toàn bộ Đông Nam Á, và thay thế hệ thống thống trị thuộc địa của chủ<br />
nghĩa thực dân phương Tây.<br />
Đầu năm 1942, Nhật vào Indonesia, người Hà Lan đã phải bỏ chạy trước sự tấn công ồ ạt<br />
của người Nhật. Chỉ trong vòng hai tháng, Nhật đã thay thế vị trí của Hà Lan ở Indonesia. Huyền<br />
thoại về sức mạnh tuyệt đối, về ưu thế của chủng tộc da trắng với người Á Đông đã bị sụp đổ hoàn<br />
toàn. Điều này trái ngược với lời tuyên bố của viên toàn quyền Hà Lan ở Indonesia trước đó 3 năm:<br />
“Chúng ta đã cai trị ở đây trong 300 năm, nhờ roi vọt và dùi cui, và chúng ta sẽ tiếp tục cai trị như<br />
vậy trong vòng 300 năm nữa” [9; 112]. Người Hà Lan đã quá tin tưởng vào sức mạnh của quân<br />
Đồng minh Anh- Mĩ, mà quên mất rằng phải lấy được niềm tin của người dân thuộc địa. Chính vì<br />
vậy, khi người Nhật tới, đa số dân Indonesia đều thụ động, số khác thì hy vọng ở “người bạn châu<br />
Á” sẽ đem lại một tương lai tốt hơn cho họ.<br />
Đối với người dân Indonesia, họ coi việc hợp tác với Nhật Bản chính là giải phóng họ khỏi<br />
sự cai trị của phương Tây. Suốt hơn 3 thế kỉ, người dân quốc đảo đã nhìn thấy uy quyền tối cao<br />
của người da trắng và tính bất khả chiến bại của họ. Vậy mà trong một thời gian ngắn, Nhật Bản<br />
đã phá hủy toàn bộ hệ thống thuộc địa của các cường quốc phương Tây ở Đông Nam Á và những<br />
quyền lực mà họ tạo ra.<br />
Trái với sự mong đợi của người dân Indonesia, người Nhật đã nhanh chóng chứng tỏ rằng<br />
họ là những bậc thầy khắc nghiệt hơn cả người Hà Lan. Họ không hề có ý định trao trả độc lập<br />
114<br />
<br />
Những nhân tổ đưa đến thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Indonesia<br />
<br />
cho Indonesia, và cũng không muốn đáp ứng những yêu cầu của các nhà dân tộc chủ nghĩa ở nước<br />
này để tạo ra sự dân chủ cao hơn. Tuy nhiên, chính phủ Nhật Bản vẫn tiếp tục duy trì niềm tin của<br />
người dân về quyền tự do sắp tới của họ, nhằm thu hút sự hợp tác đối với các lãnh thổ mà Nhật<br />
chiếm. Nếu người Hà Lan dựa vào công nghệ và hiệu quả cao để tăng cường và củng cố sự thống<br />
trị của họ, thì người Nhật dựa vào quân đội một cách thô bạo hơn, độc đoán hơn và mang tính giả<br />
tạo hơn. Bỏ qua những hành động mang tính chất mị dân như: cho phép người dân Indonesia được<br />
treo cờ dân tộc, được hát bài quốc ca, được đổi tên thủ đô thành Jakarta, trao một số chức vị mà<br />
trước đây thuộc về người Hà Lan cho người bản xứ nắm giữ,. . . thì trên hết, mối quan tâm chính<br />
của người Nhật rõ ràng là sự khai thác kinh tế của Đông Nam Á và các cơ quan chức năng chiếm<br />
đóng đã được chỉ thị rõ ràng phải “nhấn mạnh vào việc thu thập các nguồn lực, đặc biệt là những<br />
yếu tố cần thiết cho việc theo đuổi chiến tranh. . . trọng tâm phát triển nguồn lực sẽ là dầu mỏ, và<br />
các biện pháp bình định với người bản xứ sẽ dừng ở một điểm phù hợp với mục tiêu này” [3; 57].<br />
Với mục đích này, họ đã tạo ra vô số các tổ chức để khai thác tiềm năng chiến tranh trong xã<br />
