Xã hội học, số 4 - 1986<br />
<br />
NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
XÃ HỘI HỌC VÀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI<br />
<br />
BÙI THẾ CƯỜNG<br />
<br />
<br />
<br />
Trong khoảng 15 - 20 năm trở lại đây, ở các nước xã hội chủ nghĩa xuất hiện ngày càng nhiều công<br />
trình nghiên cứu về chính sách xã hội. Cần nói ngay rằng, cho đến nay chưa có một cách hiểu thống<br />
nhất về khái niệm “chính sách xã hội”. Điều này dễ hiểu, vì rằng, một mặt, mỗi nước có một thực tiễn<br />
xã hội khác nhau, mặt khác, những bước nhận thức khoa học đầu tiên bao giờ cũng là giai đoạn phát<br />
triển khái niệm theo chiều rộng.<br />
Tuy nhiên, trên mọi lĩnh vực của cuộc sống, con người không hề chờ đợi có một định nghĩa đầy đủ<br />
của các nhà bác học rồi mới hành động. Ngược lại, con người nhận thức khái niệm thông qua thực tiễn.<br />
Ở đây cũng vậy, mỗi người dân bình thường đều hình dung được rất rõ ràng về một lĩnh vực hoàn toàn<br />
xác định mà ngôn ngữ chính thức gọi là “chính sách xã hội”. Có thể ghi nhận rằng, nội dung và hình<br />
thức của chính sách xã hội được nghiên cứu khá rộng rãi và phong phú, song cho tới nay, việc trình<br />
bày chúng chưa đạt tới một trật tự bên trong rõ ràng, nói cách khác, chưa có một cách nhìn lý thuyết<br />
chặt chẽ.<br />
Trong các nước xã hội chủ nghĩa, Ba Lan đã quan tâm rất sớm đến chính sách xã hội. Trong<br />
khoảng thời gian giữa hai cuộc đại chiến thế giới, bộ môn chính sách xã hội đã phát triển khá mạnh mẽ<br />
ở Ba Lan. Trong phần nhập đề cuốn chuyên khảo Chính sách xã hội, các tác giả Ba Lan xác định:<br />
“Chính sách xã hội - đó là hoạt động có mục đích của Nhà nước và các chủ thể khác trong lĩnh vực<br />
hình thành điều kiện sống của dân cư và hình thành các quan hệ giữa các cá nhân. Chúng ta hiểu khái<br />
niệm “điều kiện sống của dân cư” bao gồm cả điều kiện sinh hoạt lẫn điều kiện lao động; còn khái<br />
niệm “quan hệ giữa các cá nhân” là hệ thống các quan hệ giữa người và người ở nơi làm việc, cũng<br />
như nơi cư trú” ( 1 ).<br />
Cộng hòa dân chủ Đức cũng có một sự quan tâm lâu dài bà đặc biệt đối với chính sách xã hội. Một<br />
nhà xã hội học Cộng hòa Dân chủ Đức đã chứng minh rằng ngay từ thế kỷ XIX, Đảng Xã hội - dân<br />
chủ Đức đã có một chiến lược chính sách xã hội dựa trên những nghiên cứu tỉ mỉ của kinh tế học và xã<br />
hội học về điều kiện sống của giai cấp công nhân Đức ( 2 ).<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
1<br />
Tập thể tác giả: Chính sách xã hội. Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, tr.7.<br />
2<br />
Xem Uwe Kooch: Tư tưởng xã hội học và chính sách xã hội của Đảng Xã hội-dân chủ Đức, trong:<br />
Soziologie und Soztalpolitik, số 3, 1982.<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
Xã hội học, số 4 - 1986<br />
<br />
42 BÙI THẾ CƯỜNG<br />
<br />
<br />
Tiếp tục truyền thống đó, Đảng Xã hội chủ nghĩa thống nhất Đức coi trọng phát triển nghiên cứu chính<br />
