intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Niềm tin của người tiêu dùng với thực phẩm chức năng: Nghiên cứu tại các tỉnh miền Bắc

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:12

48
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết trình bày kết quả nghiên cứu với mục tiêu xác định các yếu tố tạo nên niềm tin của người tiêu dùng với TPCN và ảnh hưởng của niềm tin tới ý định sử dụng loại sản phẩm này của người tiêu dùng tại các tỉnh miền Bắc, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường niềm tin của người tiêu dùng với loại sản phẩm này.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Niềm tin của người tiêu dùng với thực phẩm chức năng: Nghiên cứu tại các tỉnh miền Bắc

  1. Chuyên mục Nghiên cứu Khoa học Sinh viên, Số 5 (Tháng 12/2021)/ UEB Category of Student Scientific Research NIỀM TIN CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG VỚI THỰC PHẨM CHỨC NĂNG: NGHIÊN CỨU TẠI CÁC TỈNH MIỀN BẮC PGS.TS. Phạm Thị Huyền, Hồ Hoài Phương, Trần Diệu Huyền, Hoàng Phương Uyên, Nguyễn Hà Phương, Đinh Quỳnh Trang Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội 207 Giải Phóng, Đồng Tâm, Hai Bà Trưng, Hà Nội, Việt Nam Tóm tắt: Dựa trên các mô hình lý thuyết hành vi TRA và TPB, nghiên cứu thực hiện khảo sát với 400 người tiêu dùng tại Hà Nội, Bắc Ninh, Nam Định để đánh giá niềm tin và các yếu tố tác động đến niềm tin, ý định mua thực phẩm chức năng (TPCN). Kết quả cho thấy có sự khác biệt trong niềm tin của các đối tượng về độ tuổi, thu nhập, trình độ học vấn, số người trong gia đình. Niềm tin của người tiêu dùng có mối quan hệ cùng chiều với định mua TPCN; các yếu tố nhận thức về sự an toàn, kiến thức và chuẩn chủ quan có tác động trực tiếp tới niềm tin của người tiêu dùng với TPCN. Từ khóa: Thực phẩm chức năng, niềm tin, người tiêu dùng. 1. GIỚI THIỆU Thị trường TPCN thế giới ngày càng phát triển. Theo Reports and Data (2018), thị trường TPCN toàn cầu có giá trị lên tới 124,8 tỉ USD và dự kiến sẽ tăng trưởng tới 6,4% mỗi năm, đạt mức 210,3 tỉ USD vào năm 2026. Từ chỗ chỉ có vài sản phẩm cuối thế kỷ XX, đến năm 2020, số lượng TPCN trên thị trường đã đạt trên 7.000 với sự tham gia của khoảng 3.500 doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh TPCN. Không những thế, TPCN đã phát triển mạnh về số lượng mặt hàng cả sản xuất trong nước và nhập khẩu. Không nằm ngoài sự phát triển của thế giới, thị trường TPCN Việt Nam đã có bước tăng trưởng mạnh mẽ trong những năm gần đây. Theo thống kê của Cục An toàn Thực phẩm, tại Việt Nam có khoảng 30.000 sản phẩm TPCN được cấp phép lưu hành. Đến nay, hơn 70% số TPCN được tiêu thụ ở thị trường nước ta là hàng sản xuất trong nước. Hơn 20% còn lại là hàng nhập khẩu từ các thị trường nổi tiếng như Mỹ, Đức, Canada, Hàn, Nhật Bản… Về thị trường, vào những  Tác giả liên hệ: 096 228 0060 Email: hohoaiphuong280801@gmail.com 84