hội như: các tổ chức cho phụ nữ, các tổ chức cho thanh thiếu niên, các tổ chức Hồi giáo, các nhóm<br />
hỗ trợ lực lượng cảnh sát, các tổ chức cho các nghệ sĩ. . . Trong đó, phải kể đến PETA (Pembela<br />
Tanah Air - Những người bảo vệ Tổ quốc) – tổ chức của các pemuda được người Nhật tuyển dụng,<br />
đào tạo, trang bị và tổ chức thành các tiểu đoàn ở địa phương. Rất lâu rồi, PETA là tổ chức quân đội<br />
đầu tiên được chỉ huy bởi người Indonesia, kể từ sau khi Hà Lan xâm lược và thống trị nước này.<br />
Ngoài PETA, người Nhật còn cung cấp những huấn luyện quân sự cơ bản cho người dân Indonesia<br />
qua nhiều tổ chức khác. Điều quan trọng nhất mà người Nhật làm được, không phải là khả năng<br />
chiến đấu của người Indonesia với một cuộc chiến tranh, mà là “tinh thần” chiến đấu của họ sẽ<br />
được huấn luyện như thế nào.<br />
Các chính sách cai trị của Nhật Bản đã chứng minh rằng, họ không phải là lực lượng đến<br />
từ hòn đảo Tembini như trong lời tiên tri huyền thoại của vị vua Djojobojo, “chiếm Java nhưng<br />
chỉ bằng khoảng thời gian sống của cây ngô” [3; 58], mà họ cũng giống những nhóm người chinh<br />
phục khác mà thôi. Mặc dù có sự khác biệt về hóa trang giữa bậc thầy thực dân cũ và mới, nhưng<br />
bản chất chính sách của họ đều giống nhau. Nhật Bản, cũng giống như Hà Lan, đều coi Indonesia<br />
là quốc gia có những lợi ích kinh tế - chính trị chiến lược, và muốn “giữ Indonesia vĩnh cửu trong<br />
tay người Nhật”. Nhưng cũng chính vì những chính sách đó, mà chủ nghĩa dân tộc ở Indonesia mới<br />
“bước sang một giai đoạn mới”. “Trước khi Nhật Bản xâm chiếm Indonesia, không có bất kì một<br />
sự thay đổi nào dưới sự quản lí của Hà Lan, nhưng trước khi Nhật Bản đầu hàng, có rất nhiều sự<br />
thay đổi, và một cuộc cách mạng ở Indonesia là hoàn toàn có thể thực hiện được” [8; 42].<br />
Cuối năm 1944 đầu năm 1945, những thất bại liên tiếp của phe phát xít đã báo hiệu sự sụp<br />
đổ của phát xít Nhật ở Đông Nam Á. Ngày 16 tháng 4 năm 1945, Liên Xô mở cuộc tấn công vào<br />
Beclin, sào huyệt cuối cùng của phát xít Hitle. Chỉ trong vòng 16 ngày đêm, 1 triệu quân phát xít<br />
Đức đã bị đánh tan. Ngày 9 tháng 5 năm 1945, phát xít Đức đầu hàng Đồng minh không điều kiện,<br />
chiến tranh kết thúc ở mặt trận châu Âu.<br />
Ở mặt trận Châu Á - Thái Bình Dương, quân Mĩ - Anh cũng nhanh chóng đẩy mạnh các<br />
cuộc tấn công quân Nhật. Từ tháng 2 đến tháng 3 năm 1945, Mĩ đã đánh chiếm hai đảo Ivogima<br />
và Okinawa của Nhật. Đây là hai pháo đài kiên cố, án ngữ cửa ngõ vào đất Nhật, nên quân Nhật<br />
chống cự rất ác liệt, dù Mĩ chiếm được, cũng phải chịu thiệt hại rất nặng nề. Từ ngày 6 tháng 8 đến<br />
ngày 8 tháng năm 1945, Mĩ thả hai quả bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagazaki của Nhật,<br />
hủy diệt hoàn toàn hai thành phố này. Ngày 8 tháng 8, Liên Xô tuyên chiến với Nhật. Sáng ngày<br />
hôm sau, Hồng quân Liên Xô đã mở cuộc tấn công như vũ bão vào hơn 1 triệu quân Quan Đông<br />
