Những phát hiện về vạn vật và con người, P 13 - Chương 63<br />
<br />
“Nghệ thuật viết chữ nhân tạo”<br />
Chúng ta nghĩ về Gutenberg như là “người phát minh ra máy in” hay ít ra là<br />
người phát minh ra “khuôn chữ di động”. Nhưng khi chúng ta đồng hóa ông<br />
một cách chung chung với cuốn sách in Kinh thánh rất đẹp là tác phẩm lớn<br />
đầu tiên của ông và vẫn còn là một báu vật trong các thư viện lớn của chúng<br />
ta, chúng ta đã làm lu mờ vai trò chủ yếu của ông. Bởi lẽ ông không chỉ là<br />
nhà tiên phong cho những cuốn sách in tuyệt vời đầu tiên trong thời đại của<br />
ông. Ông còn là một nhà tiên tri cho những thế giới mới, trong đó những<br />
máy móc sẽ làm công việc của người sao chép, máy in sẽ thay thế phòng sao<br />
chép và kiến thức sẽ được truyền bá tới vô số những cộng đồng chưa từng<br />
thấy.<br />
Giữa những người hùng của lịch sử cận đại, ít người bị lu mờ hơn Johann<br />
Gutenberg (khoảng 1394-1468). Nhưng trong khi bản thân ông bị lu mờ, sự<br />
nghiệp của ông thì không. Công trình của ông là chóp đỉnh công trình của<br />
nhiều người khác. Ông đã tập hợp lại những gì người khác không tập hợp<br />
được và ông đã dám liều mọi sự để thử vận may của mình. Hầu hết những<br />
điều chúng ta biết về Gutenberg là do những vụ kiện tụng dai dẳng về việc<br />
đầu tư vào cơ sở in của ông và những lợi tức thu được do sáng chế của ông.<br />
Hiển nhiên ở châu Âu đã có việc in ấn từ lâu trước Gutenberg, nếu chúng ta<br />
hiểu in như là tạo ra những hình ảnh nhờ ấn hay ép lên một cái gì. Trong<br />
tiếng Anh, “to print (in) lúc đầu mô tả việc ấn một con dấu như khi ta in<br />
những đồng xu và như thế ta dễ hiểu tại sao Gutenberg xuất thân là một<br />
người thợ rèn. Sáng chế có tính quyết định của ông thực ra không phải là<br />
nghĩ ra một cách thức mới để “in” cho bằng một cách thức mới để nhân bản<br />
các khuôn chữ riêng biệt. Trước ông đã từng có những người nghĩ tới việc<br />
khắc một hình ảnh ngược trên gỗ hay kim loại, rồi ép nó với mực vào vải,<br />
da, hay giấy. Nhưng thường họ in nguyên một trang giấy, nguyên một hình<br />
vẽ. Gutenberg đã cắt nhỏ qui trình thành những phần. Ông nhìn việc in<br />
nguyên một trang giấy cũng chính là in ghép các chữ riêng biệt lại và lặp đi<br />
lặp lại nhiều lần. Thế thì tại sao ta không làm nhiều bản của mỗi chữ, để có<br />
thể dùng đi dùng lại bao nhiêu lần tùy theo nhu cầu.<br />
Tài năng của Gutenberg trong nghề thợ rèn và nghề đúc khuôn kim loại đã<br />
giúp ông nhìn ra được những vấn đề của người thợ in mà người thợ rèn<br />
không gặp phải khi chế tạo một món kim hoàn duy nhất. Ví dụ, để làm một<br />
cuốn sách in, mỗi khuôn chữ phải có cùng chiều cao chính xác như nhau.<br />
<br />
Việc còn lại chỉ là làm sao cho mỗi khuôn chữ “di chuyển” được. Mọi khuôn<br />
chữ mẫu phải có thể thay đổi chỗ cho nhau.<br />
