Những thành tựu về kinh tế Việt Nam sau 30 năm đổi mới<br />
<br />
<br />
Ba mươi năm qua, đặc biệt là từ sau năm 1986 khi tiến hành công<br />
cuộc đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, toàn diện và<br />
có ý nghĩa lịch sử, thay đổi đời sống mọi mặt của người dân: kinh tế tăng<br />
trưởng ở mức tương đối cao, đời sống của nhân dân không ngừng được<br />
cải thiện, tình hình chính trị và xã hội ổn định, quan hệ đối ngoại được mở<br />
rộng và vị thế của Việt Nam ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế.<br />
Thành tựu nổi bật nhất là Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế tương<br />
đối cao trong nhiều năm liên tục (đứng thứ hai châu Á). Trong vòng 10 năm<br />
từ 1991 đến 2000, GDP của Việt Nam đã tăng gấp đôi, với tỷ lệ tăng bình<br />
quân hàng năm là 7,5%. Từ năm 2001 đến nay, GDP tăng trưởng trung<br />
bình trên 7%/năm. Riêng năm 2004, GDP tăng 7,6% so với năm 2003. Cơ<br />
cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tiến bộ, tỷ trọng công nghiệp<br />
và dịch vụ trong GDP tăng dần, tỷ trọng nông nghiệp giảm dần: nông, lâm<br />
thủy sản giảm từ 40,2% năm 1985 xuống còn 21,76% năm 2004; tương<br />
ứng nhóm ngành công nghiệp-xây dựng đã tăng từ 27,4% lên 40,09%,<br />
nhóm ngành dịch vụ đã tăng từ 32,5% lên 38,15%..<br />
Môi trường đầu tư nước ngoài của Việt Nam ngày càng thông thoáng. Luật<br />
Đầu tư Nước ngoài tại Việt Nam cùng hàng loạt các văn bản pháp luật<br />
khác từng bước tạo lập một hệ thống pháp luật minh bạch và hấp dẫn đối<br />
với các doanh nghiệp nước ngoài. Tính đến hết tháng 11/năm 2004, có<br />
hơn 5.100 dự án đầu tư nước ngoài còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư đăng<br />
ký trên 45,5 tỷ USD, trên 50% số dự án đã đi vào hoạt động với số vốn<br />
thực hiện trên 26 tỷ USD. Riêng năm 2004, Việt Nam thu hút được 4,1 tỷ<br />
USD FDI trong đó 2,3 tỷ USD là dự án mới còn 1,8 tỷ là vốn bổ sung.<br />
Doanh nghiệp FDI đóng góp gần 15% GDP, chiếm trên 30% tổng kim<br />
ngạch xuất khẩu, đóng góp 4,9% tổng thu ngân sách Nhà nước và tạo ra<br />
hàng vạn công ăn việc làm.<br />
Xuất khẩu Việt Nam cũng tăng liên tục trong nhiều năm, đạt 26 tỷ USD<br />
năm 2004, tăng 30% so với 2003. Việt Nam là một trong những nước xuất<br />
khẩu hàng đầu thế giới về một số mặt hàng nông sản như gạo, cà phê, hồ<br />
tiêu… Những mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu đạt hơn 2 tỷ USD là dầu<br />
thô, hàng dệt may, giày dép. Có hai mặt hàng mới của Việt Nam đạt kim<br />
ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD là đồ gỗ và hàng điện tử máy tính. Kim<br />
ngạch nhập khẩu năm 2004 đạt khoảng 31,5 tỷ USD tăng 25% so với<br />
2003. Nhập siêu ước đạt 5,5 tỷ USD, bằng 21,2% kim ngạch xuất khẩu.<br />
Riêng trong lĩnh vực kinh tế, kể từ khi Luật Doanh nghiệp 4 năm trước đây,<br />
hơn 75 nghìn doanh nghiệp tư nhân đã ra đời, đóng góp khoảng 10 tỷ<br />
USD, chiếm 27% tổng số vốn đầu tư của toàn xã hội, giải quyết việc làm<br />
cho gần 6 triệu lao động.<br />
Khu vực kinh tế nhà nước được sắp xếp lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả.<br />
Số lượng doanh nghiệp nhà nước đã giảm từ hơn 12.000 xuống còn<br />
khoảng trên 4.700, trong đó gần 1000 doanh nghiệp đã được cổ phần hoá.<br />
Mục tiêu của Việt Nam năm 2005 sẽ cổ phần hoá hơn 2000 doanh nghiệp<br />
nữa. Hiện Việt Nam đang xây dựng Luật cạnh tranh cùng với việc hạn chế<br />
và kiểm soát độc quyền kinh doanh nhằm tạo môi trường cạnh tranh bình<br />