  2. Chuyên mục Nghiên cứu Khoa học Sinh viên, Số 5 (Tháng 12/2021)/ UEB Category of Student Scientific Research năm 2000, khách hàng tiêu thụ TPCN của nước ta khá hạn hẹp. Hầu hết người dùng TPCN khi đó đều tập trung ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Số lượng người sử dụng sản phẩm ước tính cũng chỉ khoảng 500.000 người, một con số thực sự khiêm tốn. Tuy nhiên, đến năm 2019, lượng người sử dụng TPCN đã tăng lên mức hơn 20 triệu người, chiếm tới hơn 21% dân số Việt Nam, một tốc độ tăng trưởng thị trường chóng mặt. Như vậy, mảng TPCN thực sự là lĩnh vực kinh doanh đầy tiềm năng, không chỉ có ý nghĩa với các nhà sản xuất, mà còn có ý nghĩa cho cả người tiêu dùng. Báo cáo về người tiêu dùng Việt Nam 2013 của Nielsen cho thấy, sau những lo ngại về nền kinh tế chưa ổn định và việc làm, sức khỏe là mối quan tâm thứ ba của người tiêu dùng Việt Nam. Đến năm 2020, người tiêu dùng Việt Nam đã xếp hạng Sự ổn định của công việc (45%, +5% so với Quý 1 2020) và Sức khỏe (44%, -5% so với Quý 1 2020) là 2 mối quan tâm lớn nhất của họ. Năm 1995, mức chi tiêu cho sức khỏe của người dân Việt Nam chưa đến 20 USD/người/năm, thấp hơn các quốc gia trong khu vực như Indonesia, Philippines, Thái Lan. Đến năm 2005 (10 năm sau), mức chi tiêu cho sức khỏe đã tăng gần gấp 5 lần, lên tới 80 USD/người/năm, vượt qua Indonesia và Philippines. Thị trường TPCN ở Việt Nam có số lượng mặt hàng lớn, đa dạng về chủng loại, đầy tiềm năng phát triển về quy mô khi lượng người tiêu dùng tăng với tốc độ đáng kể. Tuy nhiên, người tiêu dùng chưa hoàn toàn tin tưởng vào TPCN, do có những lỗ hổng về mặt thông tin cũng như chất lượng của TPCN. Điều này là một thách thức lớn không chỉ đối với các nhà quản lý, mà còn đối với các doanh nghiệp. Với các nhà quản lý, cần có sự quản lý chặt chẽ, kiểm định nghiêm ngặt về nguồn gốc xuất xứ và chất lượng của TPCN. Với các doanh nghiệp, họ cần chịu trách nhiệm với những thông tin mình đưa ra, đảm bảo chất lượng mặt hàng để củng cố niềm tin của người tiêu dùng. Bài viết trình bày kết quả nghiên cứu với mục tiêu xác định các yếu tố tạo nên niềm tin của người tiêu dùng với TPCN và ảnh hưởng của niềm tin tới ý định sử dụng loại sản phẩm này của người tiêu dùng tại các tỉnh miền Bắc, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường niềm tin của người tiêu dùng với loại sản phẩm này. 2. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU 85
  3. Chuyên mục Nghiên cứu Khoa học Sinh viên, Số 5 (Tháng 12/2021)/ UEB Category of Student Scientific Research 2.1. Khái niệm về thực phẩm chức năng, niềm tin của người tiêu dùng và ý định hành vi Thực phẩm chức năng Theo Viện Khoa học và Đời sống Quốc tế (International Life Science Institute - ILSI): “TPCN là thực phẩm có lợi cho một hay nhiều hoạt động của cơ thể như cải thiện tình trạng sức khỏe và làm giảm nguy cơ mắc bệnh hơn là so với giá trị dinh dưỡng mà nó mang lại”. Theo Hội đồng Thông tin Thực phẩm Quốc tế (International Food Information Council – IFIC), TPCN là những thực phẩm hay thành phần của chế độ ăn có thể đem lại lợi ích cho sức khỏe nhiều hơn giá trị dinh dưỡng cơ bản. Bộ Y tế Việt Nam định nghĩa: TPCN là thực phẩm dùng để hỗ trợ chức năng của các bộ phận trong cơ thể người, có tác dụng dinh dưỡng, tạo cho cơ thể tình trạng thoải mái, tăng sức đề kháng và giảm bớt nguy cơ gây bệnh. Theo Hiệp hội TPCN Việt Nam, có 5 cách phân loại TPCN: theo phương thức chế biến; dạng sản phẩm theo các quản lý; theo tác dụng và một phương pháp phân loại tương đối đặc biệt áp dụng theo cách của người Nhật Bản. Niềm tin của người tiêu dùng Siergist và cộng sự (2006) định nghĩa niềm tin là sự tin tưởng chắc chắn rằng mọi việc đều nằm trong tầm kiểm soát và sự không chắc chắn là rất thấp. Trịnh Đình Bảy (2002) cho rằng niềm tin gồm hai yếu tố cơ bản, tri thức (kinh nghiệm và lý luận) và cảm xúc. Tri thức phụ thuộc vào trình độ nhận thức, còn cảm xúc tùy thuộc vào mức độ thỏa mãn nhu cầu và được thể hiện dưới hình thức tiêu cực hoặc tích cực. Hai yếu tố này tích hợp với nhau và tạo thành niềm tin. Theo Magnus (2010), niềm tin được định nghĩa là khi một người tin (hoặc có niềm tin) vào một điều gì đó là đúng. Niềm tin được coi như một dạng kiến thức “chủ quan, dựa trên kinh nghiệm và thường không rõ ràng” (Pehkonen và Pietilä, 2003, p.2) hoặc là “đánh giá cá nhân dựa trên những trải nghiệm trong quá khứ” (Raymond, 1997, p.552). Niềm tin vào TPCN được hình thành qua những trải nghiệm của người tiêu dùng khi họ sử dụng TPCN trong quá khứ, hoặc họ tin tưởng vào lời nói, hành động hoặc thái độ tín nhiệm của người khác về TPCN. 86
  4. Chuyên mục Nghiên cứu Khoa học Sinh viên, Số 5 (Tháng 12/2021)/ UEB Category of Student Scientific Research Ý định hành vi Theo lý thuyết hành động lý trí (TRA) cho rằng ý định hành vi là yếu tố dự báo có ảnh hưởng nhất đến hành vi. Fishbein và Ajzen (1975) ủng hộ rằng ý định của một cá nhân hướng việc thực hiện hành vi theo cùng một hướng. Bagozzi (1992) tuyên bố rằng ngay sau khi ý định được kích hoạt, nó sẽ hoạt động như một phần của cơ chế tự hoàn thành và đưa các cá nhân vào trạng thái “phải làm” hoặc “sẽ làm”. Theo Ajzen (2012), ý định hành vi là các yếu tố động lực để đánh giá mức độ nỗ lực của một người để thực hiện một hành vi. Ý định hành vi (Behavioral Intention) đo lường khả năng chủ quan của đối tượng sẽ thực hiện một hành vi và có thể được xem như một trường hợp đặc biệt của niềm tin (Fishbein và Ajzen, 1975), được quyết định bởi thái độ của một cá nhân đối với các hành vi và chuẩn chủ quan. Từ góc độ của bán lẻ, khái niệm ý định hành vi có thể được định nghĩa là mức độ sẵn sàng của người tiêu dùng để phát triển một số loại hành vi như giới thiệu, sự nhạy cảm về giá, hành vi mua lại, hành vi phàn nàn, lòng trung thành và sự truyền miệng (Zeithaml và cộng sự, 1996). 2.2. Mô hình nghiên cứu niềm tin của khách hàng với thực phẩm chức năng Đã có nhiều công trình nghiên cứu nhận thức, niềm tin hay thậm chí là ý định mua của người tiêu dùng với TPCN. Annunziata và Vecchio (2010) đã thu thập dữ liệu từ 400 người tiêu dùng ở Italia nhằm đánh giá tác động của các yếu tố tới thái độ đối với TPCN. Nghiên cứu cho thấy: “cảm nhận về sức khỏe”, “sự tự tin” và “sự thỏa mãn với sản phẩm” là những yếu tố tác động đến sự chấp nhận