Các vấn đề khác chỉ xuất hiện khi Gutenberg lợi dụng cơ hội để cắt nhỏ<br />
trang khuôn con chữ dày đặc thành những chữ riêng biệt. Chỉ cần bề mặt<br />
một bản khuôn gỗ mịn và phẳng, sau khi chữ ngược được khắc nổi lên và<br />
quét mực vào, nó sẽ in ra một bản in đều và đọc được. Nhưng nếu đúc rời<br />
từng chữ, làm thế nào có thể ghép chúng chung lại để có một bề mặt phẳng<br />
đều? Sáng chế quyết định của Gutenberg là thiết kế đặc biệt một khuôn chỉ<br />
để đúc nhanh và với số lượng lớn những miếng theo cùng một mẫu giống hệt<br />
nhau. Đây chính là một máy dụng cụ - một dụng cụ để làm những máy<br />
(nghĩa là khuôn chữ) làm công việc in.<br />
Bộ chữ cái La tinh, với một ít ký tự bổ sung khác nhau, rất thích hợp để làm<br />
khuôn chữ có thể hoán đổi và làm máy in trong nền văn minh phương Tây.<br />
Ngược lại, chữ viết Trung Hoa, với quá nhiều chữ tượng ý khác nhau, không<br />
thể thích hợp để làm các khuôn chữ hoán đổi. Vì dù có làm nhiều bản mẫu<br />
của một chữ tượng ý, làm sao có thể sắp xếp chúng để có thể lấy ra đúng chữ<br />
mong muốn một cách nhanh chóng.<br />
Bây giờ dụng cụ làm khuôn chữ mà Gutenberg sáng chế tỏ ra vô cùng đơn<br />
giản. Nó là một cái hộp chữ nhật có bản lề và mở được ở hai đầu. Một đầu<br />
được đóng kín bằng cách chèn vào một khuôn cối, một thanh kim loại dẹp đã<br />
được đục lõm hình một chữ. Sau đó cái hộp được đặt đứng trên đầu đó, còn<br />
đầu bên trên người ta đổ kim loại chảy vào. Khi kim loại nguội đi, nó có<br />
hình nổi của một chữ ở đáy hộp, người ta mở hộp ra và thế là có được một<br />
“cây” khuôn chữ. Bằng cách lặp đi lặp lại qui trình, người ta có thể có những<br />
khuôn chữ giống hệt nhau nhiều bao nhiêu tùy ý. Để làm những khuôn chữ<br />
có bề rộng đúng theo mỗi con chữ khác nhau (vì “i” chỉ có bề rộng bằng 1/3<br />
“w”) nhưng lại có chiều cao đều y như nhau, cái hộp phải có khả năng điều<br />
chỉnh được. Gutenberg giải quyết chuyện này bằng cách làm một bộ phận<br />
trượt cho phép làm cho cái hộp rộng ra hay hẹp lại để khớp với chiều rộng<br />
của những khuôn cối khác nhau ở đáy hộp. Cái hộp khuôn phải bọc gỗ để<br />
tránh cho người đúc chữ khỏi bỏng tay. Khuôn cối để đổ kim loại chảy vào<br />
phải được đục một cách chính xác và có độ sâu đồng đều ở mọi điểm. Tài<br />
khéo của người thợ rèn phải bảo đảm các miếng khuôn chữ xếp lên khay tạo<br />
nên một hình in đồng đều trên trang giấy. Gutenberg cần một hợp kim dễ<br />
chảy, mau nguội và chảy đều.<br />
Còn hai vấn đề nữa phải giải quyết trước khi những miếng khuôn chữ hoán<br />
đổi được có thể trở thành những dụng cụ hiệu quả để in một trang giấy. Phải<br />
biết cách làm cho nhiều khuôn chữ khác nhau giữ chặt lấy nhau và ấn chúng<br />
mạnh và chắc trên bề mặt giấy in. Cả người Trung Hoa lẫn người châu Âu<br />
<br />
đều chưa sử dụng máy ép để in, ngược lại, người ta thường in bằng cách bôi<br />