sách xã hội và vận dụng nhất quán nguyên tắc thống nhất giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội.<br />
Trong một bài viết có tính cách khái quát các tri thức đã đạt được về chính sách xã hội ở Cộng hòa<br />
Dân chủ Đức những năm gần đây. G.Winkler xác định: “Dưới điều kiện xã hội chủ nghĩa, với tính<br />
cách là bộ phận hợp thành không thể tách rời trong chính sách của giai cấp công nhân lãnh đạo và bạn<br />
đồng minh của nó, chính sách xã hội Mác - Lênin là hoạt động tích cực của các giai cấp và tầng lớp,<br />
của các tổ chức và cơ quan thuộc những giai cấp và tầng lớp này nhằm thực hiện những lợi ích và mục<br />
tiêu xã hội của mình. Chính sách xã hội là tổng thể những biện pháp và phương pháp của Đảng của<br />
giai cấp công nhân, Nhà nước xã hội chủ nghĩa, các công đoàn và các đảng phái và tổ chức chính trị<br />
khác nhằm hình thành các quan hệ xã hội” ( 3 ).<br />
Các nhà nghiên cứu chính sách xã hội ở Hungari thường có xu hướng hình dung cụ thể về khái<br />
niệm này. Chẳng hạn, một tác giả viết: “Chính sách xã hội là bộ phận hợp thành của chính sách Nhà<br />
nước được xác định bởi những chuẩn mực đặc thù và nhằm giải quyết các vấn đề xã hội phù hợp với<br />
mục đích của Nhà nước. Nguyên tắc duy nhất của các chuẩn mực đặc thù này là: mỗi công dân hoàn<br />
thành theo khả năng của mình nghĩa vụ đối với xã hội, phải được bảo đảm mọi thứ cần thiết cho cuộc<br />
sống, thậm chí ngay cả trong trường hợp do lỗi của mình mà người đó không thể làm việc được nữa”<br />
( 4 ).<br />
Các nhà khoa học Xô-viết đặt vấn đề chính sách xã hội trên quan niệm có tính chất lý luận rộng<br />
lớn. V.Z. Rôgôvin, một tác giả quen thuộc trong lĩnh vực chính sách xã hội, quan niệm rằng chính sách<br />
xã hội là một hướng chủ yếu trong hoạt động lập kế hoạch và quản lý của Đảng và Nhà nước nhằm<br />
vào một lĩnh vực rộng lớn và tương đối độc lập của đời sống xã hội, đó là các quan hệ xã hội. Mặt<br />
khác, tác giả coi lối sống xã hội chủ nghĩa là mục tiêu tổng quát nhất của sự phát triển xã hội. Rôgôvin<br />
dẫn lại ý kiến của V.X. Xêmênốp nói rằng: “Lối sống của con người là sự phản ánh tổng hợp tất cả<br />
những gì mà xã hội đã đạt được qua sự phát triển vật chất và tinh thần của mình và những gì mà xã hội<br />
đã có thể đem lại cho con người. Có thể nói rằng, lần đầu tiên trong một biểu hiện đại chúng đến như<br />
vậy, sự phát triển tự do và toàn vẹn của con người đã có được một tiêu chuẩn hoàn toàn thực tại và cụ<br />
thể là phương thức hoạt động, là lối sống với tất cả các đặc điểm của nó” ( 5 ). Rôgôvin quan niệm giữa<br />
chính sách xã hội và lối sống có một mối liên hệ trực tiếp: đối tượng của chính sách xã hội là lối sống<br />
trong tất cả mọi lĩnh vực của nó ( 6 ).<br />
Điểm qua những cách hiểu trên đây về chính sách xã hội, chúng ta thấy cần phải xem xét tỉ mỉ hơn<br />
nội dung của chính sách đó.<br />
<br />
<br />
3<br />
G. Winkler: Nhiệm vụ và chức năng của chính sách xã hội trong việc hình thành xã hội xã hội chủ nghĩa<br />