TPCN của người tiêu dùng Italia. Nghiên cứu của Golnaz và cộng sự (2017) đề cập đến sự nhận thức, nhưng nhấn mạnh đến sự nhạy cảm, nhận thức về lợi ích, về rào cản, chuẩn chủ quan và thái độ của người tiêu dùng khi phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến niềm tin, ý định mua TPCN của người dân Malaysia. Nina (2005) cho rằng (i) lợi ích có được từ việc dùng TPCN; (ii) sự cần thiết của TPCN; (iii) sự tin tưởng và tin dùng TPCN và (iv) sự an toàn của TPCN có tác động trực tiếp tới ý định mua TPCN của người dân Phần Lan. Trên cơ sở các nghiên cứu trước và kết quả thảo luận, nhóm tác giả đề xuất mô hình nghiên cứu gồm 4 thành phần: “Sự an toàn”, “Cảm nhận về sức khỏe”, “Kiến thức” và “Chuẩn chủ quan” ảnh hưởng đến “Niềm tin vào TPCN”, từ đó tác động đến “Ý định hành vi”. Gắn với 4 thành phần đó là các giả thuyết nghiên cứu sau đây: 87
  5. Chuyên mục Nghiên cứu Khoa học Sinh viên, Số 5 (Tháng 12/2021)/ UEB Category of Student Scientific Research - Giả thuyết 1 (H1): Sự an toàn khi sử dụng TPCN của người tiêu dùng có thể tác động tích cực đến niềm tin vào TPCN. - Giả thuyết 2 (H2): Cảm nhận về sức khỏe của người tiêu dùng có thể tác động tích cực đến niềm tin vào TPCN. - Giả thuyết 3 (H3): Kiến thức của người tiêu dùng đối với TPCN có thể tác động tích cực đến niềm tin vào TPCN. - Giả thuyết 4 (H4): Chuẩn chủ quan của người tiêu dùng đối với TPCN có thể tác động tích cực đến niềm tin vào TPCN. - Giả thuyết 5 (H5): Niềm tin vào TPCN của người tiêu dùng có thể tác động tích cực đến ý định mua TPCN. 3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1. Xây dựng thang đo và bảng hỏi Dựa vào các mô hình, lý thuyết liên quan như mô hình TRA, mô hình TPB kết hợp với các nghiên cứu của các tác giả trên thế giới trong lĩnh vực TPCN và tình hình phát triển của thị trường TPCN tại Việt Nam, tác giả đã điều chỉnh, bổ sung và xây dựng thang đo niềm tin của người tiêu dùng. Sử dụng kỹ thuật phỏng vấn chuyên gia, dược sĩ ngành TPCN và một vài nhóm đối tượng người tiêu dùng về các nhân tố tác động đến niềm tin của người tiêu dùng để xác định đúng các nhân tố tác động và hoàn thiện bảng câu hỏi khảo sát. Bảng câu hỏi gồm các thông tin cá nhân của người trả lời và các yếu tố tác động với 26 thang đo các yếu tố tác động, niềm tin và ý định hành vi của người tiêu dùng. Nghiên cứu sử dụng thang đo Linkert 5 mức độ (mức độ đồng ý tăng dần từ 1 đến 5). 50 bảng câu hỏi được phát trên địa bàn 3 tỉnh, thành phố là Bắc Ninh, Hà Nội và Nam Định để kiểm tra các biến quan sát trước khi khảo sát chính thức. Phương thức khảo sát chính thức bao gồm cả khảo sát trực tiếp và trực tuyến qua internet (Hình 1). 88
