intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Phán quyết của tòa án công lý quốc tế có ý nghĩa quan trọng trong quá trình hình thành cũng như viện dẫn áp dụng quy phạm điều ước và quy phạm tập quán

Chia sẻ: Nguyễn Hào Hiệp | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:9

126
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tòa án công lý quốc tế (viết tắt ICJ) là một trong các thiết chế của Tòa án quốc tế, giống như các cơ quan tài phán khác, ICJ có chức năng giải quyết các tranh chấp quốc tế. Hơn nữa, ngoài chức năng ấy, ICJ còn có vai trò tư vấn. Hơn nữa phán quyết của ICJ còn có vai trò quan trọng vì đó là một trong các nguồn bổ trợ của Luật quốc tế. Để tìm hiểu sâu hơn về vấn đề này mời các bạn tham khảo bài viết "Phán quyết của tòa án công lý quốc tế có ý nghĩa quan trọng trong quá trình hình thành cũng như viện dẫn áp dụng quy phạm điều ước và quy phạm tập quán".

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Phán quyết của tòa án công lý quốc tế có ý nghĩa quan trọng trong quá trình hình thành cũng như viện dẫn áp dụng quy phạm điều ước và quy phạm tập quán

A, ĐẶT VẤN ĐỀ<br /> Tòa án công lý quốc tế  (tiếng Anh: International Court of Justice , sau đây gọi tắt là <br /> ICJ) là một trong các thiết chế  của Tòa án quốc tế, giống như  các cơ  quan tài phán  <br /> khác, ICJ có chức năng giải quyết các tranh chấp quốc tế. Hơn nữa, ngoài chức năng <br /> ấy, ICJ còn có vai trò tư vấn. Hơn nữa phán quyết của ICJ còn có vai trò quan trọng vì  <br /> đó là một trong các nguồn bổ trợ của Luật quốc tế. Và để làm rõ phần nào vai trò ấy  <br /> của phán quyết, tại bài viết này, em xin chứng minh Phán quyết của tòa án công lý  <br /> quốc tế  có ý nghĩa quan trọng trong quá trình hình thành cũng như  viện dẫn áp  <br /> dụng quy phạm điều ước và quy phạm tập quán.<br /> B, GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ<br /> I, SƠ LƯỢC VỀ TÒA ÁN CÔNG LÝ QUỐC TẾ  (ICJ) VÀ PHÁN QUYẾT CỦA <br /> TÒA.<br /> 1,  Tòa án công lý quốc tế<br /> ICJ được thành lập và hoạt động dựa trên cơ  sở  của Hiến chương Liên hợp  <br /> quốc (LHQ) và Quy chế  Tòa án công lý quốc tế. ICJ gồm 15 thẩm phán có các quốc  <br /> tịch khác nhau. Thẩm phán của ICJ được đại hội đồng và Hội đồng bảo an LHQ bầu  <br /> với nhiệm kì 9 năm và cứ mỗi 3 năm bầu lại 1/3 số thẩm phán. Bên cạnh các Thẩm <br /> phán, khi viên tòa mở  ra, các bên tranh chấp có thể  lựa chọn thẩm phán ad hoc – là  <br /> thẩm phán do một hoặc các bên tranh chấp không có thẩm phán mang quốc tịch nước  <br /> mình trong thành phần của tòa đề  cử  tham gia hội đồng xét xử. Ngoài ra, ICJ còn có <br /> các phụ  thẩm có thể  được tòa lựa chọn hoặc theo yêu cầu của các bên tranh chấp <br /> tham gia, Ban thư kí­cơ quan hành chính thường trực của tòa và các nhân viên.