Nghiên cứu khoa học công nghệ<br />
<br />
PHÂN TÍCH DẠNG KIM LOẠI NẶNG (As, Cr) TRONG TRẦM TÍCH<br />
BỀ MẶT THUỘC LƯU VỰC SÔNG CẦU – TỈNH THÁI NGUYÊN<br />
Phạm Thị Thu Hà1*,Vũ Xuân Hòa1, Bùi Minh Quý1,<br />
Vương Trường Xuân1, Nguyễn Thị Ánh Tuyết2<br />
Tóm tắt: Bài báo áp dụng quy trình chiết đơn để xác định các dạng kim loại của<br />
Asen (As), Crom (Cr) trong trầm tích bề mặt lưu vực sông Cầu trên địa bàn tỉnh<br />
Thái Nguyên. Kết quả cho thấy, Asen và Crom tồn tại chủ yếu ở dạng cặn dư (F5),<br />
ngoài ra còn tìm thấy ở dạng liên kết với oxit sắt – mangan; liên kết hữu cơ. Hàm<br />
lượng tổng của Cr>As, sự phân bố của As khá đồng đều ở các vị trí lấy mẫu còn Cr<br />
thì không. Thông qua giá trị chỉ số tích lũy địa chất (Igeo), chỉ số đánh giá rủi ro<br />
(RAC) và quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng trầm tích (QCVN<br />
43:2012/BTNMT) đã đánh giá được mức độ ô nhiễm của 2 kim loại trên trong các<br />
mẫu trầm tích.<br />
Từ khóa: Chiết đơn; Dạng kim loại; Kim loại nặng; Trầm tích; Asen; Crom; ICP-MS.<br />
<br />
1. ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
Các lưu vực sông, cửa sông, cửa biển thường là nơi tích tụ các chất ô nhiễm có nguồn<br />
gốc từ nội địa, do nhiều nguyên nhân như xây dựng đường ống, xử lý và thải bỏ nước thải,<br />
khai thác mỏ, hoạt động công nghiệp ... Trong môi trường này, trầm tích có vai trò quan<br />
trọng trong việc tích lũy các kim loại nặng (KLN). Ô nhiễm trầm tích là một trong những<br />
chỉ số cho việc dự báo các rủi ro sinh thái tiềm ẩn trong hệ thống thủy sinh. Lưu vực sông<br />
Cầu đoạn chảy qua tỉnh Thái Nguyên là khu vực có nhiều mỏ khoáng sản và tập trung<br />
nhiều các khu công nghiệp nên dẫn đến nguy cơ ô nhiễm các KLN trong trầm tích là rất<br />
lớn. Đã có một số nghiên cứu về trầm tích thuộc lưu vực sông Cầu – Tỉnh Thái Nguyên,<br />
nhưng các nghiên cứu này mới tập trung chủ yếu vào 4 kim loại Cd, Cu, Pb và Zn [1-3].<br />
Ngoài ra ở công bố trước chúng tôi cũng đã đánh giá mức độ rủi ro của một số KLN như<br />
Fe, Co, Mn, Ni [4], vì vậy, trong nghiên cứu này chúng tôi sẽ tập trung nghiên cứu về hai<br />
kim loại Asen (As) và Crom (Cr), đây là hai kim loại tương đối phổ biến nên có thể dẫn<br />
đến việc phát tán ra môi trường. Các KLN khi tích lũy trong trầm tích có thể bị hấp thụ bởi<br />
các sinh vật, hoặc có thể bị hòa tan và đi vào môi trường nước, điều này tùy thuộc vào các<br />
dạng tồn tại của chúng và các điều kiện hóa lý của nước, do đó, trong nghiên cứu về KLN<br />
trong trầm tích cần thiết phải xác định được các dạng tồn tại của chúng, để từ đó đánh giá<br />
mức độ hoạt động cũng như ảnh hưởng của chúng đối với hệ sinh thái. Để xác định các<br />
dạng kim loại của As và Cr, trong nghiên cứu này chúng tôi cũng áp dụng quy trình chiết<br />
