intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Ôn thi vào lớp 10 môn Ngữ văn (Ôn tập Ngữ văn 9)

Chia sẻ: Nhung Nguyễn | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:134

2.722
lượt xem
461
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tài liệu Ôn thi vào lớp 10 môn Ngữ văn sau đây tổng hợp dàn ý phân tích các tác phẩm văn học trong chương trình Ngữ văn lớp 9 giúp các bạn ôn thi vào lớp 10 đạt kết quả cao. Đây là tài liệu tham khảo hữu ích cho các giáo viên giảng dạy Ngữ văn 9. Tham khảo nội dung tài liệu để nắm nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Ôn thi vào lớp 10 môn Ngữ văn (Ôn tập Ngữ văn 9)

  1. TẬP LÀM VĂN. PHÂN TÍCH NIỀM TÂM SỰ SÂU KÍN CỦA NGUYỄN DUY QUA BÀI THƠ  “ÁNH TRĂNG” Dàn ý  I. Mở bài ­ Ánh trăng là đề tài quen thuộc của thi ca, là cảm hứng sáng tác vô tận cho các  nhà thơ ­ Nguyễn Duy, một nhà thơ tiêu biểu cho thế hệ trẻ sau năm 1975 cũng góp  vào mảng thơ thiên nhiên một “Ánh trăng”. ­ Với Nguyễn Duy, ánh trăng không chỉ là niềm thơ mà còn  được biểu đạt  một hàm nghĩa mới, mang dấu ấn của tình cảm thời đại: Ánh trăng là biểu tượng  cho quá khứ trong mỗi đời người.  ­ Đối diện trước vầng trăng, người lính đã giật mình  về sự vô tình trước thiên  nhiên, vô tình với những kỉ niệm nghĩa tình của một thời đã qua. Bài thơ “Ánh  trăng” giản dị như một niềm ân hận trong tâm sự sâu kín ấy của nhà thơ. II. Thân bài. 1 Cảm nghĩ về vầng trăng quá khứ  ­  Ánh trăng gắn với những kỉ niệm trong sáng thời thơ ấu tại làng quê: “Hồi nhỏ sống với rừng  Với sông rồi với biển” ­ Con người khi đó sống giản dị, thanh cao, chân thật trong sự hoà hợp với  thiên nhiên trong lành: “trần trụi với thiên nhiên ­ hồn nhiên như cây cỏ” ­ Ánh trăng gắn bó với những kỉ niệm không thể nào quên của cuộc chiến  tranh ác liệt của người lính trong rừng sâu. 
  2. “Hồi chiến tranh ở rừng  Vầng trăng thành tri kỉ  Trần trụi với thiên nhiên Hồn nhiên như cây cỏ Ngỡ không bao giờ quên Cái vầng trăng tình nghĩa” ­>Trăng khi đó là ánh sáng trong đêm tối chiến tranh, là niềm vui bầu bạn của  người lính trong gian lao của cuộc kháng chiến ­ vầng trăng tri kỉ. Nhân vật trữ tình  gắn bó với trăng trong những năm dài kháng chiến. Trăng vẫn thuỷ chung, tình  nghĩa.  2. Cảm nghĩ về vầng trăng hiện tại. Từ hồi về thành phố Quen ánh điện cửa gương Vầng trăng đi qua ngõ  Như người dưng qua đường ­ Vầng trăng tri kỉ ngày nào nay đã trở thành “người dưng” ­ người khách qua  đường xa lạ + Sự thay đổi của hoàn cảnh sống­ không gian khác biệt, thời gian cách biệt,  điều kiện sống cách biệt + Hành động “vội bật tung cửa sổ” và cảm giác đột ngột “nhận ra vầng trăng  tròn”, cho thấy quan hệ giữa người và trăng không còn là tri kỉ, tình nghĩa như xưa  vì con người lúc này thấy trăng như một vật chiếu sáng thay thế cho điện sáng mà  thôi.
  3. +  Câu thơ dưng dưng ­ lạnh lùng ­ nhức nhối, xót xa  miêu tả một điều gì bội  bạc, nhẫn tâm vẫn thường xảy ra trong cuộc sống.   => Từ sự xa lạ giữa người với trăng ấy, nhà thơ muốn nhắc nhở : đừng để  những giá trị vật chất điều khiển chúng ta.... c. Niềm suy tư của tác giả và tấm lòng của vầng trăng. ­  Trăng và con người đã gặp nhau trong một giây phút tình cờ.  + Vầng trăng xuất hiện vẫn một tình cảm tràn đầy, không mảy may sứt mẻ.  + “Trăng tròn”, hình ảnh thơ khá hay, tình cảm trọn vẹn, chung thuỷ như năm  xưa.  +Tư  thế  “ngửa mặt lên nhìn mặt” là tư  thế  đối mặt: “mặt”  ở  đây chính là  vầng trăng tròn (nhân hoá). Con người thấy mặt trăng là thấy được người bạn tri kỉ  ngày nào.  Cách viết thật lạ và sâu sắc!  ­ Ánh trăng đã thức dậy những kỉ  niệm quá khứ  tốt đẹp, đánh thức lại tình   cảm bạn bè năm xưa, đánh thức lại những gì con người đã lãng quên. + Cảm xúc “rưng rưng” là biểu thị  của một tâm hồn đang rung động, xao  xuyến, gợi nhớ gợi thương khi gặp lại bạn tri kỉ.  + Nhịp thơ hối hả dâng trào như tình người dào dạt. Niềm hạnh phúc của nhà   thơ như đang được sống lại một giấc chiêm bao.  ­ Ánh Trăng hiện lên đáng giá biết bao, cao thượng vị tha biết chừng nào:  “Trăng cứ tròn vành vạnh ..............Đủ cho ta giật mình” + Trăng tròn vành vạnh là hiện diện cho quá khứ  đẹp đẽ  không thể  phai mờ.  Ánh trăng chính là người bạn nghĩa tình mà nghiêm khắc  nhắc nhở nhà thơ và cả  mỗi chúng ta: con người có thể  vô tình, có thể  lãng quên nhưng thiên nhiên, nghĩa  tình quá khứ thì luôn tròn đầy, bất diệt.