<br /> Về chức năng, ICJ có hai chức năng chính là giải quyết tranh chấp và đưa ra kết luận <br /> tư vấn, cụ thể:<br /> Chức năng giải quyết tranh chấp: ICJ là cơ quan có chức năng giải quyết tranh  <br /> chấp phát sinh giữa các quốc gia thành viên của LHQ. Các quốc gia không phải là  <br /> <br /> 1<br /> thành viên của LHQ nhưng muốn tham gia Quy chế ICJ và đưa tranh chấp ra tòa thì <br /> phải thỏa mãn những điều kiện do Đại hội đồng quyết định trong từng trường hợp <br /> cụ  thể theo kiến nghị  của Hội đồng bảo an. Thẩm quyền giải quyết các tranh chấp  <br /> giữa các quốc gia của ICJ không phải là thẩm quyền đương nhiên mà phải dựa trên  <br /> sự đồng ý rõ ràng của các bên tranh chấp. Thẩm quyền  ấy có thể  được xác lập theo  <br /> ba phương thức là thẩm quyền theo từng vụ  việc, thẩm quyền trong các điều  ước <br /> quốc tế và tuyên bố đơn phương chấp nhận trước thẩm quyền của Tòa.<br /> Chức năng đưa ra kết luận tư  vấn:  ICJ thực hiện chức năng này khi Đại hội  <br /> đồng hay Hội đồng bảo an yêu cầu, liên quan đến những vấn đề  pháp lí phát sinh  <br /> trong thực tiễn hoạt động của các cơ quan này. Các ý kiến tư vấn chỉ mang tính chất  <br /> khuyến nghị1.<br /> 2, Phán quyết của Tòa án công lý quốc tế.<br /> Về  pháp lý, phán quyết của ICJ có giá trị  chung thẩm và bắt buộc đối với các  <br /> bên. Nếu một trong các bên không chịu thi hành bản án thì phí bên kí có quyền yêu <br /> cầu Hội đồng bảo an can thiệp, buộc phải chấp hành. Phán quyết của Tòa chỉ có giá <br /> trị pháp lý trong mối quan hệ giữa các bên tranh chấp. Tuy nhiên, trong một số trường  <br /> hợp, phán quyết của tòa có tác động gián tiếp đối với bên thứ ba, ví dụ các thành viên <br /> của điều ước quốc tế đa phương không thể bỏ qua phán quyết của Tòa, liên quan đến <br /> việc giải thích điều ước đó. <br /> Mặc dù mỗi phán quyết của Tòa không đương nhiên có giá trị là tập quán quốc  <br /> tế nhưng trên thực tế vẫn gián tiếp tác động tới thái độ của các quốc gia với vấn đề <br /> mà tòa đã phân xử  để  qua đó, tác động tới cách quan niệm và ý chí các chủ  thể  của <br /> Luật quốc tế. Vì vậy, trên bình diện chung, có thể  đánh giá đóng góp quan trọng mà <br /> các bản án do Tòa đưa ra đối với sự phát triển của luật quốc tế là việc các chủ  thể <br /> của luật quốc tế, ngoài trường hợp viện dẫn kết quả  giải quyết của Tòa với tính <br /> <br /> <br /> <br /> 1 ThS.Nguyễn Thị Kim Ngân­ThS. Chu mạnh Hùng­GIÁO TRÌNH LUẬT QUỐC TẾ, Nxb giáo dục Vn, năm 2000.<br /> <br /> <br /> 2<br /> chất của luật tập quán thì hoàn toàn có thể chấp nhận và áp dụng từng phần hay toàn  <br /> bộ phán quyết của Tòa với tư cách là phương tiện bổ trợ nguồn của luật quốc tế.<br /> II, CHỨNG MINH NHẬN ĐỊNH.<br /> 1, Cơ sở pháp lí.<br /> Đối với ICJ, về mặt thẩm quyền của ICJ nói chung và phán quyết của nó nói  <br /> riêng đã được quy định rõ tại Điều 38 của Quy chế Tòa án công lí quốc tế thông qua  <br /> năm 1946, đó là:<br /> 1. Tòa án, với chức năng là giải quyết phù hợp với luật quốc tế các vụ tranh chấp <br /> được chuyển đến Tòa án, sẽ áp dụng:<br /> a. Các điều ước quốc tế, chung hoặc riêng, đã quy định về những nguyên tắc được <br /> các bên đang tranh chấp thừa nhận;<br /> b. Các tập quán quốc tế như những chứng cứ thực tiễn chung, được thừa nhận như <br /> những quy phạm pháp luật;<br /> c. Nguyên tắc chung của luật được các quốc gia văn minh thừa nhận<br /> d. Với những điều kiện nêu ở điều 59, các án lệ và các học thuyết của các chuyên gia  <br /> có chuyên môn cao nhất về luật quốc tế của các quốc gia khác nhau được coi là <br /> phương tiện để xác định các qui phạm pháp luật.