đơn dựa trên quy trình BCR [5] và Tessier đã được cải tiến [6], giống như quy trình chiết<br />
Fe, Co, Mn, Ni mà chúng tôi đã công bố [4] để tách 4 dạng chính của các kim loại As, Cr<br />
gồm: dạng trao đổi và liên kết với cacbonat, dạng liên kết với oxit của sắt và mangan, dạng<br />
liên kết với hợp chất hữu cơ, dạng bền trong cấu trúc trầm tích [7].<br />
2. THỰC NGHIỆM<br />
2.1. Thiết bị và dụng cụ<br />
- Máy phân tích phổ ICP-MS Nexion 300Q của hãng Perkin Elmer– Phòng Lab của<br />
SGS – Núi Pháo – Thái Nguyên.<br />
- Các loại dụng cụ thủy tinh đều được ngâm rửa bằng HNO3, sau đó, rửa sạch bằng<br />
nước cất, làm khô và bảo quản trước khi sử dụng.<br />
2.2. Hóa chất<br />
<br />
<br />
<br />
Tạp chí Nghiên cứu KH&CN quân sự, Số 55, 06 - 2018 139<br />
Hóa học & Kỹ thuật môi trường<br />
<br />
Do yêu cầu nghiêm ngặt của phép đo, các loại hóa chất được sử dụng đều là hóa chất<br />
tinh khiết của hãng Merck – Gemany (HOAc, NH2OH.HCl, HNO3, HCl, NH4Oac). Dung<br />
dịch chuẩn As, Cr đều được pha từ dung dịch chuẩn gốc 1000 ppm của hãng Merck.<br />
2.3. Địa điểm nghiên cứu<br />
Mẫu trầm tích được lấy tại 8 vị trí dọc theo lưu vực sông Cầu trên địa bàn tỉnh Thái<br />
Nguyên.Vị trí lấy mẫu được đưa ra ở bảng 1.<br />
Bảng 1. Vị trí lấy mẫu trầm tích.<br />
Mẫu Tọa độ Ghi chú<br />
SC01 N: 21o 35’ 56,4” - E: 105o 50’ 20,7” Gần Cầu Gia Bảy<br />
SC02 N: 21o 36’ 20,5” - E: 105o 51’ 24,9” Gần Cầu Oánh<br />
o o<br />
SC03 N: 21 36’ 08,5” - E: 105 51’ 24,0” Gần Cầu Phao Linh Sơn<br />
SC04 N: 21o 34’ 56,0” - E: 105o 51’ 50,6” Gần Cầu Huống Thượng<br />
SC05 N: 21o 34’ 38,2” - E: 105o 51’ 39,8” Gần ngòi Núi Truyện<br />
SC06 N: 21o 34’ 10,2” - E: 105o 51’ 56,9” Gần ngòi Trại Bầu<br />
o o<br />
SC07 N: 21 34’ 22,8” - E: 105 52’ 21,8” Dưới ngòi Làng Cậy<br />
SC08 N: 21o 34’ 26,1” - E: 105o 52’ 35,7” Gần đập Ba Đa<br />
2.4. Lấy mẫu, xử lý mẫu và phân tích mẫu<br />
Mẫu trầm tích (1g)<br />
<br />
40ml HOAc 0,11M<br />
(pH=2,85), to phòng<br />
Dịch chiết<br />
Lắc 16h<br />
Dạng trao đổi và<br />
40ml NH2OH.HCl 0,5M, cacbonat (F1,2)<br />
pH=1,5 (HNO3), to phòng<br />
Lắc 16h<br />
Dịch chiết Dạng liên kết với oxit<br />
(F3) sắt-mangan (F3)<br />
Cặn<br />
20 ml NH4OAc 3,2 M<br />
trong HNO3 20%<br />
Dịch chiết<br />
Lắc 0,5 h, to phòng<br />
Dạng liên kết với hữu<br />
cơ (F4)<br />
Cặn<br />
Cường thủy (3HCl:HNO3)<br />
Dạng cặn dư (F5)<br />
Hình 1. Sơ đồ quy trình chiết đơn.<br />
Mẫu trầm tích được lấy bằng thiết bị chuyên dụng ở độ sâu 0 – 20 cm và được bảo quản<br />
đưa về phòng thí nghiệm. Mẫu được sấy khô, trộn đều và nghiền mịn bằng cối sứ và rây qua<br />
rây để được kích thước hạt nhỏ hơn 0,16 mm. Quy trình chiết các dạng kim loại trong trầm<br />
tích được thể hiện ở hình 1.<br />
Quy trình chiết đơn được lặp lại 3 lần, dùng phương pháp ICP-MS để xác định hàm<br />
lượng các kim loại nặng. Hàm lượng dạng F3 được tính toán bằng hàm lượng trong dịch<br />