phát triển ở Cộng hòa Dân chủ Đức (Các luận đề) trong: Soziologie und Sozialpolitik. Berlin, 1982, Heft 2. tr.1.<br />
4<br />
J. Rozsa: Chính sách xã hội ở Cộng hòa Nhân dân Hunggari, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1982, tr. 18.<br />
5<br />
V.S.Semenov: Cách mạng khoa học - kỹ thuật và vấn đề phát triển toàn vẹn và tự do của con người. trong<br />
Voprosy ftlosofi, 1978, số 7, tr. 84.<br />
6<br />
Xem V.Z. Rogovin: Chính sách xã hội trong xã hội chủ nghĩa phát triển, Nxb Khoa học, Mátxcơva, 1980,<br />
tr.15<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
Xã hội học, số 4 - 1986<br />
<br />
Xã hội học… 43<br />
<br />
<br />
Các nhà nghiên cứu chính sách xã hội trong các nước xã hội chủ nghĩa là bộ phận hợp thành của<br />
chính sách kinh tế - xã hội chung của giai cấp công nhân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Góp phần thực<br />
hiện mục tiêu tổng quát của giai cấp công nhân là xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa, chính sách xã<br />
hội là hoạt động có mục đích của Đảng, Nhà nước, công đoàn và các tổ chức xã hội khác nhằm hình<br />
thành điều kiện sống của nhân dân và quan hệ xã hội giữa các giai cấp, tầng lớp và nhóm xã hội. Mục<br />
tiêu của chính sách xã hội là tiến bộ xã hội, thể hiện ở chỗ bảo đảm thỏa mãn ngày càng tốt hơn và<br />
ngày càng đa dạng hơn những nhu cầu vật chất và tinh thần của con người.<br />
Bản thân mục tiêu đó khiến chính sách xã hội liên qnan chặt chẽ đến chính sách kinh tế và phát<br />
triển kinh tế. Do mối liên quan mật thiết này mà việc phân biệt chính sách xã hội, như là một lĩnh vực<br />
đặc thù trong chính sách Nhà nước nói chung, gặp nhiều khó khăn. Đây cũng chính là nguyên nhân<br />
khách quan dẫn đến những quan niệm không đúng về chính sách xã hội trong giai đoạn đầu xây dựng<br />
chủ nghĩa xã hội mà chúng ta đã nêu ra ở trên. Trong thực tế, ở nhiều lĩnh vực rất khó phân biệt được<br />
đâu là chỗ kết thúc của chính sách kinh tế và đâu là chỗ bắt đầu của chính sách xã hội. Tuy nhiên, ranh<br />
giới khách quan này vẫn tồn tại, và việc nhận thức được rõ ràng ranh giới ấy có ý nghĩa rất quan trọng<br />
đối với hoạt động quản lý.<br />
Quan hệ biện chứng giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội trước hết là ở chỗ chúng cùng<br />
theo đuổi những mục tiêu tổng quát nhất tượng trưng cho những khát vọng cơ bản của xã hội, trong đó<br />
có việc không ngừng nâng cao mức sống, tạo tiền đề cho việc thỏa mãn đầy đủ các nhu cầu của người<br />
lao động, nhưng việc tổ chức quá trình đó không phải là nhiệm vụ của nó. Hơn nữa, chính sách kinh tế<br />
chỉ có quan hệ trực tiếp đến việc thỏa mãn các nhu cầu vật chất của con người, trong khi đó còn có cả<br />
một loạt những nhu cầu phi vật chất thiết yếu khác, những nhu cầu này thuộc phạm vi tác động của<br />
chính sách xã hội. Các tác giả Ba Lan nhận xét: “Nếu mục đích của chính sách kinh tế là sự phát triển<br />
