A, ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
Tòa án công lý quốc tế (tiếng Anh: International Court of Justice , sau đây gọi tắt là <br />
ICJ) là một trong các thiết chế của Tòa án quốc tế, giống như các cơ quan tài phán <br />
khác, ICJ có chức năng giải quyết các tranh chấp quốc tế. Hơn nữa, ngoài chức năng <br />
ấy, ICJ còn có vai trò tư vấn. Hơn nữa phán quyết của ICJ còn có vai trò quan trọng vì <br />
đó là một trong các nguồn bổ trợ của Luật quốc tế. Và để làm rõ phần nào vai trò ấy <br />
của phán quyết, tại bài viết này, em xin chứng minh Phán quyết của tòa án công lý <br />
quốc tế có ý nghĩa quan trọng trong quá trình hình thành cũng như viện dẫn áp <br />
dụng quy phạm điều ước và quy phạm tập quán.<br />
B, GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ<br />
I, SƠ LƯỢC VỀ TÒA ÁN CÔNG LÝ QUỐC TẾ (ICJ) VÀ PHÁN QUYẾT CỦA <br />
TÒA.<br />
1, Tòa án công lý quốc tế<br />
ICJ được thành lập và hoạt động dựa trên cơ sở của Hiến chương Liên hợp <br />
quốc (LHQ) và Quy chế Tòa án công lý quốc tế. ICJ gồm 15 thẩm phán có các quốc <br />
tịch khác nhau. Thẩm phán của ICJ được đại hội đồng và Hội đồng bảo an LHQ bầu <br />
với nhiệm kì 9 năm và cứ mỗi 3 năm bầu lại 1/3 số thẩm phán. Bên cạnh các Thẩm <br />
phán, khi viên tòa mở ra, các bên tranh chấp có thể lựa chọn thẩm phán ad hoc – là <br />
thẩm phán do một hoặc các bên tranh chấp không có thẩm phán mang quốc tịch nước <br />
mình trong thành phần của tòa đề cử tham gia hội đồng xét xử. Ngoài ra, ICJ còn có <br />
các phụ thẩm có thể được tòa lựa chọn hoặc theo yêu cầu của các bên tranh chấp <br />
tham gia, Ban thư kícơ quan hành chính thường trực của tòa và các nhân viên.<br />
Về chức năng, ICJ có hai chức năng chính là giải quyết tranh chấp và đưa ra kết luận <br />
tư vấn, cụ thể:<br />
Chức năng giải quyết tranh chấp: ICJ là cơ quan có chức năng giải quyết tranh <br />
chấp phát sinh giữa các quốc gia thành viên của LHQ. Các quốc gia không phải là <br />
<br />
1<br />
thành viên của LHQ nhưng muốn tham gia Quy chế ICJ và đưa tranh chấp ra tòa thì <br />
phải thỏa mãn những điều kiện do Đại hội đồng quyết định trong từng trường hợp <br />
cụ thể theo kiến nghị của Hội đồng bảo an. Thẩm quyền giải quyết các tranh chấp <br />
giữa các quốc gia của ICJ không phải là thẩm quyền đương nhiên mà phải dựa trên <br />
sự đồng ý rõ ràng của các bên tranh chấp. Thẩm quyền ấy có thể được xác lập theo <br />
ba phương thức là thẩm quyền theo từng vụ việc, thẩm quyền trong các điều ước <br />
quốc tế và tuyên bố đơn phương chấp nhận trước thẩm quyền của Tòa.<br />
Chức năng đưa ra kết luận tư vấn: ICJ thực hiện chức năng này khi Đại hội <br />
đồng hay Hội đồng bảo an yêu cầu, liên quan đến những vấn đề pháp lí phát sinh <br />
trong thực tiễn hoạt động của các cơ quan này. Các ý kiến tư vấn chỉ mang tính chất <br />
khuyến nghị1.<br />
2, Phán quyết của Tòa án công lý quốc tế.<br />
Về pháp lý, phán quyết của ICJ có giá trị chung thẩm và bắt buộc đối với các <br />
bên. Nếu một trong các bên không chịu thi hành bản án thì phí bên kí có quyền yêu <br />
cầu Hội đồng bảo an can thiệp, buộc phải chấp hành. Phán quyết của Tòa chỉ có giá <br />
trị pháp lý trong mối quan hệ giữa các bên tranh chấp. Tuy nhiên, trong một số trường <br />
hợp, phán quyết của tòa có tác động gián tiếp đối với bên thứ ba, ví dụ các thành viên <br />
của điều ước quốc tế đa phương không thể bỏ qua phán quyết của Tòa, liên quan đến <br />
việc giải thích điều ước đó. <br />
Mặc dù mỗi phán quyết của Tòa không đương nhiên có giá trị là tập quán quốc <br />
tế nhưng trên thực tế vẫn gián tiếp tác động tới thái độ của các quốc gia với vấn đề <br />
mà tòa đã phân xử để qua đó, tác động tới cách quan niệm và ý chí các chủ thể của <br />
Luật quốc tế. Vì vậy, trên bình diện chung, có thể đánh giá đóng góp quan trọng mà <br />
các bản án do Tòa đưa ra đối với sự phát triển của luật quốc tế là việc các chủ thể <br />
của luật quốc tế, ngoài trường hợp viện dẫn kết quả giải quyết của Tòa với tính <br />
<br />
<br />
<br />
1 ThS.Nguyễn Thị Kim NgânThS. Chu mạnh HùngGIÁO TRÌNH LUẬT QUỐC TẾ, Nxb giáo dục Vn, năm 2000.<br />
<br />
<br />
2<br />
chất của luật tập quán thì hoàn toàn có thể chấp nhận và áp dụng từng phần hay toàn <br />
bộ phán quyết của Tòa với tư cách là phương tiện bổ trợ nguồn của luật quốc tế.<br />
II, CHỨNG MINH NHẬN ĐỊNH.<br />
1, Cơ sở pháp lí.<br />
Đối với ICJ, về mặt thẩm quyền của ICJ nói chung và phán quyết của nó nói <br />
riêng đã được quy định rõ tại Điều 38 của Quy chế Tòa án công lí quốc tế thông qua <br />
năm 1946, đó là:<br />
1. Tòa án, với chức năng là giải quyết phù hợp với luật quốc tế các vụ tranh chấp <br />
được chuyển đến Tòa án, sẽ áp dụng:<br />
a. Các điều ước quốc tế, chung hoặc riêng, đã quy định về những nguyên tắc được <br />
các bên đang tranh chấp thừa nhận;<br />
b. Các tập quán quốc tế như những chứng cứ thực tiễn chung, được thừa nhận như <br />
những quy phạm pháp luật;<br />
c. Nguyên tắc chung của luật được các quốc gia văn minh thừa nhận<br />
d. Với những điều kiện nêu ở điều 59, các án lệ và các học thuyết của các chuyên gia <br />
có chuyên môn cao nhất về luật quốc tế của các quốc gia khác nhau được coi là <br />
phương tiện để xác định các qui phạm pháp luật.<br />
2. Quyết định này không nằm ngoài quyền giải quyết vụ việc của Tòa án, xác định <br />
như vậy (ex aequo et bono), nếu các bên thỏa thuận điều này2.<br />
2, Phán quyết của tòa án công lý quốc tế có ý nghĩa quan trọng trong quá trình <br />
hình thành cũng như viện dẫn áp dụng quy phạm điều ước.<br />
Quy phạm điều ước quốc tế hay còn gọi là quy phạm thành văn là những quy <br />
phạm điều chỉnh quan hệ về kí kết và thực hiện điều ước quốc tế của các chủ thể <br />
luật quốc tế3. Nó là sự thỏa thuận, thống nhất ý chí giữa các chủ thể của Luật quốc <br />
2 Theo NGUỒN DỊCH: LAWSOFT http://thongtinphapluatdansu.wordpress.com/2009/10/07/3951/<br />