đẳng, phù hợp với các chuẩn mực quốc tế.<br />
Cải cách tài chính - ngân hàng là lĩnh vực được Chính phủ đặc biệt quan<br />
tâm. Những thành tựu trong lĩnh vực này đã góp phần ổn định kinh tế vĩ<br />
mô, hạn chế bội chi ngân sách, kiềm chế lạm phát, bảo đảm tính minh<br />
bạch của tài chính nhà nước, xoá bỏ dần bao cấp qua tín dụng, áp dụng tỷ<br />
giá và lãi suất phù hợp với cung cầu thị trường, gia tăng huy động và nâng<br />
cao hiệu quả sử dụng vốn.<br />
Tại Việt Nam, lần đầu tiên hình thành và dần phát triển các loại thị trường<br />
chứng khoán, thị trường tài chính, thị trường lao động, thị trường bất động<br />
sản…<br />
Đi đôi với tập trung phát triển kinh tế, Nhà nước đặc biệt quan tâm giải<br />
quyết các vấn đề xã hội, dành hơn 1/3 tổng vốn đầu tư của toàn xã hội cho<br />
các nhiệm vụ xoá đói giảm nghèo, phát triển nguồn nhân lực, giáo dục -<br />
đào tạo, khoa học - công nghệ, y tế, văn hoá... Đời sống mọi mặt của<br />
người dân Việt Nam từ nông thôn đến thành thị, từ đồng bằng đến miền<br />
núi đã được cải thiện nhanh chóng. Hầu hết các chỉ tiêu phát triển xã hội<br />
đều đạt và vượt kế hoạch: tạo việc làm mới cho 1,5 triệu lao động, thu<br />
nhập GDP theo đầu người đã tăng gấp đôi trong giai đoạn từ 1995-2003.<br />
Trong vòng 10 năm từ 1993 đến 2002, Việt Nam đã giảm tỷ lệ nghèo<br />
chung theo chuẩn quốc tế từ mức 58% xuống còn 28,9% dân số, tương<br />
đương với khoảng 25 triệu người thoát khỏi cảnh nghèo đói và được Liên<br />
Hợp Quốc đánh giá là một trong những nước dẫn đầu thế giới về thành<br />
tích xóa đói giảm nghèo.<br />
Các quyền công dân ghi trong Hiến pháp, kể cả quyền tự do tín ngưỡng và<br />
quyền sinh hoạt tôn giáo hợp pháp ở Việt Nam được tôn trọng. Số lượng<br />
tín đồ, các nhà tu hành cũng như các cơ sở tôn giáo tại Việt Nam ngày<br />
càng tăng. Quyền làm chủ của nhân dân được thực hiện trên nguyên tắc<br />
"dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân hưởng thụ". Hệ thống pháp<br />
luật không ngừng được hoàn thiện nhằm xây dựng nhà nước pháp quyền<br />
của dân, do dân và vì dân<br />
Chính sách đối ngoại của Việt Nam “sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của<br />
tất cả các nước” đã đem lại những kết quả rất tích cực. Đến nay, Việt Nam<br />
có quan hệ ngoại giao với 168 nước trên thế giới và quan hệ thương mại<br />
với 165 nước và vùng lãnh thổ. Hiện nay, Việt Nam là thành viên tích cực<br />
của nhiều tổ chức, diễn đàn quốc tế và khu vực như Liên hợp quốc,<br />
ASEAN, APEC, ASEM... Việt Nam cũng đang tiến gần đến việc gia nhập<br />
WTO.<br />
Bên cạnh những thành tựu to lớn và cơ bản đã đạt được, tình hình kinh tế<br />
- xã hội của Việt Nam vẫn còn những mặt yếu kém: tốc độ tăng trưởng<br />
kinh tế chung còn ở mức thấp so với kế hoạch đề ra. Chất lượng tăng<br />
trưởng, tính bền vững và độ đồng đều chưa cao (ví dụ như trong các<br />
ngành sản xuất và dịch vụ.) Trong công nghiệp giá trị sản xuất tăng 16%<br />
nhưng giá trị tăng thêm chỉ tăng 10,7%. Giá hàng hóa, dịch vụ trong nước<br />
tăng cao. Tính cạnh tranh của hàng hóa còn thấp<br />
Các chỉ tiêu chủ yếu của Việt Nam năm 2005 là: GDP tăng 8,5 %; giá trị<br />
sản xuất công nghiệp và xây dựng tăng 16%, giá trị tăng thêm tăng 11%;<br />
giá trị sản xuất nông, lâm ngư nghiệp tăng 5,2%; giá trị tăng thêm tăng<br />
3,8%; giá trị tăng thêm của các ngành dịch vụ tăng 8,2%, tổng kim ngạch<br />
xuất khẩu tăng 16%, chỉ số giá tiêu dùng không tăng quá 6,5%, giảm tỷ lệ<br />
hộ nghèo xuống dưới 7%, tạo thêm 1,6 triệu việc làm…<br />