  4. +“Giật mình” là cảm giác và phản xạ  tâm lí có thật của một người biết suy  nghĩ, chợt nhận ra sự vô tình, bạc bẽo, sự nông nổi trong cách sống của mình. Cái   “giật mình” của sự  ăn năn, tự  trách, tự  thấy phải đổi thay trong cách sống. Cái  “giật mình” tự  nhắc nhở  bản thân không bao giờ  được làm người phản bội quá  khứ, phản bội thiên nhiên, sùng bái hiện tại mà coi rẻ thiên nhiên. => Câu thơ thầm nhắc nhở chính mình và cũng đồng thời nhắc nhở  chúng ta,  những người đang sống trong hoà bình, hưởng những tiện nghi hiện đại, đừng bao   giờ quên công sức đấu tranh cách mạng của biết bao người đi trước.  III. Kết luận: Cách 1: ­ Bài thơ “Ánh trăng” là một lần “giật mình” của Nguyễn Duy về  sự  vô tình  trước thiên nhiên, vô tình với những kỉ niệm nghĩa tình của một thời đã qua.  ­ Nó gợi ra trong lòng chúng ta nhiều suy ngẫm sâu sắc về cách sống, cách làm   người, cách sống  ân nghĩa thuỷ chung ở đời. ­ Ánh trăng thật sự đã như một tấm gương soi để thấy được gương mặt thực  của mình, để  tìm lại cái đẹp tinh khôi mà chúng ta tưởng đã ngủ  ngon trong quên  lãng. ======================== Dàn ý 2 I. Mở bài Cách 1 ­ Giới thiệu đôi nét về nhà thơ Nguyễn Duy: là một trong những gương mặt  tiêu biểu trong lớp nhà thơ trẻ thời kì kháng chiến chống Mĩ. ­ Giới thiệu đôi nét về bài thơ “Ánh Trăng”
  5. + In trong tập “Ánh Trăng”­ tập thơ được giải A của Hội nhà văn Việt Nam + Thể thơ 5 chữ kết hợp kết hợp chặt chẽ giữa tự sự với trữ tình + Viết vào thời điểm cuộc kháng chiến đã khép lại 3 năm, Nguyễn Duy viết  “Ánh trăng” như một lời tâm sự, một lời nhắn nhủ chân tình với chính mình, với  mọi người về lẽ sống chung thuỷ, nghĩa tình. Cách 2: Thơ xưa cũng như nay, thiên nhiên luôn là nguồn cảm hứng sáng tác  vô tận cho các nhà văn, nhà thơ. Đặc biệt là ánh trăng. Xưa, Lý Bạch khi đối diện  với vầng trăng đã giật mình thảng thốt nhớ cố hương. Nay, Nguyễn Duy, một nhà  thơ tiêu biểu cho thế hệ trẻ sau năm 1975 cũng góp vào mảng thơ thiên nhiên một  ánh trăng.Và đối diện trước vầng trăng, người lính đã giật mình  về sự vô tình  trước thiên nhiên, vô tình với những kỉ niệm nghĩa tình của một thời đã qua. Bài  thơ “Ánh trăng” giản dị như một niềm ân hận trong tâm sự sâu kín ấy của nhà thơ. Cách 3: Ta gặp đâu đây ngòi bút tài hoa của Nguyễn Duy trong tác phẩm : “Tre  Việt Nam”, “Hơi ấm ổ rơm”..... Nhưng khi hoà bình lập lại, ông đã chuyển sang  một trang mới viết về sự chuyển mình của đất nước, của con người cuộc sống đời  thường đang che lấp mất dần những điều đáng quý mà họ vốn có. Bài thơ “Ánh  trăng” là một bài thơ tiêu biểu cho chủ đề đó. Bài thơ như một lời tự nhắc nhở của  tác giả về những năm tháng gian lao đã qua của cuộc đời người lính gắn bó với  thiên nhiên đất nước đồng thời thức dậy trong tâm hồn người lính lòng trung hiếu  trọn vẹn với nhân dân. Cách 4: Trăng trong thơ vốn là một vẻ đẹp trong trẻo, tròn đầy, đó là cái gì  lãng mạn nhất trong cuộc đời, nhất là trong hai trường hợp: khi con người ta còn ở  tuổi ấu thơ hoặc khi có những  tâm sự cần phải chia sẻ, giãi bầy. Ánh trăng của  Nguyễn Duy là cái nhìn xuyên suốt cả hai thời điểm vừa nêu. Chỉ có điều, đây  không phải là một cái nhìn xuôi, bình lặng từ trước đến sau, mà là cách nhìn  ngược: từ hôm nay mà nhìn lại để thấy có cái hôm qua trong cái hôm nay. Bài thơ 
  6. như một câu chuyện nhỏ được kể theo trình tự thời gian nhắc nhở về một thời đã  qua của người lính gắn bó với thiên nhiên, bình dị, hiền hoà, với nghĩa tình đằm  thắm sáng trong.  II. Thân bài. 1. Đề tài “Ánh trăng” ­ Đây là một đề tài quen thuộc của thơ ca xưa đặc biệt là thơ lãng mạn:  (Thuyền ai đậu bến sông trăng đó. Có chở trăng về kịp tối nay (Hàn Mạc Tử);  khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền (HCM); Ngẩng đầu nhìn trăng sáng. Cúi  đầu nhớ cố hương (Lý Bạch) ­ Với Nguyễn Duy, ánh trăng không chỉ là niềm thơ mà còn  được biểu đạt  một hàm nghĩa mới, mang dấu ấn của tình cảm thời đại: Ánh trăng là biểu tượng  cho quá khứ trong mỗi đời người.  2. Phân tích tâm sự sâu kín của Nguyễn Duy qua bài thơ “Ánh trăng”. a. Cảm nghĩ về vầng trăng quá khứ  Trước hết là hình ảnh vầng trăng tình nghĩa, hiền hậu, bình dị gắn liền với  kỉ  niệm một thời đã qua, một thời nhà thơ hằng gắn bó.  ­  Ánh trăng gắn với những kỉ niệm trong sáng thời thơ ấu tại làng quê: “Hồi nhỏ sống với rừng  Với sông rồi với biển” ­ Nhớ đến trăng là nhớ đến không gian bao la. Những “đồng, sông, bể” gọi  một vùng không gian quen thuộc của tuổi ấu thơ, có những lúc sung sướng đến hả  hê được chan hoà, ngụp lặn trong cái mát lành của quê hương  như dòng sữa ngọt.  ­  Những năm tháng gian lao nơi chiến trường, trăng thành người bạn tri kỉ,  gắn với những kỉ niệm không thể nào quên của cuộc chiến tranh ác liệt của người  lính trong rừng sâu: khi trăng treo trên đầu súng, trăng soi sáng đường hành quân. 
  7. Vầng trăng ấy cũng là “quầng lửa” theo cách gọi của nhà thơ Phạm Tiến Duật.  Trăng thành người bạn chia sẻ ngọt bùi, đồng cảm cộng khổ và những mất mát hi  sinh, vầng trăng trở thành người bạn tri kỉ với người lính.  “Hồi chiến tranh ở rừng  Vầng trăng thành tri kỉ  Trần trụi với thiên nhiên Hồn nhiên như cây cỏ Ngỡ không bao giờ quên Cái vầng trăng tình nghĩa” ­ Con người khi đó sống giản dị, thanh cao, chân thật trong sự hoà hợp với thiên  nhiên trong lành: “trần trụi với thiên nhiên ­ hồn nhiên như cây cỏ”. Cuộc sống  trong sáng và đẹp đẽ lạ thường. ­ Hôm nay, cái vầng trăng tri kỉ, tình nghĩa ấy đã là quá khứ kỉ niệm của con người.  Đó là một quá khứ đẹp đẽ, ân tình, gắn với hạnh phúc và gian lao của mỗi con  người và của đất nước. ­ Lời thơ kể không tả mà có sức gợi nhớ, âm điệu của lời thơ như trùng xuống  trong mạch cảm xúc bồi hồi. b. Cảm nghĩ về vầng trăng hiện tại. * Vầng trăng ­ người dưng qua đường. ­ Sau tuổi thơ và chiến tranh, người lính từ giã núi rừng trở về thành phố ­ nơi  đô  thị hiện đại. Khi đó mọi chuyện bắt đầu đổi khác: Từ hồi về thành phố Quen ánh điện cửa gương Vầng trăng đi qua ngõ 
  8. Như người dưng qua đường ­ Vầng trăng tri kỉ ngày nào nay đã trở thành “người dưng” ­ người khách qua  đường xa lạ, còn con người đâu còn son sắt thuỷ chung? => Một sự thay đổi phũ  phàng khiến người ta không khỏi nhói đau. Tình cảm xưa kia nay chia lìa.  ­ NT đối lập với khổ 1,2, giọng thơ thầm thì như trò chuyện tâm tình, giãi bày  tâm sự với chính mình. Tác giả đã lí giải sự thay đổi trong mối quan hệ tình cảm  một cách lô gíc. ­ Vì sao lại có sự xa lạ, cách biệt này?  + Sự thay đổi của hoàn cảnh sống­ không gian khác biệt, thời gian cách biệt,  điều kiện sống cách biệt:   Từ hồi về thành phố, người lính xưa bắt đầu quen sống  với những tiện nghi hiện đại như “ánh điện, cửa gương”. Cuộc sống công nghiệp  hoá, hiện đại hoá của điện gương đã làm át đi sức sống của ánh trăng trong tâm  hồn con người. Trăng lướt nhanh như cuộc sống hiện đại gấp gáp, hối hả không  có điều kiện để con người nhớ về quá khứ. Và anh lính đã quên đi chính ánh trăng  đã đồng cam cộng khổ cùng người lính, quên đi tình cảm chân thành, quá khứ cao  đẹp nhưng đầy tình người.  Câu thơ dưng dưng ­ lạnh lùng ­ nhức nhối, xót xa   miêu tả một điều gì bội bạc, nhẫn tâm vẫn thường xảy ra trong cuộc sống.  Có lẽ  nào sự biến đổi về kinh tế, về điều kiện sống tiện nghi lại kéo theo sự thay dạ đổi  lòng? (liên hệ: bởi thế mà ca dao mới lên tiếng hỏi: “Thuyền về có nhớ bến  chăng?”; Tố Hữu, nhân dân Việt bắc ở lại cũng băn khoăn một tâm trạng ấy khi  tiễn đưa cán bộ về xuôi:  Mình về thành thị xa xôi Nhà cao còn thấy núi đồi nữa chăng? Phố đông còn nhớ bản làng Sáng đêm còn nhớ mảnh trăng giữa rừng? ) 
  9. => Từ sự xa lạ giữa người với trăng ấy, nhà thơ muốn nhắc nhở : đừng để những  giá trị vật chất điều khiển chúng ta.... * Niềm suy tư của tác giả và tấm lòng của vầng trăng. ­ Sự  xuất hiện trở  lại của vầng trăng thật đột ngột,  ở  vào một thời điểm không  ngờ. Tình huống mất điện đột ngột trong đêm khiến con người vốn đã quen với  ánh sáng, không thể  chịu nổi cảnh tối om nơi căn phòng buyn đinh hiện đại. Ba   động từ  “vội, bật, tung” đặt liền nhau diễn tả  sự  khó chịu và hành động khẩn  trương, hối hả của tác giả  để  đi tìm nguồn sáng. Và hình ảnh vầng trăng tròn tình  cờ  mà tự  nhiên, đột ngột hiện ra vằng vặc giữa trời, chiếu vào căn phòng tối om  kia, chiếu lên khuôn mặt đang ngửa lên nhìn trời, nhìn trăng kia.  => Tình huống gặp lại trăng là bước ngoặt tạo nên sự chuyển biến mạnh mẽ trong  tình cảm và suy nghĩ của nhân vật trữ tình với vầng trăng. Vầng trăng đến đột ngột   đã làm sáng lên cái góc tối  ở  con người, đánh thức sự  ngủ  quên trong điều kiện  sống của con người đã hoàn toàn đổi khác.  ­ Bất ngờ đối diện với vầng trăng, con người đã có cử chỉ, tâm trạng:  Ngửa mặt lên nhìn mặt Có cái gì rưng rưng.  ­ Tư  thế  “ngửa mặt lên nhìn mặt” là tư  thế  đối mặt: “mặt”  ở  đây chính là vầng   trăng tròn. Con người thấy mặt trăng là thấy được người bạn tri kỉ ngày nào.  Cách   viết thật lạ và sâu sắc! ­ Cảm xúc “rưng rưng” là biểu thị  của một tâm hồn đang rung động, xao xuyến,   gợi nhớ  gợi thương khi gặp lại bạn tri kỉ. Ngôn ngữ  bây giờ  là nước mắt dưới   hàng mi. Một tình cảm chừng như nén lại nhưng cứ  trào ra đến thổn thức, xót xa.  Cuộc gặp gỡ không tay bắt mặt mừng này đã lắng xuống ở  độ  sâu của cảm nghĩ.  Trăng thì vẫn phóng khoáng, vô tư, độ  lượng biết bao, như  “bể”, như  “rừng” mà  con người thì phụ tình, phụ nghĩa.
  10. ­ Trước cái nhìn sám hối của nhà thơ, vầng trăng một lần nữa như gợi lên bao cái  “còn” mà con người tưởng chừng như đã mất. Đó là kỉ  niệm quá khứ  tốt đẹp khi   cuộc sống còn nghèo nàn, gian lao. Lúc ấy con người với thiên nhiên ­ vầng trăng là   bạn tri kỉ, là tình nghĩa.  Nhịp thơ hối hả dâng trào như  tình người dào dạt. Niềm  hạnh phúc của nhà thơ như đang được sống lại một giấc chiêm bao.  ­ Bài thơ khép lại ở hình ảnh:  “Trăng cứ tròn vành vạnh ..............Đủ cho ta giật mình” ­ Trăng hiện lên đáng giá biết bao, cao thượng vị tha biết chừng nào. Ở  đây có sự  đối lập giữa “tròn vành vạnh” và “kẻ  vô tình”, giữa cái im lặng của ánh trăng với   sự “giật mình” thức tỉnh của con người.  + Trăng tròn vành vạnh,  trăng im phăng phắc không giận hờn trách móc mà chỉ  nhìn thôi, một cái nhìn thật sâu như soi tận đáy tim người lính đủ để giật mình nghĩ   về cuộc sống hoà bình hôm nay. Họ đã quên mất đi chính mình, quên những gì đẹp  đẽ, thiêng liêng nhất của quá khứ  để  chìm đắm trong một cuộc sống xô bồ, phồn  hoa mà ít nhiều sẽ mất đi những gì tốt đẹp nhất của chính mình.  + Trăng tròn vành vạnh là hiện diện cho quá khứ  đẹp đẽ  không thể  phai mờ.  Ánh trăng chính là người bạn nghĩa tình mà nghiêm khắc  nhắc nhở nhà thơ và cả  mỗi chúng ta: con người có thể  vô tình, có thể  lãng quên nhưng thiên nhiên, nghĩa  tình quá khứ thì luôn tròn đầy, bất diệt. ­  Sự không vui, sự trách móc trong lặng im của vầng trăng  là sự tự vấn lương   tâm dẫn đến cái “giật mình”  ở  câu thơ cuối. Cái “giật mình” là cảm giác và phản   xạ tâm lí có thật của một người biết suy nghĩ, chợt nhận ra sự vô tình, bạc bẽo, sự  nông nổi trong cách sống của mình. Cái “giật mình” của sự ăn năn, tự trách, tự thấy   phải đổi thay trong cách sống. Cái “giật mình” tự nhắc nhở bản thân không bao giờ  được làm người phản bội quá khứ, phản bội thiên nhiên, sùng bái hiện tại mà coi  
  11. rẻ  thiên nhiên. Câu thơ  thầm nhắc nhở  chính mình và cũng đồng thời nhắc nhở  chúng ta, những người đang sống trong hoà bình, hưởng những tiện nghi hiện đại,   đừng bao giờ quên công sức đấu tranh cách mạng của biết bao người đi trước.  III. Kết luận: Cách 1: Bài thơ  “Ánh trăng” là một lần “giật mình” của Nguyễn Duy về  sự  vô tình   trước thiên nhiên, vô tình với những kỉ  niệm nghĩa tình của một thời đã qua. Thơ  của Nguyễn Duy không hề  khai thác cái đẹp của trăng, nhưng ánh trăng trong thơ  ông vẫn mãi làm day dứt người đọc ­ sự day dứt về những điều được và mất, nên   và không, khi sống trong cuộc đời. Vẻ đẹp ấy mới chính là vẻ đẹp của văn chương  cách mạng vì thơ  không chỉ  ca ngợi vẻ  đẹp của thiên nhiên, con người mà còn  “dạy” ta cách học làm người. Thì ra những bài học sâu sắc về đạo lí làm người đâu   cứ  phải tìm trong sách vở  hay từ  những khái niệm trừu tượng xa xôi. Ánh trăng  thật sự đã như một tấm gương soi để thấy được gương mặt thực của mình, để tìm  lại cái đẹp tinh khôi mà chúng ta tưởng đã ngủ ngon trong quên lãng. Cách 2: Bài thơ khép lại nhưng đã để  lại  ấn tượng sâu sắc trong lòng người  đọc. Nguyễn Duy ­ một phong cách rất giản dị nhưng mang triết lí sâu xa. Nó gợi  ra trong lòng chúng ta nhiều suy ngẫm sâu sắc về cách sống, cách làm người “uống   nước nhớ nguồn” ân nghĩa thuỷ chung cùng quá khứ. ===========================
  12. Bài 7: CON CÒ  A. Kiến thức cần nhớ. 1. Tác giả:  ­ Chế Lan Viên (1920 – 1989) tên khai sinh là Phan Ngọc Hoan, sinh ra ở Quảng Trị  nhưng lớn lên ở Bình Định, là nhà thơ xuất sắc của nền thơ hiện đại Việt Nam. Ông  có những đóng góp quan trọng cho thơ ca dân tộc ở thế kỉ XX. Tập thơ đầu tay: “Điêu  tàn” (1937) đã đưa tên tuổi Chế Lan Viên vào trong số những nhà thơ hàng đầu của  phong trào thơ mới.  ­ Thơ Chế Lan Viên có phong cách nghệ thuật rõ nét và độc đáo. Đó là phong cách suy  tưởng triết lí, đậm chất trí tuệ và tính hiện đại. ­ Chế Lan Viên có nhiều sáng tạo trong nghệ thuật xây dựng hình ảnh thơ. Hình ảnh thơ  của ông phong phú, đa dạng, kết hợp giữa thực và ảo, thường được sáng tạo bằng  sức mạnh của liên tưởng, tưởng tượng, nhiều bất ngờ, kì thú. Nhưng cũng do những  đặc điểm này mà thơ Chế Lan Viên không dễ đi vào công chúng đông đảo. 2. Bài thơ  ­ “Con cò” được sáng tác năm 1962, in trong tập thơ “Hoa ngày thường, chim báo bão”  (1967) của Chế Lan Viên.   ­ Đây là bài thơ thể hiện khá rõ một số nét của phong cách nghệ thuật Chế Lan Viên. Bài  thơ khai thác và phát triển hình ảnh con cò trong những câu hát ru quen thuộc, để ngợi  ca tình mẹ và ý nghĩa của lời ru với cuộc đời mỗi người. ­ Phương thức biểu đạt chính: biểu cảm (mượn hình ảnh con cò để bộc lộ tình cảm).  Kết hợp với miêu tả ­ Bố cục:  Bài thơ chia làm 3 đoạn ứng với sự phát triển của hình tượng con cò, hình  tượng trung tâm xuyên suốt bài thơ, trong mối quan hệ với cuộc đời con người từ thơ  bé đến trưởng thành và suốt cả đời người. + Đoạn 1: Hình ảnh con cò qua những lời ru tuổi ấu thơ + Đoạn 2: Cánh cò đi vào tiềm thức của tuổi thơ, trở nên gần gũi và sẽ theo cùng con  người trên mọi chặng đường của cuộc đời.  + Đoạn 3: Từ hình ảnh con cò, suy ngẫm và triết lí về ý nghĩa của lời ru và lòng mẹ đối  với cuộc đời mỗi người. 3. Một số câu hỏi xoay quanh bài thơ.  1. Chép chính xác đoạn thơ thứ 3 của bài thơ “Con cò”.Trình bầy cảm nhận của em về  đoạn thơ: “Dù ở gần con.. theo con” (Viết đoạn văn quy nạp phân tích với câu chủ đề: Bảy câu thơ đã khái quát một quy luật  tình cảm có ý nghĩa bền vững, rộng lớn mà sâu sắc (12 câu có sử dụng 1 câu phức) Gợi ý. ­ Đến đoạn 3, nhịp thơ thay đổi như dồn dập hẳn lên trong những câu thơ ngắn giống  như lời dặn dò của mẹ, hình ảnh con cò trong đoạn thơ như được nhấn mạnh ở  ý  nghĩa biểu tượng cho tấm lòng người mẹ lúc nào cũng ở bên con suốt cuộc đời.  ­ Điệp ngữ, điệp cấu trúc câu đem lại âm hưởng ngọt ngào như trong lời ru của người  mẹ. Hình tượng con cò từ trong ca dao đi vào thơ Chế Lan Viên bình dị mà sâu lắng.
