Nỗi Buồn Chiến Tranh<br />
Hay: Thân Phận của tình Yêu<br />
Tác giả: Bảo Ninh<br />
Nguồn: Internet<br />
Soát lỗi và làm lại ebook: bun_oc & tamchec<br />
Ngày hoàn thành: 18/10/2015<br />
Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com<br />
<br />
Mục lục<br />
Nghề văn chương tiếng vậy chứ rất vui<br />
Chương 1<br />
Chương 2<br />
Chương 3<br />
Chương 4<br />
Chương 5<br />
Chương 6<br />
Chương 7<br />
Chương 8<br />
<br />
Nghề văn chương tiếng vậy chứ rất vui<br />
Trước chiến tranh gia đình tôi sống ở một biệt thự Tây đầu phố Hàng Đẫy. Biệt thự,<br />
song chen chúc tới gần hai chục hộ. Ba tôi dạy đại học, mẹ tôi dạy phổ thông, với ba anh<br />
em chúng tôi, năm người mà “tiêu chuẩn” chỉ căn phòng ba chục thước vuông. Tầng trệt,<br />
không nằm sàn được, phải kê giường chiếm mất phần diện tích đáng kể. Giữa phòng kê<br />
bàn ăn kiêm bàn tiếp khách đồng thời cũng là bàn học của anh em tôi. Một bàn nữa ở góc<br />
trong là bàn làm việc ban ngày của mẹ tôi, bàn viết của ba tôi về đêm. Đấy là những cái<br />
bàn cái ghế thời bao cấp nhất loạt như nhau, xấu xí, bất tiện, cứng quèo mà ọp ẹp. Nhưng<br />
bên cạnh bàn làm việc của ba tôi nổi bật cái tủ sách. Mọi thứ đồ đạc trong phòng chỉ tủ<br />
sách ấy đáng gọi là “đồ nội thất”. Đã khá xưa rồi nhưng mà kiểu tủ Tây. Phần trên, sau<br />
cánh cửa kính, phần lớn là sách tiếng nước ngoài của ba mẹ tôi. Văn học hiện đại bằng<br />
tiếng Việt chỉ một ngăn, nửa là văn học dịch, nửa là tác phẩm của các nhà văn Việt Nam<br />
nổi tiếng: Nguyên Hồng, Nguyễn Tuân, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao… nhưng không<br />
“tiền chiến”. Thơ Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Huy Cận nhưng không “Thơ Mới”. Phần<br />
dưới của tủ là cửa gỗ, luôn khoá chặt. Chẳng gì được ba mẹ tôi quý báu cho bằng những<br />
cuốn sách ẩn trong đó, nhưng có lẽ cũng không gì khiến song thân tôi phải e ngại chúng<br />
tôi chạm mắt chạm tay vào đến vậy.<br />
Cho đến mãi năm 1966, khi Mỹ bắt đầu ném bom Hà Nội, tủ sách gia đình phải dỡ ra<br />
cho vào rương để chuyển lên nơi sơ tán, tôi mới được nhìn những cuốn sách đó. Cũng vẫn<br />
là Nguyên Hồng, Nguyễn Lan Viên… nhưng là Bỉ vỏ, Vang Bóng Một Thời, Điêu Tàn…<br />
Rồi nữa: Vũ Trọng Phụng, Vũ Bằng, Thạch Lam, Vũ Hoàng Chương, Hàn Mạc Tử… và<br />
các ông Nhân văn. Lúc bấy, chẳng đặc biệt ham hố gì văn chương, song do sự cẩn trọng<br />
của ba mẹ mà tôi sinh tò mò, moi sách trong rương ra đọc. Có thích những gì đọc được<br />
hồi ấy hay không, tôi chẳng nhớ nữa, nhưng tai vạ xảy ra do thế thì nhớ đời. Dại dột, tôi<br />
đã nhét một cuốn vào cặp mang tới lớp tuồn cho bạn. Bị thầy giáo bắt quả tang. Là cuốn<br />
Người Người Lớp Lớp của nhà văn Trần Dần!<br />
Hoảng sợ, nhưng thành thật là tôi chẳng hiểu sao mà dữ dội đến thế. Ban giám hiệu,<br />
thầy chủ nhiệm, thầy dạy văn, Đoàn Thanh niên, tất thảy trời long đất lở. Tác phẩm in<br />
năm 1955 tại Hà Nội. Hay dở chẳng dám bàn, nhưng nội dung là về bộ đội ta và toàn<br />
những câu chuyện anh hùng chiến đấu. Rõ ràng là vậy. Tất nhiên tôi chẳng dám nêu các<br />
“nhận định cá nhân” ấy ra với thầy, chỉ dám trình bày với ba tôi. Hồi đó tôi đã vô cùng<br />
may mắn. Thầy hiệu trưởng, thầy dạy văn vốn là học trò của ba tôi. Nhờ vậy, sự thể được<br />
cho chìm xuống. <br />
Giải quyết xong xuôi vụ việc rồi, ba tôi mới nói chuyện “người lớn với nhau” với tôi.<br />
Có thể nói đấy là lần đầu tiên hai cha con nói với nhau về sự đời, về chính trị, về văn<br />