  6. Chuyên mục Nghiên cứu Khoa học Sinh viên, Số 5 (Tháng 12/2021)/ UEB Category of Student Scientific Research Sự an toàn Cảm nhận về sức khỏe Niềm tin vào Ý định TPCN hành vi Kiến thức Chuẩn chủ quan Hình 1: Mô hình nghiên cứu các yếu tố tác động đến niềm tin và ý định mua TPCN Nguồn: Nhóm tác giả đề xuất 3.2. Mẫu nghiên cứu Trong nghiên cứu này, sau khi xác định được đối tượng nghiên cứu chính, nhóm tác giả đã tổng hợp lại những đặc điểm chính của nhóm đối tượng để tiến hành khảo sát. Cơ sở dữ liệu đưa vào xử lý và phân tích gồm 400 quan sát trong đó có 30 quan sát không biết đến TPCN, chiếm 7,5%. Đa số người tham gia khảo sát là nữ giới (67%). Những người tham gia khảo sát đa số nằm trong độ tuổi từ 18-45 tuổi (chiếm hơn 80%), có thu nhập dưới 15 triệu đồng/tháng/thành viên (85,4%). 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 4.1. Ý định và hành vi mua thực phẩm chức năng 92,5% số người tham gia khảo sát có biết đến TPCN và số người không biết đến chỉ chiếm 7,5%. Người tiêu dùng không sử dụng TPCN cho rằng, họ chưa thấy cần thiết hoặc không có nhu cầu (tỷ lệ lần lượt là 42,9% và 22,9%). Mẫu khảo sát đa số là những người còn khá trẻ (độ tuổi 18-45 chiếm tỷ lệ cao), nên chưa có nhiều nhu cầu hay cảm nhận cần thiết về việc mua và sử dụng TPCN. Bên cạnh đó còn có những nguyên nhân khác như chưa có điều kiện kinh tế (8,6%), không thích (2,9%) và không tin tưởng (2,9%). 89
  7. Chuyên mục Nghiên cứu Khoa học Sinh viên, Số 5 (Tháng 12/2021)/ UEB Category of Student Scientific Research 4.2. Ảnh hưởng của các yếu tố niềm tin của khách hàng tới thái độ và ý định mua của khách hàng với TPCN Phân tích độ tin cậy của các thang đo Phân tích Cronbach’s Alpha được thực hiện để xem xét độ tin cậy của thang đo. Sau khi thực hiện phân tích đánh giá độ tin cậy thang đo, ta thấy hệ số Cronbach’s Alpha của các nhóm đều lớn hơn 0,6 và hệ số tương quan biến tổng của tất cả các biến đều lớn hơn 0.3. Do đó, tất cả thang đo với 26 biến quan sát được sử dụng tiếp tục trong bước phân tích nhân tố (EFA) tiếp theo. Kết quả phân tích Cronbach’s Alpha được thể hiện trong Bảng 1. Bảng 1: Kết quả phân tích Cronbach’s Alpha Tổng phương sai trích Độ tin cậy tổng hợp Thang đo (Average Variance (Composite Reliability) Extracted) Sự an toàn (AT) 0,817 0,529 Cảm nhận sức khỏe (CN) 0,789 0,555 Kiến thức (KT) 0,867 0,567 Chuẩn chủ quan (CCQ) 0,908 0,623 Niềm tin (NT) 0,882 0,714 Ý định hành vi (YD) 0,920 0,696 Nguồn: Nghiên cứu của nhóm tác giả (2021) Phân tích nhân tố khám phá EFA được dùng để đánh giá sơ bộ tính đơn hướng, giá trị hội tụ và giá trị phân biệt của thang đo. Kết quả của kiểm định hệ số KMO và Bartlett’s cho thấy giữa các biến trong tổng thể có mối tương quan với nhau (sig = 0,000 < 0,05), đồng thời hệ số KMO = 0,905 cũng chứng tỏ sự phù hợp khi sử dụng phân tích EFA để nhóm các biến này lại với nhau. Phương sai trích xấp xỉ 63,772% > 50% và chỉ số Eigenvalues = 1,016 > 1 đảm bảo được điều kiện kết quả phân tích EFA được chấp nhận. 26 biến đưa vào mô hình được nhóm lại thành 6 nhóm yếu tố: chuẩn chủ quan (6 biến); ý định (5 biến); kiến thức (5 biến); an toàn (4 biến); niềm tin (3 biến) và cảm 90