Nhật. Chưa đầy một tuần, đạo quân này đã bị đánh tan. Ngày 14 tháng 8 năm 1945, chính phủ<br />
Nhật Hoàng tuyên bố đầu hàng Đồng minh không điều kiện. Chiến tranh thế giới thứ II kết thúc ở<br />
115<br />
<br />
Phạm Thị Huyền Trang<br />
<br />
mặt trận châu Á - Thái Bình Dương.<br />
Kết quả của cuộc Chiến tranh thế giới thứ II với thắng lợi thuộc về phe Đồng minh đã làm<br />
cho phát xít Nhật ở các nước Đông Nam Á nói chung và ở Indonesia nói riêng hoang mang, rệu<br />
rã cực độ. Nhân dân các nước thuộc địa trong khu vực và nhân dân Indonesia đứng trước thời cơ<br />
ngàn năm có một: Kẻ thù duy nhất đã lung lay đến tận gốc, quân đội Đồng minh chưa vào làm<br />
nhiệm vụ giải giáp vũ khí, tạo ra một “khoảng trống quyền lực” để giành chính quyền. Đây chính<br />
là nhân tố đầu tiên, có tính chất quyết định đến thắng lợi của cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945<br />
ở Indonesia.<br />
<br />
2.2.<br />
<br />
Sự trưởng thành của phong trào dân tộc chủ nghĩa ở Indonesia<br />
<br />
Chủ nghĩa dân tộc ở Indonesia bắt đầu phát triển mạnh từ đầu những năm 20 của thế kỉ XX,<br />
khi tầng lớp trí thức tiểu tư sản ở nước này tạo ra một phong trào cải cách bằng giáo dục, nhằm đưa<br />
đất nước thoát khỏi tình trạng lạc hậu, kém phát triển, từ đó giành lại nền độc lập cho đất nước.<br />
Mở đầu là việc thành lập ra trường nữ sinh của Raden Ajeng Kartini dành cho con em viên chức<br />
người Java vào năm 1902. Đến năm 1908, tổ chức Boedi Utomo (“Nỗ lực cao”) được thành lập<br />
bởi bác sĩ Wahidin Soedirohoesodo và hoàng tử Notodirdjo, con trai của Pakualam V với mục tiêu<br />
“nâng cao tinh thần của cư dân bản địa”, “tuyên truyền về một Java vĩ đại hơn” - “Greater Java”.<br />
Từ những mục tiêu ban đầu đó, Boedi Utomo dần trở thành tổ chức chính trị, yêu cầu sự bình đẳng<br />
giữa người Indonesia và người Hà Lan, và yêu cầu phải thành lập cơ quan đại diện của Indonesia<br />
trong chính quyền cai trị.<br />
Mặc dù phong trào cải cách ở Indonesia chỉ diễn ra trong một thời gian ngắn, nhưng nó<br />
cũng thổi một luồng gió mới mẻ vào cuộc cách mạng giành độc lập ở nước này, đồng thời, sự phát<br />
triển của phong trào cũng chứng tỏ sự thức tỉnh của chủ nghĩa dân tộc ở Indonesia.<br />
Năm 1927, Đảng dân tộc Indonesia được thành lập dưới sự lãnh đạo của Sukarno. Đảng này<br />
nỗ lực tập hợp tất cả các tổ chức dân tộc chủ nghĩa đang tồn tại để tiến hành một phong trào đấu<br />
tranh bất hợp tác theo mô hình của Gandi đòi độc lập cho Indonesia. Khác với các tổ chức chính trị<br />
trước đó như: Đảng Ấn Độ (1912), Sarekat Islam (1911); Đảng Cộng sản Indonesia (1920), Đảng<br />
dân tộc Indonesia không đi theo phương pháp đấu tranh bạo động, mà lại yêu cầu đòi quyền lợi<br />
cho người lao động, lập các hiệp hội nông dân và công đoàn, đấu tranh chống nạn thất nghiệp, đấu<br />
tranh với việc cho vay nặng lãi, tổ chức quần chúng mittinh, biểu tình, đấu tranh chính trị bất bạo<br />