học… Ba tôi đã không nửa vời với tôi về những chuyện rất khó nói ấy, dù tôi mới chỉ là<br />
một đứa nhãi ranh học trò. Nhưng tôi thấy là ba tôi nói về những điều ấy với nỗi buồn bã<br />
và nặng lo âu. Nỗi lo ấy về sau còn nhiều lần trở lại trong tâm tình của ba tôi với tôi, nhất<br />
là tôi có truyện ngắn đầu tay in ở Văn Nghệ Quân Đội.<br />
<br />
Tuy nhiên, lo âu nặng trĩu, mà ba tôi không cản chí tôi hướng vào văn nghiệp, trái lại.<br />
Thật ra, cầm bút viết văn, ấy là đời tôi đã tiếp bước cuộc đời của ba tôi. Lặng lẽ, gần như<br />
không lời chỉ giáo bày dạy nào hết, ba tôi đã truyền cho tôi tình yêu và năng lực cảm thụ<br />
văn học, đặc biệt tình yêu, lòng tự hào đối với tiếng Việt, tiếng Việt của đời sống và tiếng<br />
Việt trong văn học. Tôi có thể viết văn được tất cả là nhờ ở ba tôi, và nhờ ở sự khuyên nhủ<br />
giúp đỡ ân cần của những người bạn của ba tôi: nhà văn Nguyễn Tuân, nhà văn Bùi Hiển,<br />
nhà văn Nguyên Ngọc, giáo sư Nguyễn Đức Nam, giáo sư Hoàng Ngọc Hiến…<br />
Truyện ngắn đầu tay tôi viết xong rất nhanh, nhưng gửi báo Văn Nghệ, không dùng<br />
được. Viết để đó. Hơn một năm sau, không nói với tôi, mẹ tôi lục trong ngăn bàn lấy bản<br />
viết tay đó trao cho giáo sư Hoàng Ngọc Hiến khi ông tới chơi. Tối hôm sau, trời mưa, tôi<br />
đang ở nhà một mình, giáo sư gõ cửa, bước vào, có áo tơi nhưng tóc và vai ông vẫn bị<br />
ướt. Ông nói ông đến vì cái truyện vừa đọc khi chiều. “Không đạt”, ông nói ngay. “Theo<br />
thang điểm 5 chỉ đáng 3-”. Ông mở cặp, lấy ra xấp những trang đánh máy. “Tôi nhờ văn<br />
thư trường Nguyễn Du đánh máy bản thảo cho anh lần này. Lần sau tự mà gõ lấy. Chữ<br />
anh quá tệ. Từ nay, khi viết văn, anh nên dùng máy chữ”.<br />
Từ nay? Nghĩa là… giáo sư thấy mình có thể tiếp tục? Tôi tự hỏi, mơ hồ một niềm vui<br />
sướng. Tôi những mong được nghe giáo sư nói kỹ hơn, song ông chẳng chuyện nhiều, cạn<br />
chén trà ông về. Bắt tay tôi ông bảo: “Tóm lại: cái truyện này thì không ra gì, nhưng anh<br />
là người hình như có thể viết được văn. Cho nên đừng có sợ, cứ liều viết đi, biết đâu đấy.<br />
Sẽ rất cực, lại chẳng chắc đã thành, tuy vậy vẫn rất đáng để liều. Bởi vì cái đời văn<br />
chương ấy mà, tiếng vậy chứ rất vui, rất kỳ thú”.<br />
Tôi nhớ mãi những lời thoảng qua, như là nói cho vui ấy của giáo sư Hoàng Ngọc<br />
Hiến. Bằng những khuyên nhủ như vậy và bằng những quan tâm nho nhỏ mà chân tình,<br />
ông đã giúp tôi có được một nỗ lực văn chương suốt cuộc đời. Cái nhìn khoáng đạt và<br />
tươi tỉnh của ông về nghề cũng bước đầu cho tôi một tình cảm tốt lành, một thái độ bình<br />
thản đối với công việc sáng tác.<br />
Sự thực thì viết văn là một nghề nghiệp (nhất là viết văn xuôi), và cũng như mọi nghề<br />
nghiệp khác trong cuộc sinh nhai của con người, nghề viết văn có những buồn khổ, phiền<br />
lụy, thất bại, những sự kỳ quặc và vô nghĩa lý nhưng cũng vô vàn những niềm vui, những<br />
sự thú vị, những thành công và những hữu ích kiểu của nó.<br />
Nghề văn là nghề chuyên nghiệp về sự ngẫm nghĩ. Nhà văn tự xem mình là kẻ có khả<br />
năng, có trách nhiệm và có ham thú đúc kết nhân tình thế thái đặng tìm ra cho bản thân<br />
mình và bạn đọc của mình những giá trị, những ý nghĩa vừa cố định vừa đổi thay không<br />
ngừng của đời sống con người, một đời sống tuy ngắn ngủi và khá là ảm đạm, nhiều buồn<br />
đau và bất hạnh, song lại cũng hàm chứa vô cùng tận những lẽ đời đáng sống, những giá<br />
trị cao quý, những vẻ đẹp tuyệt vời, hạnh phúc và niềm vui.<br />
BẢO NINH<br />
01.2011<br />
<br />