<br />
<br />
<br />
3 Trường Đại học Luật Hà Nội, Giao trình luật quốc tế, Nxb.CAND, năm 2004. Tr.406.<br />
<br />
<br />
<br />
3<br />
tế và được ghi nhận trong những văn bản pháp lí nhất định. Ví dụ như các quy định <br />
được ghi nhận trong Luật Biển năm 1982 hay Công ước Viên năm 1961 và năm 1963 <br />
về quan hệ ngoại giao và quan hệ lãnh sự. Vậy phán quyết của ICJ lại có ý nghĩa <br />
quan trọng trong quá trình hình thành cũng như viện dẫn áp dụng quy phạm điều ước <br />
như thế nào. Chúng ta hãy nghiên cứu dưới các góc độ sau:<br />
2.1, Đối với quá trình hình thành quy phạm điều ước.<br />
Trước hết chúng ta hiểu phán quyết của ICJ làm hình thành nên quy phạm điều <br />
ước là những phán quyết ấy khi được tuyên bố trong một tranh chấp nhất định sau đó <br />
sẽ được quy định tại một văn bản pháp lý của quốc tế từ đó làm cơ sở để các vụ <br />
tranh chấp xảy ra sau này sẽ áp dụng quy định đó. Mặc dù, các phán quyết này không <br />
trực tiếp chứa đựng các quy phạm pháp luật quốc tế, không có giá trị rằng buộc cáo <br />
đối với tất cả các chủ thể luật quốc; tuy nhiên, chúng lại mang tính chất khuyến nghị <br />
đối với các chủ thể luật quốc tế trong quá trình hình thành nên các quy phạm điều <br />
ước. Mặc dù, các phán quyết của ICJ chỉ có giá trị đối với các bên tranh chấp. Nhưng <br />
chính việc giải thích của các cơ quan tài phán quốc tế trong các phán quyết có chứa <br />
đựng một thẩm quyền đã được giải thích, nhiều khi đã vượt gia khỏi phạm vi các <br />
quốc gia tham gia vụ kiện. Cụ thể, từ một quy định còn khái quát, không cụ thể, rõ <br />
ràng nhưng sau khi được ICJ giải thích thì quy định ấy đã chính xác hơn, hơn nữa nó <br />
còn có tác động nhất định đến quan điểm và ý chí của cả các quốc tham gia soạn thảo <br />
nội dung của các điều ước quốc tế (có chứa đựng các quy phạm điều ước) lẫn các <br />
quốc gia không tham kiện. Chính những nội dung có trong các phán quyết của Tòa án <br />
sẽ là căn cứ, là cơ sở cho sự hình thành nên các quy tắc, các nguyên tắc được coi là <br />
các quy phạm điều ước góp phần làm phát triển luật quốc tế sau này. Trong thực tế, <br />
Tòa đã phải tiến hành giải thích một hiệp định hay một công ước trong hầu như ba <br />
phần tư các vụ đưa ra trước tòa.<br />
Chúng ta có thể thấy rõ điều ấy trọng vụ tranh chấp ngư trường nghề cá giữa <br />
Anh và Nauy. Tại vụ án này, Anh đã tranh cãi về giá trị pháp lý của sắc lệnh năm <br />
1935 của Nauy về đường cơ sở thẳng dùng để tính chiều rộng lãnh hải. Sau khi đã <br />
4<br />
xem xét, tháng 12 năm 1951, ICJ đã đưa ra phán quyết:”… Toàn bộ một đường bờ <br />
biển như vậy đòi hỏi phải áp dụng một phương pháp khác: đó là đường cơ sở cách <br />
đường hình thể bờ biển một khoảng cách hợp lí”. ICJ công nhận việc phân định của <br />
Nauy dựa trên kỹ thuật đường cơ sở thẳng “không trái với luật quốc tế”. Như vậy, <br />
các nguyên tắc áp dụng đường cơ sở thẳng năm 1935 của Nauy đã trở thành các tiêu <br />
chuẩn mới của luật quốc tế, thể hiện trong Công ước Genneva về lãnh hải và vùng <br />
tiếp giáp năm 1958, Điều 4 và Công ước 1982 tại khoản 1 Điều 7: Ở nơi nào bờ biển <br />
bị khoét sâu và lồi lõm hoặc nếu có một chuỗi đảo nằm sát ngay và chạy dọc theo bờ <br />
biển, phương pháp đường cơ sở thẳng nối liền các điểm thích hợp có thể được sử <br />
dụng để kẻ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải”4. <br />
Như vậy qua đó ta thấy phán quyết của ICJ về đường cơ sở thẳng đã trở thành <br />
nguồn bổ trợ, làm hình thành nên quy phạm điều ước quốc tế có giá trị bắt buộc <br />
chung, phán quyết ấy sau một thời gian tuyên bố đã khai sinh ra một quy phạm vô <br />
cùng quan trọng trong pháp luật về biển của quốc tế.<br />
2.2, Đối với quá trình viện dẫn các quy phạm điều ước. <br />
Viện dẫn có thể hiểu là việc đưa ra, dẫn ra để minh hoạ hoặc làm chỗ dựa <br />
cho lập luận của một chủ thể nhất định5. Như vậy, có thể hiểu rằng phán quyết của <br />
ICJ ngoài việc làm hình thành quy phạm điều ước thì nó cũng có vai trò trong việc <br />
giúp chính nó hay các chủ thể khác (các quốc gia..) có thể dựa vào phán quyết ấy để <br />
có thể giải quyết các tranh chấp phát sinh hoặc nhằm các mục đích khác. Tại sao <br />
phán quyết của ICJ lại có vai trò viện dẫn quy phạm điều ước như vậy. Bởi lẽ, bản <br />
thân ICJ là một cơ quan mang tính chất quốc tế với nội dung về các vấn đề pháp lí. <br />
Thứ hai, đối với các quốc gia thừa nhận thẩm quyền của ICJ thì việc ICJ đưa ra phán <br />
quyết có vai trò bắt buộc, tức là họ phải dựa vào đó để giải quyết tranh chấp. Và <br />
quan trọng hơn, phán quyết ấy khi đã đưa vào một văn bản pháp lí quốc tế, tức là trở <br />
4 Nguyễn Hồng Thao, Toà án công lí quốc tế, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2000<br />
<br />
<br />
<br />
5 Theo http://tudien.xalo.vn/tratu/vi%E1%BB%87n_d%E1%BA%ABn<br />
<br />
<br />
5<br />
thành một quy phạm của luật quốc tế thì các quốc gia phảo bắt buộc thừa nhận (ví <br />
dụ: quy định về đường cơ sở thẳng). Rõ ràng hơn nữa, khi thi tham gia vào quan hệ <br />
quốc tế thì các quốc gia phải căn cứ vào đó để xử sự cho phù hợp, viện dẫn một cách <br />
khách quan, chính xác.<br />
Thực tế đã có rất nhiều ví dụ để chứng minh cho vai trò trong việc viện dẫn ấy. Ví <br />
dụ như ngày 25 tháng 12 năm 2000, Hiệp định Phân định Vịnh Bắc Bộ được ký kết <br />
giữa Việt Nam và Trung Quốc căn cứ vào các quy định trong Công ước về luật biển <br />
năm 1982 để xác định biên giới lãnh hải, thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế <br />
trong Vịnh Bắc Bộ giữa hai nước. Tại hiệp định này, để xác định các bộ phận như <br />
lãnh hải, thềm lục địa…Việt Nam và Trung Quốc viện dẫn quy định đường cơ sở <br />
thẳng của công ước về Luật Biển năm 1982.Mà như trên ta đã nói quy định về đường <br />
cơ sở thẳng lại có nguồn gốc từ phàn quyết của ICJ.<br />
Như vậy, qua đó, chúng ta có thể thấy rằng, trong không ít trường hợp, phán <br />
quyết của ICJ đã giúp các quốc gia, hay giúp chính nó viện dẫn một quy phạm có <br />
nguồn gốc từ một hay nhiều phán quyết của Tòa để làm phương tiện cho các chủ thê <br />
tham gia vào quan hệ pháp luật quốc tế nhất định.<br />
3, Phán quyết của tòa án công lý quốc tế có ý nghĩa quan trọng trong quá trình <br />
hình thành cũng như viện dẫn áp dụng quy phạm tập quán.<br />
Quy phạm tập quán có thể hiểu là các quy phạm chứa đựng quy tắc xử sự chung hình <br />
thành trong thực tiến quan hệ quốc tế và được các chủ thể luật quốc tế thừa nhận là <br />
luật. Chúng được hình thành và áp dụng dựa trên hai yếu tố cơ bản là yếu tố vật chất <br />
và yếu tố tinh thần. Và giống như các quy phạm điều ước thì phán quyết của ICJ có <br />
thể làm hình thành cũng như viện dẫn một quy phạm tập quán nhất định. Cụ thể:<br />
3.1, Đối với việc hình thành quy phạm tập quán.<br />
Quy phạm tập quán được hình thành bằng nhiều con đường khác nhau như <br />
thực tiễn hoạt động của các Tổ chức quốc tế liên chính phủ, thực tiễn việc thực hiện <br />
hành vi pháp lí của quốc gia và các chủ thể khác…Và, nó cũng có thể được hình thành <br />
từ thực tiễn giải quyết tranh chấp của cơ quan tài phán quốc tế, trong đó có ICJ hay <br />
6<br />
cụ thể hơn là phán quyết của ICJ. Mặc dù mỗi phán quyết của tòa án không đương <br />
nhiên có giá trị là tập quán quốc tế nhưng trên thực tế vẫn gián tiếp tác động tới thái <br />
độ của các quốc gia đối với vấn đề mà Tòa án đã phân xử để qua đó, tác động tới <br />
cách quan niệm và ý chí của chủ thể luật quốc tế. Vì vậy, trên bình diện chung, có <br />
thể đánh giá đóng góp quan trọng mà các bản án do Tòa đưa ra đối với sự phát triển <br />
luật quốc tế là việc các chủ thể của luật quốc tế, ngoài trường hợp viện dẫn kết quả <br />
giải quyết của Tòa với tính chất của luật tập quán thì hoàn toàn có thể chấp nhận và <br />
áp dụng từng phần hay toàn bộ phán quyết của Tòa với tư cách là phương tiện bổ trợ <br />
nguồn của luật quốc tế.<br />
Chúng ta có thể thấy được điều này qua một vụ án tranh chấp quốc tế giữa Cộng hòa <br />
Liên Bang Đức/Đan Mạch, Công hòa Liên bang Đức/Hà Lan (còn gọi là vụ thềm lục <br />
địa biển Bắc) được Tòa phán quyết vào ngày 2021969. Trong vụ án này do những <br />
hoàn cảnh đặc biệt về địa hình giữa các quốc gia Cộng hòa liên bang Đức, Hà Lan <br />
và Đan Mạch mà nguyên tắc “đường cách đều có tính đến hoàn cảnh đặc biệt” có <br />
chứa đựng trong Điều 6/Công ước Geneva không thể áp dụng được. Chính vì thế, <br />
thông qua phán quyết ngày 20/2/1969 của Tòa án công lý quốc tế đã khái quát hóa và <br />
đề xuất các nguyên tắc về thỏa thuận, nguyên tắc về kéo dài tự nhiên, nguyên tắc tính <br />
đến hoàn cảnh đặc biệt và nguyên tắc công bằng trong phân định biển. Và cuối cùng, <br />
nguyên tắc: “Đất thống trị biển” được xây dựng lên và giải quyết được tranh chấp <br />
này một cách triệt để nhất. Trong một thời gian dài sử dụng nguyên tắc này được coi <br />
như một quy phạm tập quán quan trọng trong việc xác định vùng thềm lục địa của <br />
quốc gia ven biển, tạo bược ngoặc lịch sử cho việc phát triển của luật biển quốc tế. <br />
Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng trong một hoàn cảnh nhất định thì một phán <br />
quyết của ICJ hoàn toàn có thể làm hình thành nên một quy phạm tập quán, là cơ sở <br />
để các chủ thể quốc tế xác lập những vấn đề pháp lí nhất định.<br />
3.2, Đối với việc viện dẫn quy phạm tập quán.<br />
Như chúng ta đã biết, một quy phạm tập quán thì không tồn tại dưới dạng một <br />
điều ước, tức là dưới hình thức thành văn mà chúng được viện dẫn dưới dạng các <br />
7<br />
quy phạm tập quán (bất thành văn). Những phán quyết có chứa đựng các quy phạm <br />
tập tập quán này thường đã có hiệu lực từ lâu, đã có thời gian dài kiểm chứng và <br />
được sử dụng nhiểu trong các tranh chấp quốc tế. Như vậy, khi muốn áp dụng một <br />
quy phạm tập quán thì các chủ thể phải viện dẫn nó một cách phù hợp. Có nhiều yếu <br />
tố “trợ giúp” cho việc viện dẫn các quy phạm tập quán ấy và một trong các yếu tố đó <br />
chính là phán quyết của ICJ.<br />
Chúng ta có thể thấy được vai trò ấy qua vụ kiện giữa Nicaragoa kiện Mỹ về <br />
các hoạt động quân sự và bán quân sự tại Nicaragoa và chống lại Nicaragoa . Trong <br />
vụ kiện này, phán quyết của ICJ đã góp phần quan trọng trong việc xác định ranh giới <br />
giữa nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia và quyền con người; viện dẫn và làm <br />
sáng tỏ nguyên tắc cấm sử dụng vũ lực và nguyên tắc cấm can thiệp vào công việc <br />
nội bộ của quốc gia khác. Đồng thời Tòa cũng khẳng định tính độc lập của luật tập <br />
quán và làm sáng tỏ nội dung các nguyên tắc trên của luật tập quán6.<br />
Hay trong vụ Thẩm quyền nghề cá năm 1974, Tòa án đã có điều kiện để phát <br />
triển các khái niệm về nghề cá. Và tới các phán quyết thềm lục địa Libi/Manta năm <br />
1985, phân định biển trong khu vực giữa Groenland và Jan Mayen năm 1993, Tòa đã có <br />
dịp làm đầy đủ thêm khái niệm cùng đặc quyền kinh tế. Khái niệm này từ đó đến nay <br />
đã được tất cả các quốc gia trên thế giới sử dụng như một quy phạm tập quán và sau <br />
này được pháp điển hóa trong Công ước luật biển năm 1982…<br />
<br />
<br />
C, KẾT THÚC VẤN ĐỀ<br />
Như vậy, qua sự chứng minh ở trên, chúng ta có thể thấy rằng phán quyết của ICJ có <br />
vai trò quan trọng đối với luật quốc tế. Nó thực sự là một nguồn bổ trợ quan trọng <br />
cho pháp luật quốc tế. Và một trong các nội dung ấy chính là sự hình thành và viện <br />
dẫn quy phạm điều ước và quy phạm tập quán. Bài viết của em xin dừng lại tại đây. <br />
Em xin chân thành cám ơn!<br />
<br />
6 Nguyễn Hồng Thao, Toà án công lí quốc tế, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2000<br />
<br />
<br />
8<br />
9<br />