được đo bằng mức thu nhập quốc dân theo đầu người, thì thước đo kết quả của chính sách xã hội là<br />
tiến bộ xã hội thực hiện ở chỗ thỏa mãn ngày càng tốt hơn và phong phú hơn các nhu cầu vật chất và<br />
phi vật chất của con người” ( 7 ). Cuốn chuyên khảo này còn dẫn lại ý kiến của K. Xêcômxki coi mục<br />
đích của chính sách kinh tế là tạo ra và gia tăng những nguồn của cải vật chất, trong khi đó chính sách<br />
xã hội hướng đến việc sử dụng hiệu quả các phương tiện vật chất nhằm nâng cao mức sống của nhân<br />
dân và phát triển các cơ sở và công trình xã hội, xuất phát từ mục tiêu cuối cùng là thường xuyên hoàn<br />
thiện và bảo đảm những thay đổi có lợi trong lĩnh vực thỏa mãn mọi mặt các nhu cầu của xã hội và cá<br />
nhân ( 8 ). Việc phân biệt rõ rệt sự khác biệt giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội một lần nữa<br />
khẳng định rằng, giải quyết những vấn đề xã hội không phải là kết quả tất nhiên và tự động của phát<br />
triển kinh tế, nó là một lĩnh vực đặc thù đòi hỏi những phương tiện và biện pháp riêng. Chính do vậy<br />
mà nhiều khi người ta quan sát thấy một xã hội ở vào thời điểm nào đó có những tăng trưởng kinh tế<br />
đáng kể, nhưng đời sống không đi lên và mọi người cảm thấy không hài lòng với mức độ xã hội thỏa<br />
mãn các nhu cầu của mình. “Giai đoạn trực tiếp thỏa mãn các nhu cầu, thực ra, không phải là toàn bộ<br />
chu trình các hoạt động cần thiết để nâng cao mức sống của đông đảo quần chúng. Song, chính giai<br />
đoạn này<br />
<br />
7<br />
Chính sách xã hội.... sách đã dẫn, tr. 6 - 7.<br />
8<br />
Như trên, tr. 23.<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
Xã hội học, số 4 - 1986<br />
<br />
44 BÙI THẾ CƯỜNG<br />
<br />
<br />
quyết định tính hiệu quả cuối cùng của các biện pháp tiến hành và làm nảy sinh những đánh giá về giá<br />
trị thực tế của chúng. Sai lầm ở giai đoạn này có thể dẫn tới những tổn thất đáng kể về phương tiện và<br />
khả năng” ( 9 ).<br />
Để làm rõ hơn nữa đối tượng của chính sách xã hội, cần nhấn mạnh rằng, nó chỉ quan tâm đến<br />
những nhu cầu quan trọng, những nhu cầu hàng đầu của mỗi thành viên xã hội. Do đó, một khái niệm<br />
rất quan trọng của chính sách xã hội là mức sống tối thiểu cần thiết về mặt xã hội, được quy định bởi<br />
trình độ phát triển xã hội cụ thể. Những biện pháp chính sách xã hội điển hình chính là những biện<br />
pháp nhằm xác định và bảo đảm ngưỡng tối thiểu của điều kiện sống, chẳng hạn như lương tối thiểu,<br />
các hình thức trợ cấp cho những nhóm xã hội có thu nhập thấp, các dịch vụ cơ bản (y tế, nhà nghỉ,<br />
v.v…). Cần nói thêm rằng, phạm vi các nhu cầu quan trọng nhất mà chính sách xã hội phải hướng đến<br />
không chỉ thu hẹp vào những nhu cầu sinh hoạt vật chất có tính chất kinh tế. Nó còn bao gồm một loạt<br />
các nhu cầu xã hội phi vật chất, nhưng là một bộ phận không thể tách rời được trong hệ thống các nhu<br />
cầu hàng đầu của con người. Xét theo góc độ chính sách xã hội, đáng chú ý nhất là các nhu cầu được<br />