mực lên khuôn in, rồi trải một tờ giấy lên khuôn và chà phía mặt sau tờ giấy<br />
để có hình in đồng đều. Trong máy in của Gutenberg, người ta dùng một<br />
máy ép bằng gỗ có ốc vặn của thợ đóng sách và thích nghi nó để dùng vào<br />
việc in. Rồi còn vấn đề mực in cần thiết để có thể dính đều trên những mặt<br />
khuôn chữ. Mực in này phải hoàn toàn khác với loại mực mà những thợ sao<br />
chép dùng cho các cây viết của họ để viết trên giấy hay trên da. Cũng phải<br />
khác với loại mực in dùng cho những bản khắc gỗ. Điều Gutenberg càn có là<br />
một loại sơn dầu. Khi chế tạo mực in của mình, ông đã dựa vào kinh nghiệm<br />
của những thợ vẽ người Flamand là nghiền chất màu của họ trong dầu lanh.<br />
Không lạ gì Gutenberg phải mất nhiều năm để giải quyết các vấn đề nói trên<br />
và làm cho các giải pháp của mình hòa hợp với nhau. May thay, một vấn đề<br />
là cách chế tạo bề mặt để in ra sản phẩm của mình thì chủ yếu đã được giải<br />
quyết rồi. Giấy đã được Trung Hoa phát minh ra và là một đóng góp chủ yếu<br />
cho sự tiến bộ của việc in sách. Các vấn đề khác đòi hỏi nơi Gutenberg sự<br />
kiên trì, tinh xảo và các nguồn tài chính mà Gutenberg có thể tập hợp được.<br />
Động lực đời sống của Gutenberg chính là quyết tâm của ông để theo đuổi<br />
công trình của mình cho đến khi nó hoàn thiện và đồng thời giữ bí mật đối<br />
với các đối thủ cạnh tranh. Các thử nghiệm của ông rất tốn kém và ông đã bị<br />
hỏng nhiều lần.<br />
Tiểu sử của Gutenberg là cả một chuỗi những tranh chấp và kiện tụng. Hầu<br />
hết những thông tin chắc chắn chúng ta có về ông đều đến từ những vụ kiện<br />
tụng chống lại ông. Chúng ta thậm chí không biết đích xác ngày sinh của<br />
ông, có thể giữa khoảng 1394 và 1399, tại thành phố chiến lược Mains, nơi<br />
sông Main đổ vào sông Rhin. Tên khai sinh của ông là Johann Gensfleisch,<br />
về sau ông lấy tên Gutenberg là tên một lãnh địa của gia đình khi đời sống<br />
thành phố bị xáo trộn bởi những cuộc đấu tranh giưã những gia đình quí tộc<br />
như gia đình ông và những phường hội vừa mới nổi dậy. Vì cha của<br />
Gutenberg có liên quan tới xưởng đúc tiền của địa phận, nên chàng thanh<br />
niên Johann trở nên quen thuộc với nghề đúc kim loại. Khi trưởng thành,<br />
Gutenberg sống khi thì ở Mains khi thì ở Strasbourg phía thượng nguồn sông<br />
Rhin mỗi khi phải trốn tránh những phường hội thù địch của mình.<br />
Trong một loạt các vụ kiện tụng, chúng ta thấy cả sự kiên trì của Gutenberg<br />
lẫn ước muốn giữ bí mật sáng chế của ông. Một vụ kiện tụng đạt tột đỉnh vào<br />
năm 1439, Gutenberg là chuyên gia đúc kim loại đã kêu gọi sự góp vốn cổ<br />
phần của ba công dân Strasbourg và ông hứa sẽ dạy cho họ phương pháp<br />
mới để chế tạo những chiếc gương soi mà họ dự định sẽ bán cho những<br />