<br /> 2. Quyết định này không nằm ngoài quyền giải quyết vụ việc của Tòa án, xác định <br /> như vậy (ex aequo et bono), nếu các bên thỏa thuận điều này2.<br /> 2,  Phán quyết của tòa án công lý quốc tế  có ý nghĩa quan trọng trong quá trình  <br /> hình thành cũng như viện dẫn áp dụng quy phạm điều ước.<br /> Quy phạm điều ước quốc tế  hay còn gọi là quy phạm thành văn là những quy <br /> phạm điều chỉnh quan hệ  về  kí kết và thực hiện điều ước quốc tế  của các chủ  thể <br /> luật quốc tế3. Nó là sự thỏa thuận, thống nhất ý chí giữa các chủ thể của Luật quốc  <br /> 2  Theo NGUỒN DỊCH: LAWSOFT ­ http://thongtinphapluatdansu.wordpress.com/2009/10/07/3951/<br /> <br /> <br /> <br /> 3 Trường Đại học Luật Hà Nội, Giao trình luật quốc tế, Nxb.CAND, năm 2004. Tr.406.<br /> <br /> <br /> <br /> 3<br /> tế  và được ghi nhận trong những văn bản pháp lí nhất định. Ví dụ  như  các quy định <br /> được ghi nhận trong Luật Biển năm 1982 hay Công ước Viên năm 1961 và năm 1963  <br /> về  quan hệ  ngoại giao và quan hệ  lãnh sự. Vậy phán quyết của ICJ lại có ý nghĩa <br /> quan trọng trong quá trình hình thành cũng như viện dẫn áp dụng quy phạm điều ước  <br /> như thế nào. Chúng ta hãy nghiên cứu dưới các góc độ sau:<br /> 2.1,  Đối với quá trình hình thành quy phạm điều ước.<br /> Trước hết chúng ta hiểu phán quyết của ICJ làm hình thành nên quy phạm điều <br /> ước là những phán quyết ấy khi được tuyên bố trong một tranh chấp nhất định sau đó <br /> sẽ  được quy định tại một văn bản pháp lý của quốc tế  từ  đó làm cơ  sở  để  các vụ <br /> tranh chấp xảy ra sau này sẽ áp dụng quy định đó. Mặc dù, các phán quyết này không  <br /> trực tiếp chứa đựng các quy phạm pháp luật quốc tế, không có giá trị  rằng buộc cáo <br /> đối với tất cả các chủ thể luật quốc; tuy nhiên, chúng lại mang tính chất khuyến nghị <br /> đối với các chủ  thể  luật quốc tế  trong quá trình hình thành nên các quy phạm điều <br /> ước. Mặc dù, các phán quyết của ICJ chỉ có giá trị đối với các bên tranh chấp. Nhưng  <br /> chính việc giải thích của các cơ  quan tài phán quốc tế  trong các phán quyết có chứa  <br /> đựng một thẩm quyền đã được giải thích, nhiều khi đã vượt gia khỏi phạm vi các <br /> quốc gia tham gia vụ kiện. Cụ thể, từ một quy định còn khái quát, không cụ  thể, rõ  <br /> ràng nhưng sau khi được ICJ giải thích thì quy định ấy đã chính xác hơn, hơn nữa nó <br /> còn có tác động nhất định đến quan điểm và ý chí của cả các quốc tham gia soạn thảo  <br /> nội dung của các điều  ước quốc tế  (có chứa đựng các quy phạm điều  ước) lẫn các <br /> quốc gia không tham kiện. Chính những nội dung có trong các phán quyết của Tòa án <br /> sẽ  là căn cứ, là cơ  sở  cho sự hình thành nên các quy tắc, các nguyên tắc được coi là <br /> các quy phạm điều ước góp phần làm phát triển luật quốc tế sau này. Trong thực tế,  <br /> Tòa đã phải tiến hành giải thích một hiệp định hay một công  ước trong hầu như  ba  <br /> phần tư các vụ đưa ra trước tòa.