động. . . Cơ sở tư tưởng và cương lĩnh của Đảng nằm trong học thuyết Marhaenism của Sukarno.<br />
Nội dung của học thuyết này bao gồm: Xu hướng chống đế quốc, thực dân rất rõ rệt; Con đường để<br />
đi tới độc lập dân tộc là chính sách bất hợp tác với thực dân, đế quốc trong tất cả các lĩnh vực kinh<br />
tế chính trị, xã hội; Nhiệm vụ của con đường bất hợp tác là giáo dục dân chúng tin vào khả năng,<br />
sức mạnh của chính mình và đoàn kết tất cả các lực lượng chống thực dân, đế quốc trong một mặt<br />
trận chung, thống nhất [2; 162-163].<br />
Với sự thành lập của Đảng dân tộc Indonesia, chủ nghĩa dân tộc ở nước này đã phát triển<br />
thêm một bước mới. Nhất là từ sau Đại hội lần thứ hai của Đảng (họp vào tháng 10 năm 1928), đã<br />
đưa ra một ý tưởng mới: “một quốc gia - Indonesia; Một dân tộc - Người Indonesia; Một ngôn ngữ<br />
- Bahasa Indonesia”. Ý tưởng đó thực sự đã gây ra một làn sóng lan rộng trong cộng đồng: hàng<br />
trăm tổ chức với tên gọi có từ “Indonesia” đã được thành lập trong nhiều năm sau đó. Điều quan<br />
trọng là trong tư tưởng của mỗi người dân Indonesia, dù họ đến từ Java hay Sumatra, dù họ là đàn<br />
ông hay đàn bà, không kể vùng miền, giai cấp, tôn giáo. . . đều tự xem mình là Indonesia, sử dụng<br />
chung một ngôn ngữ thống nhất - Bahasa Indonesia. Cũng trong Đại hội này, lá cờ với hai màu đỏ<br />
- trắng trở thành cờ hiệu của Đảng dân tộc Indonesia.<br />
116<br />
<br />
Những nhân tổ đưa đến thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Indonesia<br />
<br />
Trong những năm đầu của cuộc Chiến tranh thế giới thứ II (1939-1942), trước sự đe dọa<br />
của chủ nghĩa phát xít, chính sách đoàn kết dân tộc của Sukarno cũng như phong trào dân tộc chủ<br />
nghĩa ở Indonsia cũng có sự điều chỉnh để phù hợp hơn với tình hình mới. Theo đó, Sukarno kêu<br />
gọi tất cả các lực lượng của dân tộc phải đoàn kết, thống nhất trong các tổ chức chính trị lớn đấu<br />
tranh chống thực dân, phát xít như: Liên đoàn các đảng dân tộc Indonesia (1939); Hội đồng nhân<br />
dân Indonesia (1941). Các tổ chức này liên tục có những đấu tranh yêu cầu Hà Lan phải thảo luận<br />
về vấn đề độc lập của Indonesia và yêu cầu một Quốc hội toàn là người Indonesia, yêu cầu thành<br />
lập một liên minh bình đẳng giữa Hà Lan và Indonesia. Thế nhưng, người Hà Lan lại luôn từ chối<br />
cơ hội công nhận độc lập cho Indonesia. Tháng 4 năm 1940, “chính phủ Hà Lan công bố rằng quá<br />
lâu để họ có thể hoàn thành trách nhiệm cho Indonesia và không thể hỏi về quyền tự trị hoặc Quốc<br />
hội của Indonesia” [8; 40].<br />
Khi Nhật vào Đông Nam Á và vào Indonesia, phong trào dân tộc chủ nghĩa ở Indonesia đã<br />
có sự thay đổi để phù hợp với tình hình mới. Từ phương pháp đấu tranh bất hợp tác với chính quyền<br />
Hà Lan, các nhà lãnh đạo như Sukarno, Hatta đã chuyển sang hợp tác với Nhật, để nhằm mục tiêu<br />
lớn nhất là độc lập. Họ miễn cưỡng phục vụ Nhật Bản để tạo ra một tổ chức chính trị dưới sự lãnh<br />