khách hành hương trên sông Rhin. Nhưng họ đã tính sai năm xảy ra cuộc<br />
hành hương và vì thế không có phiên chợ để bán những quà lưu niệm.<br />
<br />
Gutenberg lại làm một hợp đồng mới, lần này ông hứa dạy cho các cổ đông<br />
một qui trình bí mật mới không nõi rõ trước mà họ có thể đầu tư nhiều vốn<br />
vào. Theo những điều khoản của hợp đồng với giá trị 5 năm (1438-1883),<br />
nếu bên nào chết trong khi hợp đồng đang có hiệu lực, thì không người thừa<br />
kế nào được thay chỗ người ấy trong cổ phần. Thay vào đó, người thừa kế sẽ<br />
được hưởng một khoản bồi thường 100 đồng gulden. Khi một cổ đông chết<br />
năm 1439, các anh em của người này đòi được thế chỗ trong cổ phẩn và<br />
được chia sẻ những bí mật của cổ phần. Gutenberg từ chối. Những người<br />
thừa kế đưa kiện ra tòa nhưng họ thua kiện. Các cổ đông còn sống buộc phải<br />
thề giữ bí mật. Trong thời gian xử kiện, rất ít điều được tiết lộ về phát minh<br />
của Gutenberg, nhưng có thể các cổ đông đã tiếp tục đổ vốn lớn vào những<br />
thí nghiệm không được tiết lộ đó.<br />
Phần còn lại của sự nghiệp kinh doanh của Gutenberg cho thấy ông liên tục<br />
tìm kiếm thêm những khoản vốn lớn nhưng từ chối bản sản phẩm của mình<br />
trước khi ông đã hoàn thiện được qui trình mới làm ông hài lòng. Những gì<br />
ông làm đều đòi những vật liệu rất đắt tiền. Đồng thời khi những vụ kiện<br />
tụng xảy ra, ông luôn chỉ dẫn cho các cổ đông của mình tháo dỡ các máy<br />
móc thí nghiệm của mình để không ai biết được ông đang làm gì. Tất cả<br />
những máy móc này hiện còn tồn tại ở Strasbourg.<br />
Gutenberg đã quay trở lại Mains năm 1448 để kiếm thêm vốn. Tại đây ông<br />
đã gặp một nhà tài trợ là Johann Fust, một luật gia giàu có đã góp vốn 2 lần<br />
800 đồng gulden cho dự án của Gutenberg. Nhưng sau 5 năm Fust vẫn<br />
không nhận lại được phần tiền lời của mình. Năm 1455 Fust kiện Gutenberg<br />
và đòi hoàn trả số tiền vốn cùng với số tiền lời gộp và quyền sở hữu tất cả tài<br />
sản của Gutenberg. Nhưng mục tiêu của Gutenberg không phải là kiếm lời.<br />
Ông đã quyết định tìm cách để giữ lại mẫu thiết kế sắc nét và màu sắc tươi<br />
sáng của những thủ bản được chiếu sáng đồng thời làm ra nhiều bản giống<br />
hệt nhau. Ông không vội đưa ra thị trường một sản phẩm chưa hoàn hảo.<br />
Khi Fust thắng kiện, Gutenberg bị tòa buộc phải trả ông 2,026 đồng gulden<br />
và trao lại cho ông này tất cả những nguyên liệu và máy móc, gồm những<br />
trang sách và khuôn chữ của Kinh thánh mà Gutenberg đã làm trong một<br />
thời gian dài. Fust tiếp tục dự án của Gutenberg, với sự giúp đỡ của con rể là<br />
Peter Schoffer, người từng là đốc công cho Gutenberg và vì thế biết rất rõ tất<br />
cả bí mật. Schoffer đã đứng ra làm chứng chống lại Gutenberg trong vụ kiện<br />
1455. Khi Kinh thánh “Gutenberg” xuất hiện một ít lâu trước năm 1456, nó<br />