thừa nhận về mặt xã hội và được bảo đảm xã hội.<br />
Các nhu cầu xã hội của con người hợp thành một chỉnh thể thống nhất. Do đó, giữa hệ thống nhu<br />
cầu và hệ thống các biện pháp chính sách xã hội tác động qua lại lẫn nhau rất chặt chẽ, việc thực hiện<br />
một nhiệm vụ chính sách xã hội có thể thỏa mãn nhiều nhu cầu; ngược lại, một nhu cầu nhất định lại<br />
có thể đòi hỏi phải áp dụng đồng bộ nhiều biện pháp chính sách xã hội khác nhau. Chẳng hạn, việc thu<br />
xếp công ăn việc làm phù hợp với trình độ, vừa đem lại thu nhập, vừa đáp ứng nhu cầu tâm lý xã hội.<br />
Mặt khác, việc thu xếp công ăn việc làm kéo theo một loạt các biện pháp khác đảm bảo cơ cấu hạ tầng<br />
xã hội (nhà ở, nhà trẻ, y tế, cơ sở văn hóa, v,v...). Thực tế cho thấy việc thu hút sức lao động vào một<br />
cơ sở nào đó chỉ bằng cách tăng lương nhiều khi không đem lại kết quả. Chính chất lượng của những<br />
cơ sở xã hội của một xí nghiệp nào đó lại có vai trò đáng kể trong việc này. Ngày nay, người ta đã hiểu<br />
rằng nhiều khi điều kiện gửi con vào nhà trẻ đối với công nhân có ý nghĩa hơn tăng lương rất nhiều.<br />
Qua đó, chúng ta cũng thấy rằng vai trò của chính sách xã hội đối với kinh tế là ở chỗ nó bảo đảm<br />
những điều kiện xã hội chung không thể thiếu được của nền sản xuất.<br />
Ở trên, chúng ta đã ghi nhận rằng: chính sách xã hội nhằm điều tiết là hình thành các quan hệ xã<br />
hội, do đó việc làm rõ hơn khái niệm “quan hệ xã hội” cho phép xác định tỉ mỉ hơn nữa chính sách xã<br />
hội là gì.<br />
Theo M.N. Rútkêvích, các quan hệ xã hội là “một mặt , một khía cạnh nhất định của tất cả các quan<br />
hệ cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, cụ thể là những quan hệ bình đẳng và bất bình đẳng về địa<br />
vị trong xã hội” ( 10 ). Tiếp tục phát triển ý kiến này, V.Z. Rôgôvin viết: “Địa vị trong xã hội, hay địa vị<br />
sống là vị trí mà các cá nhân, các giai cấp và nhóm xã hội giữ trong hệ thống sản xuất xã hội, và xuất<br />
phát từ đó, những khả năng thỏa mãn nhu cầu của các cá nhân, giai cấp và nhóm xã hội. Những mối<br />
quan hệ bình đẳng và bất bình đẳng trong xã hội được biểu hiện như là những khác biệt về mức độ<br />
phát triển và thoả mãn nhu cầu của các nhóm xã hội” ( 11 ).<br />
<br />
<br />
<br />
9<br />
Như trên tr. 15.<br />
10<br />
M.N. Rutkevich: Quan hệ xã hội và chính sách xã hội trong điều kiện chủ nghĩa xã hội phát triển, trong:<br />
Nauchny Kommanizm, 1978, số 3, tr. 18.<br />
11<br />
V.Z. Rôgôvin: sách đã dẫn, tr. 18.<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
Xã hội học, số 4 - 1986<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Xã hội học… 45<br />
<br />
<br />
Chức năng cơ bản của chính sách xã hội dưới chủ nghĩa xã hội là điều tiết những mỗi quan hệ,<br />
khắc phục từng bước những khác biệt xã hội giữa các giai cấp, tầng lớp và nhóm xã hội, trên cơ sở đó<br />
đảm bảo sự phát triển tự do và toàn diện của tất cả các thành viên xã hội. Đây cũng là chiếc chìa khóa<br />