đạo của họ. Không chỉ những nhà dân tộc chủ nghĩa Indonesia, mà người dân nước này cũng hoan<br />
nghênh đối với sự xuất hiện của Nhật Bản. Hành động xâm lược của Nhật Bản được họ chấp nhận,<br />
chỉ vì họ căm ghét chế độ thực dân cũ - Hà Lan, và hơn hết là họ mong mỏi nguyện vọng độc lập<br />
sẽ được đáp ứng. Câu nói của Sukarno đã nói lên tất cả: “Khi bạn ghét ai đó, bạn sẽ yêu những<br />
người đã đuổi chúng đi” [5; 2].<br />
Nhưng Nhật Bản đã nhanh chóng lộ nguyên hình là kẻ còn tàn bạo hơn cả Hà Lan sau những<br />
chính sách mang tính chất mị dân, tung hỏa mù. Hi vọng vào người “da vàng, chân ngắn” theo lời<br />
tiên tri của vua Djojobojo đã nhanh chóng tan theo “chính sách thời chiến” của Nhật. Khoảng nửa<br />
triệu người (công nhân và nông dân) đã bị ép làm việc trong những điều kiện thấp đã không thể<br />
sống sót cho đến khi kết thúc Chiến tranh thế giới thứ hai. Vì vậy, phong trào dân tộc chủ nghĩa ở<br />
Indonesia nhanh chóng lên cao bằng cả hình thức đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang. Tháng<br />
2 năm 1944, lần đầu tiên một phong trào nông dân bùng nổ ở Priga và bị đàn áp dữ dội. Từ tháng<br />
5 đến tháng 8 năm 1944, các cuộc khởi nghĩa liên tiếp bùng nổ ở Tây Java và các cuộc biểu tình<br />
của nông dân đã thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia. Chính phủ Nhật cố gắng ổn<br />
định tâm lí người dân bằng cách xây dựng Văn phòng Hồi giáo Java, nhưng phong trào đấu tranh<br />
giành độc lập do người Hồi giáo lãnh đạo đã trưởng thành và không dễ gì kiểm soát họ. Trong<br />
nhiều thành phố, các tổ chức cách mạng đang thiết lập mạng lưới của họ, họ đã nhận thức được<br />
rằng chiến tranh ngày càng trở nên tồi tệ hơn với Nhật Bản và bắt đầu đặt ra những kế hoạch giành<br />
độc lập để thoát khỏi ách cai trị của Nhật.<br />
Sức ép từ chính phong trào dân tộc chủ nghĩa ở trong nước đã khiến chính phủ Nhật phải<br />
thay đổi. Ngày 7 tháng 9 năm 1944, thủ tướng Nhật Bản Koiso hứa “trao trả độc lập cho Đông<br />
Ấn”, nhưng không đưa ra một ngày rõ ràng để trao trả độc lập. Đến ngày 1 tháng 3 năm 1945,<br />
người Nhật thành lập Ủy bản nghiên cứu chuẩn bị độc lập ở Indonesia do Ratgiman đứng đầu. Ủy<br />
ban đã lấy 5 nguyên tắc mà Sukarno đưa ra vào ngày 1 tháng 6 năm 1945 làm cơ sở cho sự thống<br />
nhất các lực lượng dân tộc trong cuộc đấu tranh vì một nước Indonesia độc lập. Ngày 11 tháng<br />
5 năm 1945, chính phủ Nhật tuyên bố sẽ trao trả độc lập cho Indonesia vào ngày 1 tháng 1 năm<br />
1946. Tuy nhiên, do tình hình thế giới chuyển biến rất mau lẹ, ngày càng bất lợi cho Nhật, nên<br />
ngày 8 tháng 8 năm 1945, nguyên soái Terauchi, Tổng tư lệnh các lực lượng quân đội Nhật ở khu<br />
vực phía Nam đã mời Sukarno, Hatta và Ratgiman cùng một số nhà lãnh đạo khác của Indonesia<br />
tới Đà Lạt (Việt Nam) để thảo luận về vấn đề tuyên bố độc lập của Indonesia.<br />
Như vậy, phong trào dân tộc chủ nghĩa ở Indonesia đã ngày càng trưởng thành từng bước<br />
117<br />
<br />