không có phần lời ghi cuối sách. Sản phẩm của bao nhiêu năm vất vả của<br />
Gutenberg đã trở thành tài sản của công ty mới Fust và Schoffer.<br />
Chúng ta có đủ chứng cớ để thấy rằng việc in ấn đối với Gutenberg và thế hệ<br />
của ông không chỉ đơn thuần là một kỹ thuật mà còn là một nghệ thuật. Các<br />
<br />
người yêu sách đều nhất trí rằng cuốn sách in đầu tiên ở châu Âu là một<br />
trong những cuốn sách đẹp nhất. Hiệu quả kỹ thuật trong công việc của<br />
Gutenberg, nét in sách và tính bền của sản phẩm đã không có thêm cải tiến<br />
nào quan trọng cho tới thế kỷ 19.<br />
<br />
Những phát hiện về vạn vật và con người, P 13 - Chương 64<br />
<br />
Các cộng đồng ngôn ngữ địa phương<br />
Thắng lợi của sách in không bao lâu đã dẫn đến thắng lợi của các ngôn ngữ<br />
địa phương, để những ngôn ngữ này trở thành những ngôn ngữ quảng bá<br />
kiến thức khắp châu Âu. Các sách văn học in bằng ngôn ngữ địa phương đã<br />
định hình việc tư duy bằng hai cách khác hẳn nhau. Chúng phổ cập nhưng<br />
đồng thời cũng địa phương hóa. Bây giờ, khi các tác phẩm khoa học không<br />
chỉ xuất hiện bằng tiếng La tinh, mà còn bằng tiếng Pháp, ý, Tây Ban Nha,<br />
Đức và Hà Lan, những cộng đồng hoàn toàn mới lập tức được gia nhập thế<br />
giới khoa học. Khoa học trở thành phổ cập hơn bao giờ hết. Nhưng khi tiếng<br />
la tinh, vốn là tiếng quốc tế của toàn thể cộng đồng trí thức châu Âu, nay bị<br />
thay thế bằng những tiếng quốc gia hay địa phương, kiến thức cũng có<br />
khuynh hướng trở thành quốc gia hay địa phương. Kiến thức được thu thập<br />
từ mọi nơi và mọi thời đại trong quá khứ nay được gói ghém vào những gói<br />
riêng chỉ được mở ra cho dân chúng của một nơi riêng biệt nào đó. Khi ngôn<br />
ngữ viết và giờ đây ngôn ngữ in trở thành phổ cập hơn, văn học có thêm<br />
những nội dung rộng rãi hơn về giải trí, tưởng tượng và mạo hiểm. Sự giải trí<br />
đã có thêm sự kính trọng.<br />
Khó mà biết được có bao nhiêu phương ngữ hay thổ ngữ ở châu Âu trước<br />
thời đại máy in. Các nhà nghiên cứu ngày nay đã xác định có khoảng ba<br />
ngàn ngôn ngữ hiện vẫn đang được nói, không kể những thổ ngữ nhỏ. Vào<br />
cuối thời trung cổ, có thể còn có nhiều hơn con số ấy. Vào thế kỷ 12, khi một<br />
sinh viên từ Normandie đến đại học Paris, anh có thể không nghe được tiếng<br />
nói của một sinh viên từ Marseillies, vì thời ấy chưa có một tiếng Pháp<br />
chuẩn. Các sinh viên học ở đại học Heidelberg hay Bologna hay Salamanca<br />
hay oxford cũng gặp những vấn đề về ngôn ngữ như thế, vì chưa có một<br />
tiếng Đức, ý, Anh hay Tây Ban Nha chuẩn.<br />
Trừ một số ngoại lệ như các ngôn ngữ Basque và uralic, các ngôn ngữ nói ở<br />
châu Âu mới đều thuộc về dòng ngôn ngữ Âu - Ấn và hình như đã xuất phát<br />
từ một ngôn ngữ được nói ở vùng Bắc Âu vào thời tiền sử, từ đó phát sinh ra<br />
<br />