  8. Chuyên mục Nghiên cứu Khoa học Sinh viên, Số 5 (Tháng 12/2021)/ UEB Category of Student Scientific Research nhận sức khỏe (3 biến) - sẽ được tiếp tục đưa vào phân tích nhân tố khẳng định CFA (Hình 2). Hình 2: Kết quả phân tích nhân tố khẳng định CFA Nguồn: Nghiên cứu của nhóm tác giả (2021) Hệ số tổng phương sai trích và độ tin cậy tổng hợp của các thang đo đều đạt giá trị cao hơn 0,5, vì thế, có thể khẳng định thang đo đạt được giá trị hội tụ và tính đơn hướng. Như vậy, các thang đo nghiên cứu đã đảm bảo các yêu cầu phân tích. Hệ số tương quan giữa các thành phần với sai lệch chuẩn kèm theo thấy các hệ số tương quan của từng cặp khái niệm kèm với sai lệch chuẩn của các thang đo đều khác với 1 ở độ tin cậy 95%, đạt mức ý nghĩa thống kê (tất cả giá trị P-value đều bằng 0,000). Vì vậy, các thành phần nhân tố Sự an toàn, Cảm nhận sức khỏe, Kiến thức, Chuẩn chủ quan, 91
  9. Chuyên mục Nghiên cứu Khoa học Sinh viên, Số 5 (Tháng 12/2021)/ UEB Category of Student Scientific Research Niềm tin và Ý định hành vi đều đạt giá trị phân biệt và có sự tương quan giữa các thành phần của thang đo. Phân cấu trúc tuyến tính (SEM) về ảnh hưởng của niềm tin đến ý định mua TPCN Phân tích SEM thu được kết quả CMIN/df đạt giá trị 2,857 < 3, đồng thời, chỉ số GFI = 0,849 > 0,8; CFI = 0,913 > 0,9; RMSEA = 0,060 < 0,08 đạt yêu cầu. Kết quả chạy dữ liệu cho thấy mô hình tương thích với dữ liệu thị trường. Bảng 2: Kết quả phân tích ảnh hưởng của các yếu tố Estimate S.E. C.R. P Label NT
  10. Chuyên mục Nghiên cứu Khoa học Sinh viên, Số 5 (Tháng 12/2021)/ UEB Category of Student Scientific Research 5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ Nghiên cứu thực hiện khảo sát 400 đối tượng về nhận biết và sử dụng TPCN, xác định và đánh giá mức độ ảnh hưởng của nhận thức về sự an toàn, cảm nhận về sự khỏe, kiến thức và chuẩn chủ quan tới niềm tin và ý định hành vi của người tiêu dùng với TPCN, từ đó ảnh hưởng đến ý định mua của họ với sản phẩm này. Kết quả kiểm định sự khác nhau trong niềm tin vào TPCN của các biến định tính cho thấy: không có sự khác biệt về niềm tin vào TPCN giữa nam và nữ, có sự khác biệt mang ý nghĩa thống kê về niềm tin của người dùng có độ tuổi, tỉnh thành, trình độ học vấn, thu nhập, số thành viên trong gia đình và trải nghiệm khác nhau. Phân tích Cronbach’s Alpha, EFA, CFA đã giúp đánh giá độ tin cậy của thang đo. Phân tích cấu trúc tuyến tính SEM cho thấy, nhận thức về sự an toàn là yếu tố có tác động tích cực đến niềm tin đối với TPCN. Chuẩn chủ quan và cảm nhận về sức khỏe cũng có tác động tích cực đến niềm tin với TPCN. Đối với các doanh nghiệp kinh doanh TPCN, uy tín ngày càng trở nên quan trọng. Doanh nghiệp cần nhanh chóng triển khai ứng dụng quy trình thực hành tốt sản xuất TPCN GMP để cải thiện chất lượng sản phẩm, từ đó tạo sự an toàn khi sử dụng TPCN cho người tiêu dùng. Cùng với đó, các doanh nghiệp cần nỗ lực tạo ra các trải nghiệm tốt cho người sử dụng để thúc đẩy ý định tiếp tục sử dụng TPCN. Một số giải pháp được đề xuất gồm: Thứ nhất, xây dựng một kênh bán hàng trực tiếp giữa những người có mối quan hệ gia đình, bạn bè hay đồng nghiệp sẽ giúp cho TPCN được dễ dàng đón nhận trong nhiều cộng đồng. Đây là kênh phân phối có hiệu quả vì là kênh phân phối đáng tin cậy với người tiêu dùng nhưng lại có chi phí tương đối thấp hơn so với các kênh phân phối khác. Thứ hai, tuyên truyền giúp người tiêu dùng hiểu rõ về công dụng của các loại TPCN, với các hoạt động như: tổ chức các chương trình tư vấn về TPCN với sự tham gia của chuyên gia đầu ngành có uy tín cao, đẩy mạnh hình thức WoM. Thứ ba, cải thiện kênh phân phối, giúp cho người tiêu dùng có cái nhìn chính xác hơn về TPCN. Ví dụ như đào tạo những trình dược viên để trực tiếp tham gia vào kênh 93