để phân biệt chính sách xã hội với các lĩnh vực chính sách khác của Đảng và Nhà nước. Theo ý nghĩa<br />
này, chính sách xã hội tác động trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội như kinh tế, chính trị, văn<br />
hóa, giáo dục, thể thao,v.v..., những tác động trên khía cạnh điều tiết sự bình đẳng và bất bình đẳng về<br />
địa vị xã hội giữa các giai cấp, tầng lớp và nhóm xã hội.<br />
Sự phát triển của thực tiễn chính sách xã hội đặt ra yêu cầu hình thành và mở rộng việc nghiên cứu<br />
chính sách xã hội với tính cách là một bộ môn khoa học. “Trong những năm 70, ở tất cả các nước xã<br />
hội chủ nghĩa, các nghiên cứu trong lĩnh vực chính sách xã hội đã tạo thành một địa hạt công tác khoa<br />
học đặc biệt”( 12 ).<br />
Các tác giả Ba Lan trong cuốn chuyên khảo nêu trên xem chính sách xã hội là một bộ môn khoa<br />
học độc lập, phát triển ở miền giáp ranh giữa xã hội học, dân số học và kinh tế học. Nó thuộc vào<br />
nhóm “các khoa học có tính chất ứng dụng thực tiễn và định hướng mục tiêu” ( 13 ). Iu. E. Vôncốp và V.<br />
Z. Rôgôvin xem những nghiên cứu chính sách xã hội là một trong những khía cạnh của xã hội học<br />
Mác - Lênin ( 14 ).<br />
Theo quan điểm của chúng tôi, khi xác định các nghiên cứu chính sách xã hội, cần chú ý đến những<br />
đặc điểm sau:<br />
Trước hết, nghiên cứu chính sách xã hội có tính chất liên ngành hết sức rộng rãi. Nó liên quan đến<br />
kinh tế học, xã hội học, dân số học, y học, giáo dục học, lão học, v.v... Khi hướng đến một lĩnh vực cụ<br />
thể nào đó, nghiên cứu chính sách xã hội không thể không sử dụng các kết quả cũng như phương pháp<br />
nghiên cứu của những bộ môn khoa học liên quan đến lĩnh vực ấy. Chính điều này phân biệt chính<br />
sách xã hội khoa học với chính sách xã hội dựa trên kinh nghiệm.<br />
Mặt khác, do chỗ các nghiên cứu chính sách xã hội, xét từ góc độ chung nhất, phải phát hiện những<br />
nhu cầu xã hội, điều kiện sống và thực trạng quan hệ xã hội của các giai cấp tầng lớp và nhóm xã hội,<br />
từ đó đề ra những biện pháp tác động đến những thực tế này, cho nên nghiên cứu chính sách xã hội là<br />
một nhiệm vụ của xã hội học. Có thể nghĩ rằng nghiên cứu chính sách xã hội là một chuyên ngành xã<br />
hội học ứng dụng. Những kết quả và phương pháp nghiên cứu của xã hội học là tiền đề trên đó nghiên<br />
cứu chính sách xã hội tiếp tục phát triển. Ngược lại, xã hội học không thể chứng tỏ chức năng xã hội<br />
của mình, nếu nó không được tiếp nối bằng các công thức nghiên cứu chính sách xã hội. Chính vì<br />
những lẽ nói trên mà nghiên cứu chính sách xã hội đã trở thành mục tiêu và yêu cầu quan trọng nhất<br />
của các công trình nghiên cứu xã hội học.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
12<br />
G. Winkler: sách đã dẫn, tr. 78.<br />
13<br />
Chính sách xã hội…sách đã dẫn, tr. 9.<br />
14<br />
V. Z. Rôgôvin, sách đã dẫn, tr. 7 - 8.<br />
<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />