intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

phân biệt đối xử. Theo quy địHỖ TRỢ THƯƠNG MẠI ĐA BIÊN 2 - CƠ CHẾ HOẠT ĐỘNG CỦA WTO - 7nh của GATS, nguyên tắc MFN được áp dụng ngay

Chia sẻ: Le Nhu | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:26

95
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Theo quy định của GATS, nguyên tắc MFN được áp dụng ngay lập tức, vô điều kiện mà mọi Thành viên GATS phải chấp nhận, nhưng có ngoại lệ. Còn nguyên tắc đối xử quốc gia không phải là nghĩa vụ chung mà là nghĩa vụ có điều kiện và được đàm phán trong quá trình gia nhập. Kết quả đàm phán về mở cửa thị trường và đối xử quốc gia được ghi nhận trong Danh mục cam kết cụ thể. Theo đó, đối với những lĩnh vực đã được ghi trong Danh mục cam kết cụ thể, mỗi...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: phân biệt đối xử. Theo quy địHỖ TRỢ THƯƠNG MẠI ĐA BIÊN 2 - CƠ CHẾ HOẠT ĐỘNG CỦA WTO - 7nh của GATS, nguyên tắc MFN được áp dụng ngay

  1. phân biệt đối xử. Theo quy định của GATS, nguyên tắc MFN được áp dụng ngay lập tức, vô điều kiện mà mọi Thành viên GATS phải chấp nhận, nhưng có ngoại lệ. Còn nguyên tắc đối xử quốc gia không phải là nghĩa vụ chung mà là nghĩa vụ có điều kiện và được đàm phán trong quá trình gia nhập. Kết quả đàm phán về mở cửa thị trường và đối xử quốc gia được ghi nhận trong Danh mục cam kết cụ thể. Theo đó, đối với những lĩnh vực đã được ghi trong Danh mục cam kết cụ thể, mỗi Thành viên phải dành cho dịch vụ và người cung cấp dịch vụ của bất kỳ Thành viên nào khác sự đãi ngộ không kém thuận lợi hơn sự đãi ngộ mà Thành viên đó đã, đang và sẽ dành cho dịch vụ và người cung cấp dịch vụ của nước mình. Sự đối xử không thoả mãn yêu cầu của nguyên tắc đối xử quốc gia là sự đối xử làm cho điều kiện cạnh tranh có lợi hơn cho dịch vụ hay người cung cấp dịch vụ trong nước so với dịch vụ hay người cung cấp dịch vụ nước ngoài. Mục đích của GATS là nhằm dỡ bỏ những hạn chế và phân biệt đối xử đối với người cung cấp dịch vụ nước ngoài, tạo điều kiện cho họ tiếp cận thị trường trong nước. Do đó, mức độ cam kết thực hiện nguyên tắc đối xử quốc gia của một nước thể hiện mức độ mở cửa thị trường dịch vụ của bản thân nước đó. Để đảm bảo cho người cung cấp dịch vụ nước ngoài được hưởng những điều kiện về cạnh tranh tương đương với người cung cấp dịch vụ trong nước, GATS quy định các Thành viên phải loại bỏ 6 loại hạn chế sau đây trong những lĩnh vực có cam kết mở cửa thị trường, dù là ở quy mô vùng hoặc trên toàn lãnh thổ: - Các hạn chế về số lượng người cung cấp dịch vụ dưới hình thức hạn ngạch, độc quyền, toàn quyền cung cấp dịch vụ hoặc yêu cầu đáp ứng nhu cầu kinh tế; - Hạn chế về tổng giá trị các giao dịch dịch vụ hoặc tài sản dưới hình thức hạn ngạch hoặc yêu cầu đáp ứng nhu cầu kinh tế; - Hạn chế số lượng các hoạt động dịch vụ hoặc số lượng dịch vụ đầu ra tính theo số lượng đơn vị dưới hình thức hạn ngạch hoặc yêu cầu đáp ứng nhu cầu kinh tế; 163
  2. - Hạn chế số lượng thể nhân có thể được tuyển dụng trong một lĩnh vực dịch vụ cụ thể hoặc một người cung cấp dịch vụ được phép tuyển dụng cần thiết hoặc trực tiếp liên quan tới việc cung cấp một dịch vụ cụ thể dưới hình thức hạn ngạch hoặc yêu cầu về nhu cầu kinh tế; - Các biện pháp hạn chế hoặc yêu cầu các hình thức pháp nhân cụ thể hoặc liên doanh thông qua đó người cung cấp dịch vụ có thể cung cấp dịch vụ; - Hạn chế về tỷ lệ vốn góp của bên nước ngoài bằng việc quy định giới hạn phần trăm tối đa cổ phần của bên nước ngoài hoặc tổng giá trị đầu tư nước ngoài tính đơn hoặc tính gộp. 4.4.3.3. Nguyên tắc minh bạch hoá hệ thống chính sách Theo GATS, việc tự do hoá thương mại dịch vụ sẽ không thể có được nếu các nhà cung cấp dịch vụ thiếu đi các thông tin cần thiết về các quy định mà họ phải tuân thủ khi tham gia vào thị trường của một nước khác. Do vậy GATS quy định rất rõ ràng về nghĩa vụ minh bạch các chính sách. Theo nguyên tắc này, tính minh bạch thể hiện ở việc đáp ứng các yêu cầu sau đây: - Tất cả các quy định, văn bản pháp lý liên quan, các hiệp định quốc tế có liên quan hoặc tác động đến thương mại dịch vụ mà các Thành viên tham gia phải được công bố, ấn hành một cách công khai, rộng rãi. - Mọi Thành viên phải có nghĩa vụ đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của bất kỳ Thành viên nào khác về những thông tin cụ thể liên quan đến việc áp dụng các quy định nêu trên. Các Thành viên phải thành lập ít nhất một cơ quan chuyên trách cung cấp thông tin này cho các Thành viên khác khi họ yêu cầu. - Tất cả các Thành viên phải có nghĩa vụ thông báo khẩn trương và ít nhất mỗi năm một lần cho Hội đồng Thương mại Dịch vụ của WTO về việc ban hành hoặc bất kỳ sửa đổi nào trong các luật, quy chế hoặc hướng dẫn hành chính có tác động cơ bản đến thương mại dịch vụ thuộc các cam kết cụ thể theo Hiệp định này. 164
  3. - Hiệp định GATS không yêu cầu các Thành viên phải cung cấp các thông tin bí mật là những thông tin nếu bị tiết lộ có thể sẽ gây ra những khó khăn cho việc thi hành pháp luật, hoặc sẽ mâu thuẫn với lợi ích công cộng, hoặc sẽ làm phương hại đến quyền lợi thương mại hợp pháp của một doanh nghiệp cụ thể, dù là doanh nghiệp nhà nước hoặc tư nhân. - Các Thành viên không được phép áp dụng những yêu cầu về chuyên môn, yêu cầu về chất lượng dịch vụ, yêu cầu về giấy phép cũng như các tiêu chuẩn kỹ thuật quá cao - mà trong chừng mực nào đó, có thể vô hiệu hóa về mặt pháp lý hoặc làm nguy hại đến việc thực hiện các cam kết cụ thể - Khi Chính phủ nước Thành viên đưa ra những quyết định hành chính có nguy cơ ảnh hưởng tới thương mại dịch vụ, họ cũng phải thiết lập những công cụ mang tính khách quan để rà soát các quyết định này nhằm đảm bảo chúng không bóp méo quá đáng các điều kiện cạnh tranh công bằng của thị trường dịch vụ nội địa. 4.4.3.4. Nguyên tắc công nhận lẫn nhau Mục đích của nguyên tắc công nhận lẫn nhau là nhằm xoá bỏ sự phân biệt đối xử trên thực tế đối với các dịch vụ và người cung cấp dịch vụ nước ngoài. GATS khuyến khích các Thành viên công nhận các thủ tục của nhau liên quan đến giáo dục, đào tạo, cấp giấy phép và các thủ tục khác cần phải có trong việc đáp ứng các yêu cầu, điều kiện cần thiết cho phép nhà cung cấp dịch vụ hoạt động trên thị trường. GATS quy định các Thành viên phải tạo ra các cơ hội ngang bằng về việc đàm phán gia nhập đối với bất cứ một Thành viên nào có quan tâm về các thoả thuận hoặc Hiệp định công nhận mà Thành viên đó đã thoả thuận hoặc ký kết với một Thành viên khác. Các thoả thuận này phải mang tính không phân biệt đối xử và không được sử dụng như là công cụ cho bảo hộ trá hình. GATS khuyến khích các Thành viên tuân thủ các chuẩn mực đã được các tổ chức quốc tế chuyên môn thừa nhận, và việc công nhận lẫn nhau phải dựa trên những tiêu chí đã được chấp thuận rộng rãi ở phạm vi quốc tế. Các Thành viên nên phối hợp chặt chẽ với các tổ chức chính phủ 165
  4. và phi chính phủ quốc tế có thẩm quyền nhằm xây dựng và thông qua các chuẩn mực quốc tế chung cho sự công nhận lẫn nhau và thực hiện các hoạt động chuyên môn thích hợp cần thiết có liên quan đến các dịch vụ. 4.4.3.5. Nguyên tắc tự do hoá từng bước thương mại dịch vụ Việc thừa nhận nguyên tắc tự do hóa từng bước trong GATS là kết quả đấu tranh của các nước đang phát triển trong đàm phán về thương mại dịch vụ tại Vòng đàm phán Uruguay. Cơ sở thực tiễn của nguyên tắc này chính là sự không đồng nhất về điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của các quốc gia. Hơn nữa, khoảng cách về trình độ phát triển, xét cả về tổng thể nền kinh tế cũng như từng lĩnh vực dịch vụ cụ thể, giữa các nước phát triển và đang phát triển là rất lớn. Vì vậy, quá trình tự do hóa thương mại dịch vụ phải được tiến hành từng bước phù hợp với thực tiễn phát triển của mỗi quốc gia. Các nước đang phát triển chiếm 4/5 số Thành viên của WTO, tuy vậy tổng giá trị giao dịch thương mại dịch vụ của các nước này còn rất khiêm tốn. Hiện nay, các nước đang phát triển đều dành sự quan tâm đặc biệt đến việc phát triển thương mại dịch vụ. Các quy định của GATS tạo điều kiện cho các nước đang phát triển ở 2 điểm sau: Thứ nhất, từng bước tự do hoá thị trường phù hợp với trình độ phát triển và mục tiêu của chính sách quốc gia của các Thành viên đang phát triển. Các nước đang phát triển không phải mở rộng thị trường nhanh chóng và ở nhiều lĩnh vực dịch vụ như các nước phát triển. Các nước này có thể mở rộng việc tiếp cận thị trường một cách dần dần, để phù hợp với tình hình phát triển và có thể quy định các điều kiện đi kèm khi mở cửa thị trường cho người cung cấp dịch vụ nước ngoài. Thứ hai, tăng cường sự tham gia của các nước đang phát triển vào thương mại dịch vụ. Những cam kết của các nước đang phát triển phải được thiết lập nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh của các lĩnh vực dịch vụ tại thị trường trong nước, tăng cường khả năng cung cấp các dịch vụ ở thị trường nước ngoài thông qua việc tiếp cận công nghệ mới, nâng cao khả năng tiếp cận các kênh phân phối, hệ thống thông tin ở nước ngoài, đặc biệt là tiếp cận thị trường trong các lĩnh vực cũng như phương thức cung cấp gắn liền với mối quan tâm xuất khẩu của họ. 166
  5. Tiến trình tự do hoá từng bước được đẩy mạnh thông qua từng vòng đàm phán, song phương và đa phương, nhiều bên hoặc đa phương theo hướng tăng mức độ chung của các cam kết cụ thể được các Thành viên đưa ra theo quy định của GATS. Các Thành viên sẽ tiến hành những vòng đàm phán liên tiếp nhằm đạt được mức độ tự do hoá ngày càng cao hơn. Các cuộc đàm phán đó sẽ hướng tới việc giảm hoặc triệt tiêu các tác động có hại đối với thương mại dịch vụ quốc tế. Tiến trình đó được tiến hành nhằm tăng lợi ích của tất cả các bên tham gia trên cơ sở cùng có lợi và đảm bảo cân bằng tổng thể giữa quyền lợi và nghĩa vụ. 4.4.3.6. Nguyên tắc liên quan đến các quy tắc trong nước Theo quy định tại Điều VI, GATS công nhận chủ quyền của các Thành viên trong việc đưa ra những quy định điều chỉnh các lĩnh vực dịch vụ trong nước và cố gắng thúc đẩy các Thành viên minh bạch các quy định, chính sách của mình. Điều IV bao gồm các loại nghĩa vụ như: một số nghĩa vụ phải được áp dụng chung cho mọi ngành dịch vụ mà không cần xem xét đến lĩnh vực dịch vụ đó có nằm trong danh mục cam kết hay không, một số nghĩa vụ khác thì chỉ áp dụng trong những lĩnh vực dịch vụ mà Thành viên đó đã cam kết. GATS cũng kêu gọi các Thành viên tiến hành đàm phán để giảm bớt các quy định về chứng nhận, giấy phép và tiêu chuẩn kỹ thuật gây cản trở thương mại dịch vụ. Điều khoản về quy tắc trong nước phải bảo đảm nguyên tắc chung là những biện pháp nội bộ phải được quản lý một cách khách quan, hợp lý và không thiên vị. Những nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài có thể phản đối các quyết định hành chính trước toà án và phải được thông báo về kết quả của việc xem xét các yêu cầu của họ. Các Thành viên phải đảm bảo rằng các thủ tục và việc xem xét các yêu cầu thực tế phải được tiến hành một cách khách quan và bình đẳng. Yêu cầu xin được cung cấp dịch vụ phải được giải quyết trong một thời hạn hợp lý. Đây là nghĩa vụ chung được áp dụng cho tất cả các lĩnh vực dịch vụ mà không cần xem xét đến lĩnh vực dịch vụ đó có nằm trong Danh mục cam kết hay không. Trong các lĩnh vực thuộc Danh mục cam kết, GATS yêu cầu các Thành viên phải đảm bảo rằng các biện pháp liên quan đến yêu cầu chất 167
  6. lượng, chuẩn mực kỹ thuật và vấn đề cấp giấy phép không được trở thành những rào cản đối với thương mại dịch vụ. 4.4.3.7. Nguyên tắc liên quan đến vấn đề độc quyền và đặc quyền cung cấp dịch vụ Các Thành viên có thể cho một số ngành dịch vụ được hưởng độc quyền và đặc quyền. Theo quy định của GATS thì điều này là hoàn toàn hợp pháp (Điều VIII). GATS không ngăn cản việc duy trì hình thức độc quyền như vậy nhưng yêu cầu các Thành viên phải đảm bảo rằng hoạt động của người cung cấp dịch vụ độc quyền phải phù hợp với các nghĩa vụ chung và nghĩa vụ đã cam kết của Thành viên đó. Có thể thấy rõ vấn đề độc quyền và đặc quyền này trong một số lĩnh vực dịch vụ ở đó tồn tại hiện tượng độc quyền tự nhiên (natural monopoly), ví dụ lĩnh vực thông tin viễn thông. Trong lĩnh vực này thường tồn tại một công ty viễn thông lớn (thường là do Nhà nước đầu tư vốn và quản lý) chiếm vị trí độc quyền trong việc cung cấp các dịch vụ cơ sở về viễn thông (cung cấp đường dây, trục thông tin hữu tuyến). Sự độc quyền này được hình thành một cách tự nhiên do không có nhà đầu tư tư nhân nào có khả năng về vốn đủ lớn để đầu tư xây dựng một đường dây điện thoại thứ hai và nếu có thì việc xây dựng một đường dây thứ hai như vậy không đem lại hiệu quả kinh tế bằng việc thuê đường dây đã có của công ty độc quyền nói trên. Trong trường hợp như vậy, GATS cho phép tồn tại sự độc quyền và đặc quyền cung cấp dịch vụ. Tuy vậy, một Thành viên cho phép độc quyền và đặc quyền trong lãnh thổ của mình đối với một ngành dịch vụ nào đó thì việc cho phép như vậy vẫn phải tuân thủ theo Điều II về nguyên tắc MFN của GATS. Nghĩa là, khi công ty có độc quyền cho phép những người của một Thành viên sử dụng mạng thông tin viễn thông của mình để cung cấp các dịch vụ có liên quan thì cũng phải cho những người cung cấp dịch vụ của các Thành viên khác được sử dụng mạng thông tin viễn thông theo nguyên tắc MFN. Nguyên tắc đối xử quốc gia cũng được áp dụng trong trường hợp này. Các Thành viên cũng có nghĩa vụ cung cấp cho các Thành viên khác theo yêu cầu của họ những thông tin liên quan đến cách thức và cấu 168
  7. trúc của độc quyền cung cấp một loại dịch vụ được phép hoạt động trên lãnh thổ của mình. 4.4.3.8. Nguyên tắc đối xử đặc biệt và khác biệt dành cho các Thành viên đang phát triển và/hoặc đang trong quá trình chuyển đổi Trước WTO, GATT đã có những ưu đãi nhất định dành cho các Thành viên đang phát triển thông qua hệ thống các đối xử đặc biệt và khác biệt (S&D). Tuy nhiên, chỉ đến khi WTO ra đời, sự đối xử đặc biệt và khác biệt dành cho các Thành viên đang phát triển mới được khẳng định là nguyên tắc cơ bản điều chỉnh hệ thống thương mại đa phương. Nguyên tắc này không chỉ kế thừa những quy định ưu đãi của GATT về thương mại hàng hóa dành cho các nước đang phát triển, mà còn mở rộng áp dụng cho cả thương mại dịch vụ, đầu tư và quyền sở hữu trí tuệ. Đây là thành quả đấu tranh liên tục của các nước đang phát triển qua những vòng đàm phán trong khuôn khổ GATT, đặc biệt là Vòng đàm phán Uruguay. Bởi vì, một trong những nguyên tắc cơ bản trong quan hệ quốc tế nói chung, thương mại quốc tế nói riêng là bình đẳng và cùng có lợi. Tuy nhiên, trên thực tế, ưu thế trong thương mại quốc tế thuộc về những nước công nghiệp phát triển với tiềm lực lớn về công nghệ, tài chính. Trong khi đó, bất lợi thuộc về các nước đang phát triển do khoảng cách lớn về trình độ phát triển công nghệ và khả năng hạn hẹp về tài chính so với các nước phát triển. Vì vậy, nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt đối xử trong thương mại dịch vụ chỉ có ý nghĩa đối với các nước đang phát triển khi họ được hưởng những ưu đãi nhất định so với các nước phát triển. Theo quy định của GATS, nguyên tắc đối xử đặc biệt và khác biệt dành cho các Thành viên đang phát triển thể hiện ở những nội dung sau đây: Thứ nhất, những cam kết cụ thể đạt được thông qua đàm phán phải bảo đảm cho các Thành viên là những nước đang phát triển có thể tăng cường được năng lực cạnh tranh của các ngành dịch vụ của mình. Các nước phát triển phải tạo điều kiện nâng cao khả năng tiếp cận các kênh phân phối và hệ thống thông tin cho các nước đang phát triển, đồng thời phải mở cửa thị trường trong các lĩnh vực và phương thức cung cấp gắn liền với mối quan tâm xuất khẩu của các Thành viên đang phát triển. 169
  8. Thứ hai, về đàm phán mở cửa thị trường dịch vụ, những nước phát triển phải áp dụng phương pháp loại trừ (không mở cửa lĩnh vực nào thì phải liệt kê trong Danh mục cam kết cụ thể và những lĩnh vực còn lại đều phải mở cửa), nhưng các nước đang phát triển được áp dụng phương pháp “chọn-cho”. Nghĩa là mở cửa lĩnh vực nào thì liệt kê lĩnh vực đó trong Danh mục cam kết cụ thể, các lĩnh vực không liệt kê là những lĩnh vực không cam kết. Hơn nữa, các Thành viên đang phát triển được hưởng sự linh hoạt thích đáng trong việc mở cửa thị trường với ít lĩnh vực dịch vụ hơn, tự do hóa ít loại hình giao dịch dịch vụ hơn. Tuy nhiên, việc chọn lĩnh vực dịch vụ để cam kết không được thực hiện một cách tuỳ ý mà phải thông qua đàm phán. Thứ ba, trong thời hạn 2 năm kể từ ngày Hiệp định WTO có hiệu lực, các Thành viên phát triển và các Thành viên khác, tùy theo khả năng, sẽ lập những điểm liên lạc để tạo điều kiện cho những người cung cấp dịch vụ của các Thành viên đang phát triển tiếp cận thông tin về thị trường của những nước đó. Việc ghi nhận sự đối xử ưu đãi dành cho các nước đang phát triển, trong các hiệp định của WTO nói chung và trong GATS nói riêng, thể hiện sự tiến bộ trong quan hệ thương mại quốc tế hiện nay. Tuy nhiên, phần lớn những ưu đãi được quy định chỉ mang tính định hướng, thiếu tính cụ thể và khả thi. Chẳng hạn như Điều XIX của GATS quy định: “dành sự linh hoạt thích đáng cho các Thành viên đang phát triển trong việc mở cửa thị trường với ít lĩnh vực hơn, tự do hóa ít loại hình giao dịch hơn..”. . Những ưu đãi nhìn chung vẫn chưa phản ánh đúng khoảng cách lớn về trình độ phát triển giữa các Thành viên phát triển và đang phát triển. Ví dụ, Hiệp định Dịch vụ viễn thông cơ bản cho phép các nước có thu nhập thấp kéo dài thêm 6 năm so với các nước phát triển trong việc mở cửa thị trường dịch vụ viễn thông, nhưng thực tế các nước đó lạc hậu hơn các nước phát triển trong lĩnh vực này từ 20 đến 30 năm. 4.4.3.9. Nguyên tắc liên quan đến thanh toán và chuyển tiền quốc tế Theo quy định của Điều XI GATS, GATS thừa nhận việc tự do hoá thực tiễn các giao dịch kinh tế nhưng đòi hỏi phải có kỷ luật được áp 170
  9. dụng cho việc di chuyển tư bản. Do vậy, GATS quy định các Thành viên phải cho phép thực hiện "việc chuyển tiền và thanh toán quốc tế liên quan đến các giao dịch hàng ngày có quan hệ với các cam kết đặc biệt". Quy định này nhằm ngăn chặn tình trạng các cam kết về giao dịch trong một khu vực bị ảnh hưởng xấu bởi các hạn chế về thanh toán và chuyển tiền gần với việc cung cấp dịch vụ. Những hạn chế này không thể được duy trì hoặc đưa vào Danh sách các cam kết. 4.4.4. Các ngoại lệ MFN trong thương mại dịch vụ Như đã phân tích ở trên, mọi Thành viên của GATS, không phụ thuộc vào các danh mục cam kết cụ thể, đều phải dành đối xử MFN vô điều kiện cho mọi lĩnh vực dịch vụ, trừ những ngoại lệ MFN đã được đưa vào danh mục cam kết. Điều này có nghĩa là GATS cho phép các Thành viên của mình được duy trì những ngoại lệ về MFN, tức là được dành cho một số Thành viên khác những ưu đãi về dịch vụ lớn hơn, nhiều hơn những ưu đãi dành cho các Thành viên còn lại (xem hộp 4.3). Hộp 4.3. GATS. Những ngoại lệ đối với Quy tắc tối huệ quốc Mục tiêu của các nước trong việc tạo ra những ngoại lệ trong quy tắc MFN là duy trì chế độ ưu đãi cho một số nước trong lĩnh vực thương mại dịch vụ trong khuôn khổ hợp tác khu vực hoặc trong khuôn khổ các thỏa thuận khác. Do vậy mà các nước Bắc Âu đã miễn trừ các biện pháp thúc đẩy hợp tác Bắc Âu khỏi nghĩa vụ MFN. Các biện pháp này bao gồm việc bảo lãnh tín dụng cho các dự án đầu tư của Bắc Âu và hỗ trợ tài chính cho các công ty có xuất xứ Bắc Âu trong việc sử dụng công nghệ môi trường. Bằng việc tạo ngoại lệ trong quy tắc MFN, Liên minh Châu Âu đã đảm bảo rằng các lợi ích của những thỏa thuận đặc biệt mà nước Thành viên của Liên minh Châu Âu đạt được với một số nước nào đó* không nghiễm nhiên được áp dụng cho các nước khác. Những thỏa thuận đó quy định cấp phép lao động tạm thời cho các tự nhiên nhân của các công ty này* dựa trên cơ sở các hợp đồng giữa một công ty thuộc một quốc gia EU và người cung cấp dịch vụ tại các nước đó trong các lĩnh vực dịch vụ như xây dựng, khách sạn và nhà hàng. 171
  10. Một số nước có chế độ tự do nhập khẩu đã áp dụng ngoại lệ trong quy tắc MFN trong các khu vực như dịch vụ tài chính và hàng hải. Mục tiêu của những nước này là duy trì lợi thế đàm phán mở cửa với những nước có chế độ nhập khẩu chặt chẽ hơn. Trong khi đàm phán sau Vòng Urugoay, một số nước trong số này đã bỏ một số ngoại lệ trong khu vực tài chính. Một điều đáng chú ý là các Thành viên WTO được phép thực hiện quyền duy trì ngoại lệ đối với quy tắc MFN trước khi Hiệp định GATS có hiệu lực. Tuy nhiên, đối với những ngành còn tiếp tục phải đàm phán sau Vòng Urugoay (ví dụ dịch vụ tài chính và viễn thông), thì các nước có thể đòi hỏi được áp dụng ngoại lệ đối với quy tắc MFN trong khi đàm phán. * Thuộc Trung, Đông và Đông Nam châu Âu (bao gồm cả Liên bang Nga, Ukraina và Georgia) và thuộc lưu vực Địa Trung Hải. Tuy nhiên, GATS cũng quy định rằng những ngoại lệ này phải đưa ra trước khi WTO có hiệu lực và được tồn tại không quá 10 năm, phải được rà soát trong quá trình thực hiện. Các ngoại lệ này phải được cụ thể hóa và công bố trước khi Vòng đàm phán Uruguay kết thúc. Những ngoại lệ đưa ra sau khi WTO có hiệu lực thì phải được 3/4 số Thành viên đồng ý. Những ngoại lệ kéo dài hơn năm năm sẽ được Hội đồng Thương mại Dịch vụ rà soát. Danh mục ngoại lệ MFN do các Thành viên đệ trình phải chỉ rõ ngoại lệ dành cho Thành viên nào, trong thời gian bao lâu và áp dụng đối với những biện pháp gì. Danh mục ngoại lệ MFN không phức tạp. Mỗi Thành viên cần cung cấp các thông tin sau: - Một mô tả về lĩnh vực hoặc các lĩnh vực ngoại lệ MFN; - Một mô tả về biện pháp ngoại lệ và trình bày tại sao biện pháp đó không nhất quán với Điều II của GATS; - Các quốc gia chịu ảnh hưởng của ngoại lệ này; - Thời gian ngoại lệ dự kiến; 172
  11. - Các điều kiện dẫn đến việc phải áp dụng biện pháp ngoại lệ MFN. 4.4.5. Cấu trúc của Bản cam kết dịch vụ theo WTO Bản cam kết về dịch vụ của mỗi Thành viên của WTO thường có cấu trúc như sau (xem bảng 4.1): Bảng 4.1. Cấu trúc của một Bản cam kết dịch vụ Phương thức cung cấp: (1) Cung cấp qua biên giới (2) Tiêu dùng ở nước ngoài (3) Hiện diện thương mại (4) Hiện diện của thể nhân Hạn chế tiếp cận Cam kết bổ Ngành và phân Hạn chế đối xử ngành quốc gia sung thị trường I. CAM KẾT CHUNG Tất cả các ngành và phân ngành trong biểu cam kết II. CAM KẾT CỤ THỂ CHO TỪNG NGÀNH 1. Các dịch vụ kinh doanh A. Dịch vụ chuyên môn (b). Dịch vụ kế (1) Không hạn chế (1) Không hạn chế toán, kiếm toán (2) Không hạn chế (2) Không hạn chế và ghi sổ kế toán (3) Không hạn chế (3) Không hạn chế (CPC 862) (4) Chưa cam kết (4) Chưa cam kết Nguồn: Ban Công tác về việc gia nhập WTO của Việt Nam. Biểu CLX-Việt Nam Phần II. Biểu cam kết cụ thể về dịch vụ. WT/ACC/VNM/Add.2 (ngày 27/10/2006), tr.101 Nhìn từ bảng 4.1, có thể thấy rõ cấu trúc của một Bản cam kết dịch vụ gồm có 4 cột ngang là phương thức cung cấp, ngành và phân ngành, cam kết chung và cam kết cụ thể cho từng ngành. Có bốn cột dọc là ngành và phân ngành, hạn chế tiếp cận thị trường, hạn chế về đối xử quốc gia và cam kết bổ sung. Trong thực tế, ở Bản cam kết dịch vụ của 173
  12. một số nước (ví dụ của Việt Nam), cột thứ hai được bỏ đi và mỗi phương thức cung cấp dịch vụ được thể hiện bằng các con số (1), (2), (3), (4) đặt ngay trong hai cột về các hạn chế. Cũng từ bảng 4.1 nói trên, có thể thấy Thành viên WTO thường đưa ra các cam kết chung và các cam kết cụ thể. - Các cam kết chung (còn gọi là cam kết sàn, cam kết nền) là những cam kết được áp dụng cho tất cả hoặc hầu hết các ngành dịch vụ sẽ được liệt kê ở phần các cam kết cụ thể. Cam kết chung có thể được hiểu là các cam kết tối thiểu, nghĩa là nếu ở phần các cam kết cụ thể không nêu yêu cầu gì thêm thì ít nhất các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài cũng sẽ được hưởng đãi ngộ như đã nêu ở phần cam kết chung. - Các cam kết cụ thể là những cam kết chỉ áp dụng riêng cho từng ngành dịch vụ. Tại mỗi ngành dịch vụ, các cam kết cũng thể hiện thông qua bốn phương thức cung cấp dịch vụ. Tùy đặc thù của từng ngành dịch vụ mà nội dung cam kết ở mỗi ngành có thể rất khác nhau. Ví dụ, trong Bản cam kết dịch vụ của Việt Nam quy định, nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài muốn thành lập liên doanh trong lĩnh vực dịch vụ hỗ trợ khai thác mỏ chỉ được phép góp vốn ở mức không quá 49%; Sau 3 năm kể từ ngày Việt Nam gia nhập WTO, mức vốn của bên nước ngoài vào liên doanh được phép là 51% và 2 năm sau đó mới cho phép thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Trong khi đó, đối với dịch vụ xây dựng nhà cao tầng, không có hạn chế nào nếu nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài muốn thành lập liên doanh trong lĩnh vực này ở Việt Nam. 4.5. THÁCH THỨC CỦA VIỆC MỞ RỘNG GATS TRONG VÀ HẬU DOHA 4.5.1. Vòng Doha và vấn đề thương mại dịch vụ 4.5.1.1. Đặt vấn đề Tại hội nghị Doha, các Bộ trưởng WTO đã quyết định Vòng đàm phán mới (Vòng Doha) sẽ được triển khai có kế thừa kết quả đàm phán dịch vụ từ Vòng Uruguay và từ năm 2000. 174
  13. Văn bản chính thức hướng dẫn đàm phán về thương mại dịch vụ do Hội đồng Thương mại dịch vụ thông qua trong tháng 03/2001 đã cụ thể hóa mục tiêu, phạm vi và phương thức đàm phán tại Vòng Doha về thương mại dịch vụ. Cụ thể: - Mục tiêu: Đàm phán thương mại dịch vụ trong khuôn khổ cơ cấu hiện tại của GATS. - Nguyên tắc: Tự do hóa thương mại dịch vụ phải tính đến trình độ phát triển của từng Thành viên, có sự xem xét thỏa đáng tới nhu cầu phát triển các ngành dịch vụ vừa và nhỏ. Các Thành viên đang phát triển, đặc biệt là các Thành viên kém phát triển nhất được phép cam kết tự do hóa thương mại dịch vụ với mức độ thấp hơn. - Phạm vi và nội dung: Các Thành viên sẽ đàm phán: (i) về tất cả các ngành dịch vụ trong cả bốn phương thức cung cấp; (ii) các ngoại lệ MFN được công bố từ Vòng đàm phán Uruguay hoặc sau khi gia nhập; (iii) các quy định chưa hoàn thiện của GATS về tự vệ, trợ cấp, mua sắm chính phủ và các rào cản khác đối với thương mại dịch vụ. - Phương thức đàm phán: Tất cả các Thành viên đều được quyền tham gia đàm phán. Lịch trình cam kết hiện tại của từng Thành viên được coi là mức khởi điểm để đàm phán. Các Thành viên đang phát triển sẽ được nhận hỗ trợ kỹ thuật để tham gia có hiệu quả vào quá trình tự do hóa thương mại dịch vụ. Phương thức đàm phán là yêu cầu – chào (Request – Offer). Như vậy, vấn đề quan tâm hàng đầu của các Thành viên WTO trong Vòng đàm phán Doha về thương mại dịch vụ là vấn đề mở cửa thị trường. 4.5.1.2. Những bế tắc và nguyên nhân: Cho đến nay, các cuộc thảo luận tại Hội đồng Thương mại dịch vụ vẫn chưa thống nhất được phương pháp ghi nhận kết quả của việc tự do hóa tự nguyện trong khi đây là điều kiện tiên quyết cho quá trình đàm phán sắp tới. Các Thành viên phát triển muốn mở rộng phạm vi và mức độ cam kết nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của ngành dịch vụ ngày càng chiếm 175
  14. tỷ trọng lớn trong nền kinh tế của họ. Trong khi đó, các Thành viên đang phát triển ở châu Á (trừ Ấn Độ và Singapore) không ủng hộ việc mở rộng cam kết về tiếp cận thị trường dịch vụ. ASEAN và Braxin cũng phản đối việc mở cửa hơn nữa thị trường dịch vụ tài chính nhằm quản lý chặt chẽ các giao dịch vốn. Về khung thời gian, Hội nghị Bộ trưởng của WTO đã xác định thời gian cụ thể cho từng giai đoạn đàm phán dịch vụ. Cụ thể, hạn cuối cùng để các Thành viên GATS gửi yêu cầu đàm phán được quy định là tháng 06/2002 và thời hạn cuối cùng cho việc nộp bản chào ban đầu là tháng 03/2003. Tuy nhiên, các khung thời gian này đều bị các Thành viên phớt lờ, đã nhiều lần bị trì hoãn và cho đến nay vẫn chưa đạt được kết quả. Theo số liệu của Ban Thư ký WTO, cho đến nay mới chỉ có khoảng 69 Thành viên đưa ra bản chào ban đầu. Điều này cho thấy tiến trình đàm phán dịch vụ tiến triển rất chậm chạp. Nguyên nhân là do các nước đang phát triển gặp khó khăn trong việc đánh giá tác động của tự do hóa trong một số ngành dịch vụ đối với nền kinh tế của mình và vì vậy họ trở nên thận trọng hơn khi đưa ra bản chào dịch vụ. Ngoài ra, chất lượng các bản chào đưa ra cũng không đồng đều. Để đánh giá chất lượng cam kết về dịch vụ trong Vòng đàm phán Doha, Hoa Kỳ đã đưa ra phương pháp cho điểm, theo đó các cam kết tự do hóa hoàn toàn khi mở cửa thị trường dịch vụ sẽ được điểm tối đa là 100 điểm. Các cam kết tự do hóa kèm một số hạn chế được cho điểm thấp hơn. Còn các trường hợp không đưa ra cam kết thì được điểm 0. Theo thang điểm này, hầu hết các nước đang phát triển chỉ được từ 15 – 20 điểm. EU và Hoa Kỳ được 62 điểm và cao nhất là Nauy với 63 điểm. Các nước đang phát triển, điển hình là Ấn Độ, Trung Quốc, Braxin v.v… kêu gọi đàm phán tích cực theo phương thức 4 – phương thức hiện diện của thể nhân – và yêu cầu các Thành viên phát triển không nên gắn phương thức 4 với phương thức 3 – phương thức hiện diện thương mại; không nên gắn với hạn chế về thị thực, hạn chế về công nhận bằng cấp v.v… Tuy nhiên, cam kết của hầu hết các nước phát triển 176
  15. vẫn gắn hiện diện của thể nhân (phương thức 4) với việc thiết lập hiện diện thương mại (phương thức 3). Các Thành viên WTO rất thất vọng với các kết quả đàm phán về thương mại dịch vụ nêu trên. Trong báo cáo gửi lên Ủy ban đàm phán về thương mại dịch vụ tháng 07/2005, ông Chủ tịch nhóm phụ trách về đàm phán dịch vụ của WTO đã nhấn mạnh: “Mặc dù chất lượng một số bản chào đã được cải thiện nhưng phải thừa nhận rằng mức độ cam kết mà các Thành viên đưa ra là chưa đạt yêu cầu…”. Chính lời nhận xét của ông Chủ tịch đã buộc các Thành viên GATS suy nghĩ để tìm ra phương thức đàm phán mới nhằm mở ra triển vọng cho việc giải quyết những bế tắc nêu trên. 4.5.1.3. Triển vọng giải quyết bế tắc Tại Hội nghị Hồng Kông (tháng 12/2005), các Thành viên đã thông qua Phụ lục về đàm phán dịch vụ trong đó đưa ra phương thức đàm phán nhiều bên để thúc đẩy đàm phán dịch vụ. Phương thức đàm phán nhiều bên tập trung vào hai khía cạnh: - Cách thứ nhất là liệt kê các mục tiêu và chỉ số cần phải đạt được trong đàm phán. - Cách thứ hai là kêu gọi các Thành viên cam kết ràng buộc mức tự do hóa hiện tại đối với phương thức 1, phương thức 2 và nâng mức góp vốn nước ngoài cũng như cho phép các hình thức hiện diện thương mại linh hoạt hơn đồng thời cải thiện cam kết tại phương thức 4. Phương thức đàm phán nhiều bên do EU đưa ra, về thực chất là đi ngược lại với các quy định hiện hành trong Hiệp định GATS. Nó đã bị chỉ trích rất nhiều ngay trước Hội nghị Hồng Kông. Tuy nhiên, ngay sau khi Hội nghị Hồng Kông kết thúc, các Thành viên đã tổ chức các phiên đàm phán dịch vụ theo phương thức đàm phán đã thống nhất nói trên và đã thu được một số kết quả nhất định. Phương thức đàm phán nhiều bên này được coi là phương thức tương đối hợp lý để thúc đẩy đàm phán dịch vụ. Tuy nhiên, một điều đáng tiếc là kết quả đàm phán dịch vụ đang có triển vọng như vậy thì lại bị đình trệ do Vòng Doha bế tắc. 177
  16. Những thất bại và bế tắc liên tiếp trong các cuộc đàm phán Doha đã khiến ông Pascal Lamy – Tổng giám đốc WTO – phải đưa ra quyết định ngừng đàm phán ở tất cả các chủ đề với lời nhắc nhở: “Chỉ khi các nước có quyết tâm chính trị cao, Doha mới được khơi thông. Tất nhiên là không phải quyết tâm như hiện nay. Trong cuộc chơi này, hiện không có người thắng, người thua. Tất cả chúng ta đều là người thua”. Lời nhắc nhở này của Tổng giám đốc WTO có thể sẽ làm cho các Thành viên phải thật sự nỗ lực hơn và từ đó, có thể sẽ mở ra triển vọng cho việc giải quyết các bế tắc trong Vòng Doha về mọi lĩnh vực nói chung và trong lĩnh vực thương mại dịch vụ nói riêng. 4.5.2. Thách thức của việc mở rộng GATS trong Vòng Doha Phương thức đàm phán nhiều bên với cách thức nêu trên thực chất là việc mở rộng GATS trong Vòng Doha. Phương thức đàm phán về thương mại dịch vụ như vậy hiện đang gặp nhiều thách thức. Thách thức đó là: - Sự không thống nhất được về quan điểm giữa các nước đang phát triển và các nước phát triển về phương thức 3 và phương thức 4. - Các Thành viên dường như đang muốn giữ lập trường nghe ngóng và đặc biệt muốn chờ đợi kết quả của đàm phán về nông nghiệp rồi mới xúc tiến đàm phán về dịch vụ. Các quốc gia đang phát triển tuyên bố “đơn giản là không có động lực cho các Thành viên đang phát triển trong việc đào sâu thêm những bản chào cam kết tự do hóa dịch vụ nếu không có những tiến triển có ý nghĩa trong các lĩnh vực đàm phán then chốt”. - Quan điểm mở cửa thị trường dịch vụ giữa các nước phát triển cũng chưa có sự thống nhất: EU yêu cầu Hoa Kỳ cho tiếp cận thị trường vận tải đường biển – lĩnh vực được bảo hộ rất cao tại Hoa Kỳ. Còn Hoa Kỳ lại nhằm vào ngành dịch vụ nghe nhìn của EU. - Các Thành viên đang muốn gắn vấn đề đàm phán về mở cửa thị trường dịch vụ với vấn đề đàm phán quy tắc liên quan đến trợ cấp, cơ chế tự vệ đặc biệt, mua sắm chính phủ và các quy định trong nước. 178
  17. Trên đây là những yêu cầu đặt ra trong đàm phán về thương mại dịch vụ. Đây cũng là những thách thức rất lớn mà các Thành viên đàm phán sẽ phải đối mặt trong thời gian tới. 4.5.3. Vòng Doha về thương mại dịch vụ và Việt Nam Việt Nam đã gia nhập WTO vào ngày 07/11/2006, đã chấp nhận tất cả các hiệp định đa phương của WTO, trong đó có Hiệp định GATS. Từ ngày 11/01/2007, Việt Nam trở thành Thành viên chính thức của WTO và cũng từ ngày 12/01/2007, Việt Nam phải thực hiện các cam kết trong GATS về mở cửa thị trường dịch vụ. Các cam kết về thương mại dịch vụ của Việt Nam trong WTO/GATS có thể được tóm lược ở hộp 4.4. Các cam kết về lĩnh vực dịch vụ được đàm phán trong khi Vòng Doha về thương mại dịch vụ vẫn đang tiếp diễn. Hiện nay, Vòng Doha đang bế tắc, vì vậy, việc chấp nhận thêm các kết quả mới của Vòng Doha chưa có tác dụng đối với Việt Nam. Tuy nhiên, nhìn về tương lai, khi Vòng Doha kết thúc và đạt được những kết quả như đã đề ra thì tiến trình tự do hóa thương mại dịch vụ trong khuôn khổ của WTO sẽ có những bước đột phá. Điều này tất nhiên sẽ đem đến nhiều cơ hội và cũng đặt ra không ít thách thức cho Việt Nam. Cơ hội rất dễ nhận thấy đối với Việt Nam là lĩnh vực xuất khẩu lao động sẽ có nhiều triển vọng vì phương thức 4 chắc chắn sẽ đạt được nhiều kết quả khả quan hơn khi Vòng Doha kết thúc. Cơ hội tiếp theo là môi trường cạnh tranh trong lĩnh vực thương mại dịch vụ sẽ được cải thiện theo hướng tích cực hơn do sức ép của việc phải tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật và chính sách thương mại dịch vụ theo yêu cầu của WTO/GATS. Hộp 4.4. Tóm tắt các cam kết của Việt Nam theo GATS Việt Nam cam kết mở cửa 11 ngành với khoảng 110 phân ngành dịch vụ (so với 8/65 trong Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ). Cụ thể như sau: 1. Cam kết chung: - Công ty nước ngoài không được hiện diện tại Việt Nam dưới hình thức chi nhánh, trừ phi được Chính phủ Việt Nam cho phép trong từng ngành cụ thể. - Công ty nước ngoài được phép đưa cán bộ quản lý của họ vào làm việc tại Việt Nam nhưng ít nhất 20% cán bộ quản lý của công ty phải là người Việt Nam. 179
  18. - Với các ngành đã được đưa vào Biểu cam kết dịch vụ, tổ chức, cá nhân nước ngoài được mua cổ phần trong các doanh nghiệp Việt Nam với tỷ lệ phù hợp với mức độ mở cửa thị trường của ngành đó. Riêng đối với dịch vụ ngân hàng, nhà đầu tư nước ngoài chỉ được mua 30% vốn điều lệ của ngân hàng Việt Nam 2. Dịch vụ ngân hàng: - Cho phép thành lập ngân hàng 100% vốn nước ngoài không muộn hơn 01/04/2007 - Ngân hàng nước ngoài được thành lập chi nhánh tại Việt Nam nhưng chi nhánh đó không được mở chi nhánh phụ. - Phía nước ngoài chỉ được mua không quá 30% vốn điều lệ của ngân hàng Việt Nam 3. Dịch vụ bảo hiểm: - Mức độ cam kết như trong Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ - Sau 5 năm kể từ ngày gia nhập, được phép thành lập chi nhánh bảo hiểm phi nhân thọ. 4. Dịch vụ chứng khoán: Sau 5 năm: cho phép thành lập công ty chứng khoán 100% vốn nước ngoài và chi nhánh tại Việt Nam; 5. Dịch vụ phân phối: - Từ 01/01/2009: Cho phép thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài; sau 3 năm: mở cửa thị trường các sản phẩm nhạy cảm như sắt thép, xi măng, phân bón… - Không mở cửa thị trường phân phối xăng dầu, dược phẩm, sách báo, tạp chí, băng hình, thuốc lá, gạo, đường, kim loại quý. 6. Dịch vụ viễn thông: - Cho phép thành lập liên doanh đa số vốn nước ngoài để cung cấp dịch vụ viễn thông không gắn với hạ tầng mạng (phải thuê mạng do doanh nghiệp Việt Nam nắm quyền kiểm soát); - Hạn chế dịch vụ viễn thông có gắn với hạ tầng mạng: Chỉ cho phép các doanh nghiệp mà nhà nước nắm đa số vốn mới được đầu tư hạ tầng mạng, nước ngoài chỉ được góp vốn đến 49% và cũng chỉ được liên doanh với đối tác Việt Nam đã được cấp giấy phép. 7. Dịch vụ hỗ trợ khai thác dầu khí: Sau 5 năm doanh nghiệp nước ngoài được phép thành lập công ty 100% vốn nước ngoài trong lĩnh vực dịch vụ hỗ trợ khai thác dầu khí. 8. Dịch vụ in ấn và xuất bản: Không cam kết mở cửa. 180
  19. 9. Dịch vụ du lịch, kế toán, pháp lý, xây dựng, vận tải, giáo dục...: Về cơ bản là như Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ http://www.vnexpress.net/Vietnam/Kinh-doanh/Duong-vao- WTO/2006/11/3B9F0224/ Bên cạnh đó, thách thức cũng sẽ là không ít. Những thách thức đó là: - Môi trường cạnh tranh sẽ trở nên gay gắt hơn và các nhà cung cấp dịch vụ của Việt Nam sẽ có thể khó cạnh tranh với các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài nếu không nỗ lực nâng cao năng lực cạnh tranh toàn diện của mình. - Thách thức từ việc phải có giải pháp kịp thời để giảm thiểu tác động tiêu cực khi mở cửa thị trường dịch vụ. Công tác đào tạo, phổ biến kiến thức về các cam kết của Việt Nam trong WTO cũng sẽ phải rất khẩn trương và đột phá, nếu không sự trì trệ, bàng quan trước nghĩa vụ của mỗi doanh nghiệp, mỗi cơ quan công quyền và của mỗi người dân Việt Nam trước những công việc phải làm để mở cửa thị trường dịch vụ và để ứng phó với những tác động tiêu cực do mở cửa thị trường dịch vụ sẽ là lực cản lớn nhất sau khi Việt Nam gia nhập WTO và chấp nhận GATS. - Thách thức từ công tác thống kê thương mại dịch vụ. Lâu nay, các số liệu thống kê trong lĩnh vực dịch vụ chủ yếu là thống kê về các lĩnh vực dịch vụ thương mại (như vận chuyển, du lịch, môi giới, ủy thác…). Trong khi đó, Hiệp định GATS yêu cầu phải có số liệu thống kê cho 11 ngành dịch vụ với 155 phân ngành. Có nhiều ngành dịch vụ được WTO đánh giá là ngành dịch vụ có giá trị thương mại cao như xây dựng, kiểm toán, phân phối v.v… thì lại được cơ quan thống kê của Việt Nam xếp vào lĩnh vực sản xuất công nghiệp. Điều này sẽ gây khó khăn cho việc đánh giá tác động của thương mại dịch vụ đối với sự phát triển kinh tế nói chung và sự đóng góp của khu vực dịch vụ cho GDP nói riêng. Và từ đó cũng khó có thể thấy được một cách đầy đủ và khách quan những tác động, kể cả tác động tích cực lẫn tác động tiêu cực, của việc Việt Nam gia nhập WTO, mở cửa thị trường dịch vụ. Vì vậy, công tác thống kê của Việt Nam phải đổi mới một cách toàn diện. Với thực tế lâu nay về trang thiết bị cũng như nguồn nhân lực của ngành thống kê, đây thật sự là một thách thức không kém phần nan giải. 181
  20. Chương V HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI NHIỀU BÊN PSG.TS. Mai Hồng Quỳ Trường Đại học Luật T.P Hồ Chí Minh 5.1. CÁC HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI NHIỀU BÊN VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ 5.1.1. Lịch sử Trên nguyên tắc, các Thành viên WTO tham gia tất cả các hiệp định WTO. Tuy nhiên, sau Vòng Đàm phán Uruguay còn tồn tại bốn Hiệp định mà chỉ có một nhóm các nước tham gia. Các hiệp định này đã được đàm phán từ Vòng Đàm phán Tokyko, và được gọi là “các hiệp định Thương mại Nhiều bên”. Tất cả các hiệp định khác đều đã trở thành các hiệp định đa phương vào thời điểm thành lập WTO năm 1995 (theo đó, tất cả các Thành viên WTO đều có nghĩa vụ thi hành). Bốn Hiệp định Nhiều bên đó là: • Hiệp định mua sắm máy bay dân dụng; • Hiệp định về mua sắm của Chính phủ; • Hiệp định về sản phẩm sữa; và • Hiệp định về các sản phẩm thịt bò 5.1.2. Định nghĩa 5.1.2.1. Khái niệm “Hiệp định nhiều bên” Khái niệm “Hiệp định nhiều bên” (plurilateral agreement) được sử dụng lần đầu tiên vào thời kỳ của Vòng Đàm phán Uruguay. Mục đích sử dụng khái niệm này là nhằm phân biệt với khái niệm Hiệp định Thương mại đa phương, vốn là các thoả thuận như đầu tư, nông nghiệp, dệt may v.v… như đã đề cập ở các Chương trước. Mục đích của các hiệp định Thương mại nhiều bên là tạo điều kiện để phát triển kinh tế trong 182
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2