  11. Chuyên mục Nghiên cứu Khoa học Sinh viên, Số 5 (Tháng 12/2021)/ UEB Category of Student Scientific Research phân phối, kiểm soát chặt chẽ kênh phân phối bằng cách đưa ra những ràng buộc và nâng cao tiêu chuẩn lựa chọn thành viên. 6. HẠN CHẾ CỦA NGHIÊN CỨU Quy mô mẫu nghiên cứu là 370 không phải là nhiều cho một nghiên cứu định lượng. Do nghiên cứu sử dụng phương pháp lấy mẫu tiện lợi tại Hà Nội, Bắc Ninh và Nam Định nên không thể tránh khỏi hạn chế về tính tổng quát. Bên cạnh đó, nhóm tác giả mới chỉ hạn chế ở việc nghiên cứu 4 yếu tố tác động đến niềm tin, trong khi trên thực tế, niềm tin của người tiêu dùng có thể đến từ rất nhiều các yếu tố khác chưa được đưa vào trong mô hình nghiên cứu. Các đề tài trong tương lai nên mở rộng quy mô mẫu khảo sát và nghiên cứu thêm các yếu tố khác tác động đến niềm tin. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ajzen, I. (2012), “The theory of planned behavior. In Lange, P.A.M., Kruglanski, W., & Higgins, E.T. (Eds.)”, Handbook of theories of social psychology, p. 438– 459, California: SAGE Publications Ltd. 2. Annunziata, A., & Vecchio (2010), “Italian Consumer Attitudes Toward Products for Well-being: The Functional Foods Market”. International Food and Agribusiness Management Review, 13(2), 19-50. 3. Fishbein, M., & Ajzen, I. (1975), “Belief, Attitude, Intention, and Behavior: An Introduction to Theory and Research”, Boston: Reading, Mass.: Addison-Wesley Pub. Co. 4. Österholm, M. (2010), “Beliefs: A Theoretically Unnecessary Construct? Conference: The Sixth Congress of the European Society for Research in Mathematics Education”, Lyon, 2010 (pp. 154-163). 5. Pehkonen, E., & Pietilä, A. (2003), “On relationships between beliefs and knowledge in mathematics education. CERME 3: Third conference of the European society for research in mathematics education”, Bellaria, 2003 (pp. 1- 8). 94
  12. Chuyên mục Nghiên cứu Khoa học Sinh viên, Số 5 (Tháng 12/2021)/ UEB Category of Student Scientific Research 6. Raymond, A. M. (1997), “Inconsistency between a beginning elementary school teacher's mathematics beliefs and teaching practice”, Journal for Research in Mathematics Education, 28, 550-576. 7. Rezai, G., Teng, P. K., & Shamsudin (2017), “Consumers’ Perception Toward Green Food Consumption: Malaysians Consumption Behavior towards Green Food”, Saarbrücken: Lap Lambert Academic Publishing. 8. Urala, N. (2005), “Functional foods in Finland Consumers' views, attitudes and willingness to use”, Doctoral dissertation, University of Helsinki, Finland. 95
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2