<br /> Chúng ta có thể thấy rõ điều ấy trọng vụ tranh chấp ngư trường nghề cá giữa <br /> Anh và Nauy. Tại vụ  án này, Anh đã tranh cãi về  giá trị  pháp lý của sắc lệnh năm  <br /> 1935 của Nauy về  đường cơ  sở  thẳng dùng để  tính chiều rộng lãnh hải. Sau khi đã <br /> 4<br /> xem xét, tháng 12 năm 1951, ICJ đã đưa ra phán quyết:”…  Toàn bộ  một đường bờ  <br /> biển như vậy đòi hỏi phải áp dụng một phương pháp khác: đó là đường cơ  sở  cách  <br /> đường hình thể bờ biển một khoảng cách hợp lí”. ICJ công nhận việc phân định của <br /> Nauy dựa trên kỹ thuật đường cơ  sở  thẳng “không trái với luật quốc tế”. Như vậy, <br /> các nguyên tắc áp dụng đường cơ  sở  thẳng năm 1935 của Nauy đã trở thành các tiêu <br /> chuẩn mới của luật quốc tế, thể hiện trong Công ước Genneva về  lãnh hải và vùng <br /> tiếp giáp năm 1958, Điều 4 và Công ước 1982 tại khoản 1 Điều 7:  Ở nơi nào bờ biển  <br /> bị khoét sâu và lồi lõm hoặc nếu có một chuỗi đảo nằm sát ngay và chạy dọc theo bờ  <br /> biển, phương pháp đường cơ  sở  thẳng nối liền các điểm thích hợp có thể  được sử  <br /> dụng để kẻ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải”4. <br /> Như vậy qua đó ta thấy phán quyết của ICJ về đường cơ sở thẳng đã trở thành <br /> nguồn bổ  trợ, làm hình thành nên quy phạm điều  ước quốc tế  có giá trị  bắt buộc  <br /> chung, phán quyết  ấy sau một thời gian tuyên bố  đã  khai sinh  ra một quy phạm vô <br /> cùng quan trọng trong pháp luật về biển của quốc tế.<br /> 2.2, Đối với quá trình viện dẫn các quy phạm điều ước. <br /> Viện dẫn có thể  hiểu là việc đưa ra, dẫn ra để  minh hoạ  hoặc làm chỗ  dựa  <br /> cho lập luận của một chủ thể nhất định5. Như vậy, có thể hiểu rằng phán quyết của <br /> ICJ ngoài việc làm hình thành quy phạm điều  ước thì nó cũng có vai trò trong việc <br /> giúp chính nó hay các chủ thể khác (các quốc gia..) có thể dựa vào phán quyết ấy để <br /> có thể  giải quyết các tranh chấp phát sinh hoặc nhằm các mục đích khác. Tại sao <br /> phán quyết của ICJ lại có vai trò viện dẫn quy phạm điều ước như vậy. Bởi lẽ, bản  <br /> thân ICJ là một cơ quan mang tính chất quốc tế với nội dung về các vấn đề  pháp lí. <br /> Thứ hai, đối với các quốc gia thừa nhận thẩm quyền của ICJ thì việc ICJ đưa ra phán <br /> quyết có vai trò bắt buộc, tức là họ  phải dựa vào đó để  giải quyết tranh chấp. Và <br /> quan trọng hơn, phán quyết ấy khi đã đưa vào một văn bản pháp lí quốc tế, tức là trở <br /> 4 Nguyễn Hồng Thao, Toà án công lí quốc tế, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2000<br /> <br /> <br /> <br /> 5 Theo http://tudien.xalo.vn/tratu/vi%E1%BB%87n_d%E1%BA%ABn<br /> <br /> <br /> 5<br /> thành một quy phạm của luật quốc tế thì các quốc gia phảo bắt buộc thừa nhận (ví  <br /> dụ: quy định về  đường cơ  sở  thẳng). Rõ ràng hơn nữa, khi thi tham gia vào quan hệ <br /> quốc tế thì các quốc gia phải căn cứ vào đó để xử sự cho phù hợp, viện dẫn một cách  <br /> khách quan, chính xác.<br /> Thực tế  đã có rất nhiều ví dụ  để  chứng minh cho vai trò trong việc viện dẫn ấy. Ví <br /> dụ  như  ngày 25 tháng 12 năm 2000, Hiệp định Phân định Vịnh Bắc Bộ  được ký kết  <br /> giữa Việt Nam và Trung Quốc căn cứ  vào các quy định trong Công ước về luật biển  <br /> năm 1982 để  xác định  biên giới  lãnh hải,  thềm lục địa  và  vùng đặc quyền kinh tế <br /> trong Vịnh Bắc Bộ giữa hai nước. Tại hiệp định này, để  xác định các bộ  phận như  <br /> lãnh hải, thềm lục địa…Việt Nam và Trung Quốc viện dẫn quy định đường cơ  sở  <br /> thẳng của công ước về Luật Biển năm 1982.Mà như trên ta đã nói quy định về đường  <br /> cơ sở thẳng lại có nguồn gốc từ phàn quyết của ICJ.