  13. ­ Gần – xa là cặp từ trái nghĩa cùng với thành ngữ” lên rừng ­ xuống bể”  gợi lên không  gian rộng lớn với những cách trở khó khăn của cuộc đời. Đằng sau không gian ấy là  bóng dáng của thời gian đằng đẵng. Thời gian, không gian có thể làm phai mờ những  tình cảm nhưng riêng tình mẫu tử thiêng liêng là vượt qua mọi thử thách. Lòng mẹ  luôn bên con, tình mẹ luôn chở che cho con ấm áp yêu thương: Con dù lớn vẫn là con  của mẹ. Đi hết đời lòng mẹ vẫn theo con.” Sự lặp lại liên tục của những từ ngữ “dù  gần con, dù xa con” như láy đi láy lại cảm xúc thương yêu đang trào dâng trong tâm  hồn mẹ. Tình yêu thương của mẹ luôn “vẫn”, “sẽ”, “mãi” bên con cho dù con lớn  lên, đi xa, trưởng thành trong đời, cho dù có  thể một ngày nào đó mẹ không còn có  mặt trên đời. ­ Câu thơ đúc kết một chân lý giản dị, muôn đời: trong con mắt, trái tim, vòng tay của  người mẹ, đứa con vẫn mãi là bé bỏng, cần mẹ chở che. Chữ “đi” được hiểu theo  phương thức hoán dụ: cuộc đời con, tất cả vui buồn đau khổ con đã nếm trải, người  mẹ vẫn mãi yêu con, chở che, bên con, là chỗ dựa, bến đò bình yên trong cuộc đời  người con.  ­ Lời dặn giản dị mộc mạc mà ý thơ, tình thơ trĩu nặng, mẹ vẫn luôn bên con dù trải qua  nhiều va đập, sóng gió, tình mẹ mãi chở che, bao bọc con, là mái nhà ấm áp.   Hình tượng con cò giản dị trong ca dao đã khiến những điều chiêm nghiệm, đúc kết của  nhà thơ trở nên sâu sắc, ý nghĩa mà gần gũi.  Tấm lòng người mẹ muôn đời vẫn vậy, vượt ra ngoài mọi khoảng cách không gian, thời  gian. Hai câu thơ cuối dài ra sâu lắng đã khái quát lại một triết lí, quy luật tình cảm bền vững, sâu sắc, vừa thể hiện tình cảm thiết tha đầy yêu thương của  người mẹ. => Bảy câu thơ đã khái quát một quy luật tình cảm có ý nghĩa bền vững, rộng lớn mà sâu  sắc. Câu 2:  Em có biết câu thơ, văn nào nói về mẹ nữa không? Hãy chép lại 2 câu mà em  thích (ghi rõ trích ở đâu) Con là mầm đất tươi thơm Nở trong lòng mẹ ­ mẹ ươm mẹ trồng Đôi tay mẹ bế, mẹ bồng Như con sông chở nặng dòng phù sa (Hát ru ­ Vũ Quần Phương)  Câu 3: Phân tích hai câu thơ:  “Con dù lớn vẫn là con của mẹ Đi hết đời lòng mẹ vẫn theo con” Gợi ý:  ­ Giới thiệu bài thơ, hình tượng con cò ­ Hai câu thơ ở cuối đoạn 2 là lời của mẹ nói với con ­ cò con ­ Trong suy nghĩ và quan niệm của người mẹ, dưới cái nhìn của mẹ: con dù lớn không, dù  trưởng thành đến đâu, nhiều tuổi đến đâu, làm gì, thành đạt đến đâu chăng nữa.. con  vẫn là con của mẹ, con vẫn rất đáng yêu, đáng thương, vẫn cần chở che, vẫn là niềm  tự hào, niềm tin và hi vọng của mẹ. ­ Dù mẹ có phải xa con, lâu, rất lâu, thậm chí suốt đời, không lúc nào lòng mẹ không ở  bên con 
  14. => Từ việc hiểu biết tấm lòng người mẹ, nhà thơ đã khái quát một quy luật tình cảm  mang tính vĩnh hằng: tình mẹ, tình mẫu tử bền vững, rộng lớn, sâu sắc. Qua đó ngợi  ca tình cảm vô biên, thiêng liêng của người mẹ.  Câu 4: Đọc hai câu thơ sau: “Cò một mình cò phải kiếm lấy ăn. Con có mẹ con chơi rồi  lại ngủ”. a. Hai câu thơ trên là lời của ai nói với ai, nhằm mục đích gì?  (lời của mẹ nói với con để bày tỏ tình thương con) Quan hệ ý nghĩa chủ yếu trong hai câu thơ là quan hệ nào? ( Quan hệ đối lập) b. Ý nghĩa nào toát lên từ hai câu thơ trên (Hạnh phúc của con khi có mẹ) Câu 5: Hình ảnh trong câu thơ: “Con ngủ yên thì cò cũng ngủ. Cánh của cò hai đứa đắp  chung đôi” đẹp và hay như thế nào? ­> Hình ảnh thơ đẹp, lãng mạn, bay bổng. Lời ru của mẹ đưa con vào giấc ngủ, trong mơ  con vẫn thấy hình ảnh con cò. Con có giấc mơ đẹp. Lời ru của mẹ đã nâng đỡ tâm  hồn con. Cánh cò trở thành một hình ảnh ẩn dụ giầu ý nghĩa. ===================== ĐỀ TẬP LÀM VĂN : Phân tích bài thơ : “Con Cò”. A. Mở bài:  ­ Chế Lan Viên là nhà thơ xuất sắc của nền thơ hiện đại Việt Nam.  ­ Bài thơ “Con Cò” thể hiện khá rõ một số nét của phong cách NT Chế Lan Viên.  ­ Thông qua một cánh cò tượng trưng, Chế Lan viên đã đi đến những khái quát sâu sắc về  tình yêu thương của người mẹ và ý nghĩa của lời ru đối với cuộc  đời mỗi con người. B. Thân bài:  1. Luận điểm 1: Nhận xét chung về  thể thơ, giọng điệu, hình ảnh con cò: nguồn gốc và  sáng tạo ­ Thể tự do, các câu thơ có độ dài ngắn khác nhau, nhịp điệu luôn biến đổi. Các điệp từ,  điệp ngữ có sức gợi gần gũi với những điệu hát ru quen thuộc.   ­ HÌnh tượng trung tâm xuyên suốt cả bài thơ là con cò được bổ sung, biến đổi qua những  hình ảnh cụ thể và sinh động, giầu chất suy tư của tác giả.  ­  Trong ca dao truyền thống, hình ảnh con cò xuất hiện  phổ biến và mang ý nghĩa ẩn dụ  cho hình ảnh người nông dân, người phụ nữ trong cuộc sống còn nhiều vất vả, nhọc  nhằn nhưng giầu đức tính tốt đẹp và niềm vui sống. ­  Trong bài thơ này, Chế Lan Viên chỉ khai thác và xây dựng ý nghĩa biểu tượng của hình  ảnh con cò nhằm nói lên  tấm lòng người mẹ và vai trò của  những lời hát ru đối với  cuộc sống mỗi con người. 2. Luận điểm 2: HÌnh ảnh con cò “trong lời mẹ hát” đi vào giấc ngủ của con.                                                  Con cò bay la .... Cò sợ xáo măng...” ­ Hình ảnh con cò cứ thấp thoáng gợi ra  từ những câu ca dao dùng làm lời hát ru rất  phong phú về nội dung và biểu tượng.  +  Nhà thơ chỉ dùng lại vài từ trong mỗi câu ca dao xưa vừa gợi lại lời ru, vừa gợi lại ít  nhiều sự phong phú trong ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh con cò.  + Con còn “bế trên tay”, nào biết được ý nghĩa của những câu ca dao trong lời ru của mẹ: 
  15. Con cò bay lả bay la Bay từ cổng Phủ bay ra cánh đồng Con cò bay lả bay la Bay  từ cửa phủ, bay về Đồng Đăng Con cò mà đi ăn đêm Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao… Nhưng qua lời ru, hình ảnh con cò đã đi vào tâm hồn trẻ thơ một cách vô thức, và theo đó  là cả điệu hồn dân tộc. Đứa trẻ được  võ về trong những âm điệu ngọt ngào, dịu dàng  của lời ru để đón nhận bằng trực giác tình yêu và sự chở che của mẹ.   ­ Thấm đẫm trong lời hát là những xúc cảm yêu thương trào dâng trong trái tim của mẹ: “Cò một mình cò phải kiếm lấy ăn Con có mẹ con chơi rồi lại ngủ” Và: “ngủ yên, ngủ yên, cò ơi chớ sợ Cành có mềm mẹ đã sẵn tay nâng” ­ Tình mẹ nhân từ, rộng mở với những gì nhỏ bé đáng thương, đáng được che chở.  ­ Lời thơ như nhịp vỗ về thể hiện sự yêu thương dào dạt vô bờ bến.   ­ Những cảm xúc yêu thương ấy  mang đến cho con giấc ngủ yên bình, hạnh phúc trong  sự ôm ấp, chở che của tiếng ru lòng mẹ: Trong lời ru của mẹ thấm hơi xuân …………………….. Sữa mẹ nhiều con ngủ chẳng phân vân.  ­ Vì thế, tái tim bé nhỏ của con đã được hiểu thế nào là tình mẹ. Đoạn thơ khép lại bằng  những hình ảnh thanh bình của cuộc sống, bằng những giấc nồng say của trẻ thơ. 3. Luận điểm 3: Hình ảnh con cò trong đoạn 2 (cánh cò đã trở thành người bạn tuổi ấu  thơ, thành bạn đồng hành của con người  trong suốt cuộc đời.) ­ Bằng sự liên , tưởng tượng phong phú, nhà thơ đã sáng tạo ra những hình ảnh cánh cò  đặc sắc, hàm chứa nhiều ý nghĩa.  + Từ cánh cò của tuổi ấu thơ thật ngộ nghĩnh mà đầm ấm: Còn ngủ yên thì cò cũng ngủ.  Cánh của cò hai đứa đắp chung đôi”.   + Đến cánh cò của tuổi tới trường quấn quýt chân con: Mai khôn lớn con theo cò đi học.  Cánh của cò hai đứa đắp chung đôi”. +  Cho đến khi trưởng thành, con thành thi sĩ: “Cánh cò trắng lại bay hoài không nghỉ.  Trước hiên nhà. Và trong hơi mát câu văn”.  ­ Hình ảnh thơ lung linh một vẻ đẹp bất ngờ, diễn tả một suy tưởng sâu xa: Sự dìu dắt,  nâng đỡ yêu thương bền bỉ suốt cả đời mẹ đối với con. 4. Luận điểm 4: HÌnh ảnh con cò được nhấn mạnh ở đoạn 3 với ý nghĩa biểu tượng cho   tấm lòng người mẹ lúc nào cũng bên con đến suốt cuộc đời :    Dù ở gần con…. vẫn yêu con” ­ Đến đoạn 3, nhịp thơ thay đổi như dồn dập hẳn lên trong những câu thơ ngắn giống  như lời dặn dò của mẹ, hình ảnh con cò trong đoạn thơ như được nhấn mạnh ở  ý  nghĩa biểu tượng cho tấm lòng người mẹ lúc nào cũng ở bên con suốt cuộc đời. 
  16. ­  Lời dặn giản dị mộc mạc mà hàm nghĩa sâu xa. Dưới hình thức thơ tự do, nhà thơ như  dựng lên cả một bầu trời yêu thương bao la mà đặc điểm của nó là không gian và  thời gian không giới hạn: Lên rừng ­ xuống biển ­ hai chiều không gian gợi ấn tượng  về những khó khăn của cuộc đời. Không gian nghệ thuật ấy của bài thơ cũng góp  phần biểu hiện sự phát triển của tứ thơ, của tình cảm và hành động của nhân vật trữ  tình. Từ không gian có giới hạn ngày càng rộng dần thêm đến một không gian tâm  tưởng vừa bao la vừa sâu thẳm như chính lời ru hát lên từ trái tim của mẹ:  Con dù lớn vẫn là con của mẹ.                    Đi hết đời lòng mẹ vẫn theo con” Tấm lòng người mẹ muôn đời vẫn vậy, vượt ra ngoài mọi khoảng cách không gian, thời  gian. Đó là quy luật bất biến và vĩnh hằng của mọi tấm lòng người mẹ trên đời  mà  nhà thơ đã khái quát, đúc kết trong  câu thơ đậm chất suy tưởng và triết lí. Sự lặp lại  liên tục của những từ ngữ “dù gần con, dù xa con” như láy đi láy lại cảm xúc thương  yêu đang trào dâng trong tâm hồn mẹ. Tình yêu thương của mẹ luôn “vẫn”, “sẽ”,  “mãi” bên con cho dù con lớn lên, đi xa, trưởng thành trong đời, cho dù có  thể một  ngày nào đó mẹ không còn có mặt trên đời.  Nguyễn Duy đã từng khái quát về tình yêu ấy trong những câu thơ đầy triết lí:  “Ta đi trọn kiếp con người. Cũng không đi hết một lời mẹ ru”. Tiếng ru ấy theo ta đi suốt cuộc đời như một hành trang tinh thần của tình mẫu tử. ­ Kết thúc bài thơ, lời thơ trở về với hình thức của tiếng ru: “à ơi”. Nhịp điệu của câu thơ  dồn về với những vần “ôi”, “ơi”, “ôi” nối tiếp nhau trong khổ thơ:  À ơi!  ………….Đến hát  Quanh nôi”. làm cho câu thơ dù ngắn mà vẫn gợi cảm giác như là lời ru, ngân nga mãi trong lòng  người đọc. Con cò đi vào lời ru của mẹ đã thành “cuộc đời vỗ cánh qua nôi” đứa con.  Kì diệu biết bao cái tiếng ru ngọt ngào mà sâu thẳm của lòng mẹ thương  con. Cuộc  đời mỗi con người sẽ chẳng thể nào thiếu đi phần tình cảm thiêng liêng nhất bởi đó  còn là tình quê hương là nguồn cội là bến bờ che chở nâng đỡ mỗi con người.  C. Kết luận: ­  “Con cò” là một bài thơ hay của Chế Lan Viên. ­  Bằng sự suy tưởng, bằng sự vận dụng sáng tạo ca dao, giọng điệu tâm tình thủ thỉ,  nhịp điệu êm ái, dịu dàng mang âm hưởng của những lời hát ru, bài thơ đã ngợi ca tình  yêu sâu sắc bao la của mỗi người mẹ trong cuộc đời này.  ­ Bài thơ  gợi lên những rung cảm và suy nghĩ sâu sắc về công ơn sinh thành của người  mẹ….. Dàn ý 2: Phân tích bài thơ : “Con Cò”.  A. Mở bài:  ­ Chế Lan Viên là nhà thơ xuất sắc của nền thơ hiện đại Việt Nam. Đọc thơ ông, người  đọc có thể rút ra từ đó những triết lí sâu sắc về tình yêu, cuộc sống con người.  ­ Bài thơ “Con Cò” thể hiện khá rõ một số nét của phong cách NT Chế Lan Viên. Bài thơ   được sáng tác năm 1962 in trong tập thơ “Hoa ngày thường chim báo bão” của ông. 