<br /> Như  vậy, qua đó, chúng ta có thể  thấy rằng, trong không ít trường hợp, phán <br /> quyết của ICJ đã giúp các quốc gia, hay giúp chính nó viện dẫn một quy phạm có <br /> nguồn gốc từ một hay nhiều phán quyết của Tòa để làm phương tiện cho các chủ thê <br /> tham gia vào quan hệ pháp luật quốc tế nhất định.<br /> 3, Phán quyết của tòa án công lý quốc tế  có ý nghĩa quan trọng trong quá trình  <br /> hình thành cũng như viện dẫn áp dụng quy phạm tập quán.<br /> Quy phạm tập quán có thể hiểu là các quy phạm chứa đựng quy tắc xử sự chung hình  <br /> thành trong thực tiến quan hệ quốc tế và được các chủ thể luật quốc tế thừa nhận là  <br /> luật. Chúng được hình thành và áp dụng dựa trên hai yếu tố cơ bản là yếu tố vật chất <br /> và yếu tố tinh thần. Và giống như các quy phạm điều ước thì phán quyết của ICJ có <br /> thể làm hình thành cũng như viện dẫn một quy phạm tập quán nhất định. Cụ thể:<br /> 3.1, Đối với việc hình thành quy phạm tập quán.<br /> Quy phạm tập quán được hình thành bằng nhiều con đường khác nhau như <br /> thực tiễn hoạt động của các Tổ chức quốc tế liên chính phủ, thực tiễn việc thực hiện <br /> hành vi pháp lí của quốc gia và các chủ thể khác…Và, nó cũng có thể được hình thành <br /> từ thực tiễn giải quyết tranh chấp của cơ quan tài phán quốc tế, trong đó có ICJ hay  <br /> 6<br /> cụ  thể  hơn là phán quyết của ICJ. Mặc dù mỗi phán quyết của tòa án không đương <br /> nhiên có giá trị là tập quán quốc tế nhưng trên thực tế vẫn gián tiếp tác động tới thái <br /> độ  của các quốc gia đối với vấn đề  mà Tòa án đã phân xử  để  qua đó, tác động tới <br /> cách quan niệm và ý chí của chủ  thể  luật quốc tế. Vì vậy, trên bình diện chung, có <br /> thể đánh giá đóng góp quan trọng mà các bản án do Tòa đưa ra đối với sự  phát triển <br /> luật quốc tế là việc các chủ thể của luật quốc tế, ngoài trường hợp viện dẫn kết quả <br /> giải quyết của Tòa với tính chất của luật tập quán thì hoàn toàn có thể chấp nhận và  <br /> áp dụng từng phần hay toàn bộ phán quyết của Tòa với tư cách là phương tiện bổ trợ <br /> nguồn của luật quốc tế.<br /> Chúng ta có thể thấy được điều này qua một vụ án tranh chấp quốc tế giữa Cộng hòa <br /> Liên Bang Đức/Đan Mạch, Công hòa Liên bang Đức/Hà Lan (còn gọi là vụ  thềm lục  <br /> địa biển Bắc) được Tòa phán quyết vào ngày 20­2­1969. Trong vụ  án này do những  <br /> hoàn cảnh đặc biệt về  địa hình giữa các quốc gia Cộng hòa liên bang Đức, Hà Lan  <br /> và Đan Mạch mà nguyên tắc “đường cách đều có tính đến hoàn cảnh đặc biệt” có  <br /> chứa đựng trong Điều 6/Công  ước Geneva không thể  áp dụng được. Chính vì thế,  <br /> thông qua phán quyết ngày 20/2/1969 của Tòa án công lý quốc tế đã khái quát hóa và  <br /> đề xuất các nguyên tắc về thỏa thuận, nguyên tắc về kéo dài tự nhiên, nguyên tắc tính  <br /> đến hoàn cảnh đặc biệt và nguyên tắc công bằng trong phân định biển. Và cuối cùng,  <br /> nguyên tắc: “Đất thống trị  biển” được xây dựng lên và giải quyết được tranh chấp  <br /> này một cách triệt để nhất. Trong một thời gian dài sử dụng nguyên tắc này được coi  <br /> như  một quy phạm tập quán quan trọng trong việc xác định vùng thềm lục địa của  <br /> quốc gia ven biển, tạo bược ngoặc lịch sử cho việc phát triển của luật biển quốc tế.  <br /> Như  vậy, chúng ta có thể  thấy rằng trong một hoàn cảnh nhất định thì một phán  <br /> quyết của ICJ hoàn toàn có thể làm hình thành nên một quy phạm tập quán, là cơ sở <br /> để các chủ thể quốc tế xác lập những vấn đề pháp lí nhất định.<br /> 3.2, Đối với việc viện dẫn quy phạm tập quán.<br /> Như chúng ta đã biết, một quy phạm tập quán thì không tồn tại dưới dạng một <br /> điều  ước, tức là dưới hình thức thành văn mà chúng được viện dẫn dưới dạng các <br /> 7<br /> quy phạm tập quán (bất thành văn). Những phán quyết có chứa đựng các quy phạm  <br /> tập tập quán này thường đã có hiệu lực từ  lâu, đã có thời gian dài kiểm chứng và <br /> được sử  dụng nhiểu trong các tranh chấp quốc tế. Như vậy, khi muốn áp dụng một <br /> quy phạm tập quán thì các chủ thể phải viện dẫn nó một cách phù hợp. Có nhiều yếu  <br /> tố “trợ giúp” cho việc viện dẫn các quy phạm tập quán ấy và một trong các yếu tố đó  <br /> chính là phán quyết của ICJ.<br /> Chúng ta có thể thấy được vai trò ấy qua vụ  kiện giữa Nicaragoa kiện Mỹ về  <br /> các hoạt động quân sự  và bán quân sự  tại Nicaragoa và chống lại Nicaragoa . Trong <br /> vụ kiện này, phán quyết của ICJ đã góp phần quan trọng trong việc xác định ranh giới  <br /> giữa nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia và quyền con người; viện dẫn và làm <br /> sáng tỏ  nguyên tắc cấm sử  dụng vũ lực và nguyên tắc cấm can thiệp vào công việc <br /> nội bộ của quốc gia khác. Đồng thời Tòa cũng khẳng định tính độc lập của luật tập  <br /> quán và làm sáng tỏ nội dung các nguyên tắc trên của luật tập quán6.<br /> Hay trong vụ  Thẩm quyền nghề  cá năm 1974, Tòa án đã có điều kiện để  phát <br /> triển các khái niệm về  nghề cá.  Và tới các phán quyết thềm lục địa Libi/Manta năm <br /> 1985, phân định biển trong khu vực giữa Groenland và Jan Mayen năm 1993,  Tòa đã có <br /> dịp làm đầy đủ thêm khái niệm cùng đặc quyền kinh tế. Khái niệm này từ đó đến nay  <br /> đã được tất cả các quốc gia trên thế giới sử dụng như một quy phạm tập quán và sau  <br /> này được pháp điển hóa trong Công ước luật biển năm 1982…<br /> ­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­<br /> <br /> C, KẾT THÚC VẤN ĐỀ<br /> Như vậy, qua sự chứng minh ở trên, chúng ta có thể thấy rằng phán quyết của ICJ có <br /> vai trò quan trọng đối với luật quốc tế. Nó thực sự  là một nguồn bổ  trợ  quan trọng <br /> cho pháp luật quốc tế. Và một trong các nội dung  ấy chính là sự  hình thành và viện  <br /> dẫn quy phạm điều ước và quy phạm tập quán. Bài viết của em xin dừng lại tại đây.  <br /> Em xin chân thành cám ơn!<br /> <br /> 6  Nguyễn Hồng Thao, Toà án công lí quốc tế, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2000<br /> <br /> <br /> 8<br /> 9<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2