  17. ­ Thông qua một cánh cò tượng trưng dập dìu trong lời ru, câu hát, Chế Lan viên đã đi đến  những khái quát sâu sắc về tình yêu thương của người mẹ và ý nghĩa của lời ru đối  với cuộc  đời mỗi con người. B. Thân bài:  1. Luận điểm 1: Nhận xét chung về  thể thơ, giọng điệu, hình ảnh con cò: nguồn gốc và  sáng tạo ­ Bài thơ được Chế Lan Viên viết theo thể tự do, các câu thơ có độ dài ngắn khác nhau,  nhịp điệu luôn biến đổi. Tác giả thường xuyên dùng các điệp từ, điệp ngữ có sức gợi  gần gũi với những điệu hát ru quen thuộc.   ­ HÌnh tượng con cò là hình tượng trung tâm xuyên suốt cả bài thơ. Cả bài thơ, hình  tượng con cò được bổ sung, biến đổi qua những hình ảnh cụ thể và sinh động, giầu  chất suy tư của tác giả.  ­  Trong ca dao truyền thống, hình ảnh con cò xuất hiện rất phổ biết và hình ảnh ấy lại  thường đi vào những lời hát ru, mang ý nghĩa ẩn dụ cho hình ảnh người nông dân,  người phụ nữ trong cuộc sống còn nhiều vất vả, nhọc nhằn nhưng giầu đức tính tốt  đẹp và niềm vui sống. ­  Trong bài thơ này, Chế Lan Viên chỉ khai thác và xây dựng ý nghĩa biểu tượng của hình  ảnh con cò nhằm nói lên  tấm lòng người mẹ và vai trò của  những lời hát ru đối với  cuộc sống mỗi con người. 2. Luận điểm 2: HÌnh ảnh con cò “trong lời mẹ hát” đi vào giấc ngủ của con. ­ Ở đoạn đời đầu tiên, khi con còn ẵm ngửa, tình mẹ gửi trong từng câu hát ru quen  thuộc:  Con cò bay la ….. Cò sợ xáo măng…” ­ Hình ảnh con cò cứ thấp thoáng gợi ra  từ những câu ca dao dùng làm lời hát ru rất  phong phú về nội dung và biểu tượng. Ở đây, nhà thơ chỉ dùng lại vài từ trong mỗi  câu ca dao xưa vừa gợi lại lời ru, vừa gợi lại ít nhiều sự phong phú trong ý nghĩa biểu  tượng củ hình ảnh con cò. Trong câu hát ru có hình ảnh quê hương, có cánh đồng cò  bay thẳng cánh, có hình ảnh những cuộc đời lam lũ, tảo tần một nắng hai sương nuôi  con khôn lớn, có những số phận đắng cay tủi nhục và có cả tình yêu thương bao la,  những vỗ về âm yếm mẹ luôn dành cho con. Con còn “bế trên tay”, nào biết được ý  nghĩa của những câu ca dao trong lời ru của mẹ:  Con cò bay lả bay la Bay từ cổng Phủ bay ra cánh đồng Con cò bay lả bay la Bay  từ cửa phủ, bay về Đồng Đăng Con cò mà đi ăn đêm Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao… Nhưng qua lời ru, hình ảnh con cò đã đi vào tâm hồn trẻ thơ một cách vô thức, và theo đó  là cả điệu hồn dân tộc. Đứa trẻ được  võ về trong những âm điệu ngọt ngào, dịu dàng  của lời ru để đón nhận bằng trực giác tình yêu và sự chở che của mẹ.   ­ Thấm đẫm trong lời hát là những xúc cảm yêu thương trào dâng trong trái tim của mẹ:
  18. “Cò một mình cò phải kiếm lấy ăn Con có mẹ con chơi rồi lại ngủ” Và: “ngủ yên, ngủ yên, cò ơi chớ sợ Cành có mềm mẹ đã sẵn tay nâng” Mẹ thương con cò trong ca dao lận đận, mẹ dành cho con bao tình yêu thương, cánh tay  dịu hiền của mẹ, che chở cho con, lời ru câu hát êm đềm và dòng sữa mẹ ngọt ngào  đã nuôi con khôn lớn. Tình mẹ nhân từ, rộng mở với những gì nhỏ bé đáng thương,  đáng được che chở. Lời thơ như nhịp vỗ về thể hiện sự yêu thương dào dạt vô bờ  bến.   ­ Những cảm xúc yêu thương ấy làm nên chiều sâu của lời ru, mang đến cho con giấc  ngủ yên bình, hạnh phúc trong sự ôm ấp, chở che của tiếng ru lòng mẹ: Trong lời ru của mẹ thấm hơi xuân Con chưa biết con cò, con vạc Con chưa biết những cành mềm mẹ hát Sữa mẹ nhiều con ngủ chẳng phân vân.  Vì thế, cho dù không hiểu, cho dù là cảm nhận vô thức nhưng trái tim bé nhỏ của con đã  được hiểu thế nào là tình mẹ. Đoạn thơ khép lại bằng những hình ảnh thanh bình của  cuộc sống, bằng những giấc nồng say của trẻ thơ. 3. Luận điểm 3: Hình ảnh con cò trong đoạn 2 Nếu ở đoạn 1, cánh cò trong lời ru của mẹ là điểm khởi đầu, xuất phát, thì sang đoạn 2,  cánh cò đã trở thành người bạn tuổi ấu thơ, theo cùng con người trên mỗi chặng  đường đi tới, thành bạn đồng hành của con người  trong suốt cuộc đời.  ­ Bằng sự liên , tưởng tượng phong phú, nhà thơ đã sáng tạo ra những hình ảnh cánh cò  đặc sắc, hàm chứa nhiều ý nghĩa. Từ cánh cò của tuổi ấu thơ thật ngộ nghĩnh mà  đầm ấm: Còn ngủ yên thì cò cũng ngủ. Cánh của cò hai đứa đắp chung đôi”.  Đến  cánh cò của tuổi tới trường quấn quýt chân con: Mai khôn lớn con theo cò đi học.  Cánh của cò hai đứa đắp chung đôi”. Cho đến khi trưởng thành, con thành thi sĩ:  “Cánh cò trắng lại bay hoài không nghỉ. Trước hiên nhà. Và trong hơi mát câu văn”.  ­ Hình ảnh thơ lung linh một vẻ đẹp bất ngờ, diễn tả một suy tưởng sâu xa. Ở đâu, lúc  nào, cò cũng ôm ấp, quấn quýt bên con, “bay hoài không nghỉ” cùng con.  Không phải  cò đâu, là lòng mẹ ta đấy, là sự dìu dắt, nâng đỡ yêu thương bền bỉ suốt cả đời mẹ  đối với con. 4. Luận điểm 4: HÌnh ảnh con cò được nhấn mạnh ở đoạn 3 với ý nghĩa biểu tượng cho   tấm lòng người mẹ lúc nào cũng bên con đến suốt cuộc đời :    Dù ở gần con ……. Cò mãi yêu con. ­ Đến đoạn 3, nhịp thơ thay đổi như dồn dập hẳn lên trong những câu thơ ngắn giống  như lời dặn dò của mẹ, hình ảnh con cò trong đoạn thơ như được nhấn mạnh ở  ý  nghĩa biểu tượng cho tấm lòng người mẹ lúc nào cũng ở bên con suốt cuộc đời. 
  19. ­  Lời dặn giản dị mộc mạc mà hàm nghĩa sâu xa. Dưới hình thức thơ tự do, nhà thơ như  dựng lên cả một bầu trời yêu thương bao la mà đặc điểm của nó là không gian và  thời gian không giới hạn: Lên rừng ­ xuống biển ­ hai chiều không gian gợi ấn tượng  về những khó khăn của cuộc đời. Không gian nghệ thuật ấy của bài thơ cũng góp  phần biểu hiện sự phát triển của tứ thơ, của tình cảm và hành động của nhân vật trữ  tình. Từ không gian có giới hạn ngày càng rộng dần thêm đến một không gian tâm  tưởng vừa bao la vừa sâu thẳm như chính lời ru hát lên từ trái tim của mẹ:      Con dù lớn vẫn là con của mẹ.                 Đi hết đời lòng mẹ vẫn theo con” Tấm lòng người mẹ muôn đời vẫn vậy, vượt ra ngoài mọi khoảng cách không gian, thời  gian. Đó là quy luật bất biến và vĩnh hằng của mọi tấm lòng người mẹ trên đời  mà  nhà thơ đã khái quát, đúc kết trong  câu thơ đậm chất suy tưởng và triết lí. Sự lặp lại  liên tục của những từ ngữ “dù gần con, dù xa con” như láy đi láy lại cảm xúc thương  yêu đang trào dâng trong tâm hồn mẹ. Tình yêu thương của mẹ luôn “vẫn”, “sẽ”,  “mãi” bên con cho dù con lớn lên, đi xa, trưởng thành trong đời, cho dù có  thể một  ngày nào đó mẹ không còn có mặt trên đời.  Nguyễn Duy đã từng khái quát về tình yêu ấy trong những câu thơ đầy triết lí:  “Ta đi trọn kiếp con người. Cũng không đi hết một lời mẹ ru”. Tiếng ru ấy theo ta đi suốt cuộc đời như một hành trang tinh thần của tình mẫu tử. ­ Kết thúc bài thơ, lời thơ trở về với hình thức của tiếng ru: “à ơi”. Nhịp điệu của câu thơ  dồn về với những vần “ôi”, “ơi”, “ôi” nối tiếp nhau trong khổ thơ:  À ơi!  Một con cò thôi ………….Đến hát  Quanh nôi”. làm cho câu thơ dù ngắn mà vẫn gợi cảm giác như là lời ru, ngân nga mãi trong lòng  người đọc. Con cò đi vào lời ru của mẹ đã thành “cuộc đời vỗ cánh qua nôi” đứa con.  Kì diệu biết bao cái tiếng ru ngọt ngào mà sâu thẳm của lòng mẹ thương  con. Cuộc  đời mỗi con người sẽ chẳng thể nào thiếu đi phần tình cảm thiêng liêng nhất bởi đó  còn là tình quê hương là nguồn cội là bến bờ che chở nâng đỡ mỗi con người.  C. Kết luận: Có thể nói, “Con cò” là một bài thơ hay của Chế Lan Viên. Bằng con đường của sự suy  tưởng, bằng sự vận dụng sáng tạo ca dao, giọng điệu tâm tình thủ thỉ, nhịp điệu êm  ái, dịu dàng mang âm hưởng của những lời hát ru, bài thơ đã ngợi ca tình yêu sâu sắc  bao la của mỗi người mẹ trong cuộc đời này. Ngày nay mỗi lần đọc lại bài thơ vẫn  gợi lên những rung cảm và suy nghĩ sâu sắc về công ơn sinh thành của người mẹ….. =================== MÙA XUÂN NHO NHỎ A. Kiến thức cần nhớ. 1. T    ác     gi   :  Thanh Hải (1930 – 1980) tên thật là Phạm Bá Ngoãn, quê ở huyện Phong     ả Điền, Thừa Thiên Huế.
  20. ­ Tham gia hoạt động văn nghệ từ cuối năm kháng chiến chống Pháp. Là cây bút có công  xây dựng nền văn học giải phóng miền Nam từ những ngày đầu.Thanh Hải từng là  một người lính trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ với tư cách là  một nhà văn.  ­ Thơ TH chân chất và bình dị, đôn hậu và chân thành.  ­ Các tác phẩm chính: Các tập thơ “những đồng chí trung kiên” (1962), Huế mùa xuân (hai  tập 1970 và 1975), Dấu võng Trường Sơn (1977) ­ Năm 1965, được tặng giải thưởng văn học Nguyễn Đình Chiểu. ­ Sau ngày giải phóng, Thanh Hải vẫn gắn bó với quê hương xứ Huế, sống và sáng tác ở  đó cho đến lúc qua đời. 2. Tác phẩm: a.   Bài thơ ra đời trong một hoàn cảnh đặc biệt: (tháng 11­ 1980, chỉ ít ngày sau, nhà thơ  qua đời. Bài thơ ra đời trong hoàn cảnh đất nước ta mới thống nhất lại đang phải đối  mặt với nhiều khó khăn và thử thách gay gắt. (Năm 1980, TH đau nặng phải vào BV Huế điều trị khoa nội. Tuy căn bệnh được các bác  sĩ chẩn đoán là không thể qua được nhưng TH luôn là người lạc quan yêu đời. Nằm ở  tầng 4 của bệnh viện, những lúc khoẻ, TH thường ra ngắm cảnh và làm thơ….  Nhưng rồi vào một ngày cuối đông, trời Huế bỗng trở lạnh và mưa lâm thâm….  Những người bạn của THải nhận được tin như sét đánh: TH đã qua đời. Thương tiếc  người bạn tài hoa ra đi khi tuổi đời vừa bước sang 50, mọi người đến viếng và đưa  nhà thơ về nơi an nghỉ cuối cùng. Đang lúc làm lễ, thì vợ TH tìm gặp nhạc sĩ Trần  Hoàn và trao cho ông một bài thơ cuối cùng mà THải đã sáng tác khi nằm viện vào  tháng 11 năm 1980. Đó chính là bài thơ: Một mùa xuân nho nhỏ.­ bài thơ cuối cùng  của THải. Nỗi thương bạn và niềm cảm xúc trào dâng mãnh liệt, nhạc sĩ Trần Hoàn  đã phổ nhạc ngay bài thơ chỉ trong vòng không đầy ba mươi phút và bài hát đó đã  được vang lên ngay trong buổi lễ tiễn đưa ấy.) b. Thể thơ 5 chữ, không ngắt nhịp trong từng câu, chia nhiều khổ, mỗi khổ từ 4 đến 6  dòng. Nhịp điệu và giọng điệu của bài có biến đổi theo mạch cảm xúc.  c. Bài thơ bắt đầu bằng những xúc cảm trực tiếp, hồn nhiên, trong trẻo trước vẻ đẹp và  sức sống của mùa xuân thiên nhiên, đất trời. Từ đó, mở rộng ra thành hình ảnh mùa  xuân của đất nước hôm nay và cả đất nước bốn ngàn năm. Từ đó mạch thơ chuyển  sang biểu hiện suy nghĩ và ước nguyện của nhà thơ được góp “mùa xuân nho nhỏ”  của mình vào mùa xuân lớn của dân tộc. Mạch thơ phát triển tự nhiên để rồi khép lại  cũng tự nhiên, đằm thắm trong một điệu dân ca xứ Huế. c. Bố cục: + Khổ 1 (gồm 6 dòng thơ): cảm xúc trước mùa xuân thiên nhiên, đất trời +Khổ 2,3: Cảm xúc về mùa xuân đất nước. + Khổ 4,5: suy nghĩ và ước nguyện của nhà thơ trước mùa xuân đất nước. + Khổ cuối: Lời ca ngợi quê hương, đất nước qua điệu dân ca xứ Huế. d. Nội dung, nghệ thuật: ­ Nội dung:  Bài thơ “mùa xuân nho nhỏ” là tiếng lòng tha thiết yêu mến và gắn bó với  đất nước, với cuộc đời; thể hiện ước nguyện chân thành của nhà thơ được cống hiến  cho đất nước, góp một “mùa xuân nho nhỏ” của mình vào mùa xuân lớn của dân tộc. ­ Nghệ thuật:
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2