chiết F3 trừ đi hàm lượng dạng F1, F2. Độ chính xác của phương pháp được đánh giá qua<br />
việc phân tích mẫu trầm tích chuẩn MESS-3. Sự sai khác giữa hàm lượng tổng của 5 dạng<br />
<br />
<br />
<br />
140 P. T. T. Hà, …, N. T. A. Tuyết, “Phân tích dạng kim loại nặng … tỉnh Thái Nguyên.”<br />
Nghiên cứu khoa học công nghệ<br />
<br />
khi phân tích mẫu chuẩn MESS-3 so với giá trị chứng chỉ nhỏ hơn 10%. Các kết quả phân<br />
tích được thể hiện dưới dạng khối lượng khô.<br />
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN<br />
Kết quả phân tích từ 8 mẫu trầm tích bề mặt được thể hiện trong bảng 2, kết quả này là<br />
kết quả trung bình của 3 lần làm lặp lại. Các hình 2 và 3 mô tả sự phân bố hàm lượng %<br />
của các dạng kim loại và phân bố hàm lượng tổng của As, Cr trong 8 mẫu được lấy.<br />
Bảng 2. Kết quả phân tích hàm lượng các dạng kim loại và hàm lượng tổng (mg/kg)<br />
của As, Cr trong các mẫu trầm tích nghiên cứu.<br />
Vị trí mẫu SC01 SC02 SC03 SC04 SC05 SC06 SC07 SC08<br />
F1,2 0,57 0,47 0,63 1,49 0,54 1,87 2,33 0,64<br />
<br />
F3 3,17 1,73 2,55 2,05 1,79 2,61 5,11 3,43<br />
<br />
F4 3,20 3,50 7,66 8,88 5,42 2,75 3,61 12,35<br />
As 32,99 36,21 39,23 23,65 41,87 40,09 37,02 25,63<br />
F5<br />
Tổng 40,23 41,13 49,39 35,00 47,28 46,22 46,47 39,93<br />
Igeo 1,17 1,18 1,26 1,11 1,24 1,23 1,24 1,17<br />
%RAC 1,42 1,12 1,27 4,14 1,09 3,96 4,84 1,51<br />
F1,2 1,97 1,65 2,06 5,15 1,90 2,03 1,76 2,53<br />
<br />
F3 10,04 14,34 11,10 6,38 13,98 38,86 25,61 20,30<br />
Cr<br />
F4 7,90 0,93 10,98 2,97 6,21 5,20 13,38 13,13<br />
<br />
F5 92,32 99,67 79,65 67,33 42,90 44,05 75,47 50,20<br />
<br />
Tổng 110,36 114,51 101,87 79,95 62,64 88,79 119,49 84,96<br />
Igeo 0,32 0,34 0,29 0,18 0,08 0,23 0,36 0,21<br />
%RAC 1,75 1,41 1,98 6,30 2,93 2,25 1,51 2,93<br />
3.1. Hàm lượng các dạng kim loại của As và Cr<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Hình 2. Sự phân bố hàm lượng % các dạng kim loại trong trầm tích.<br />
Kết quả phân tích (hình 2) cho thấy As và Cr tồn tại chủ yếu ở dạng cặn dư F5 hay dạng<br />
bền vững nằm trong cấu trúc trầm tích (dạng F5 của As chiếm từ 61,0% -86,4%, còn Cr<br />
chiếm từ 48,9%-85,5%). Ngoài ra, As còn tìm thấy ở dạng liên kết hữu cơ F4 (chiếm từ<br />
5,8%-29,4%), dạng liên kết với với oxit của sắt và mangan F3 (chiếm từ 3,6%-10,6%).<br />
Đối với Cr thì ngoài dạng cặn dư cũng tìm thấy ở dạng F3 (chiếm từ 7,8% – 43,1%) và<br />
<br />
<br />
Tạp chí Nghiên cứu KH&CN quân sự, Số 55, 06 - 2018 141<br />
Hóa học & Kỹ thuật môi trường<br />
<br />
dạng F4 (chiếm 0,8% - 15,2%). Riêng dạng F1,2 (dạng trao đổi và liên kết với cacbonat)<br />
thì cả As và Cr đều chiếm 1 phần rất nhỏ, dưới 6,5%. Từ kết quả cho thấy sự phân bố các<br />
dạng kim loại của As tuân theo thứ tự dạng F5>F4>F3>F1,2 còn Cr tuân theo thứ tự dạng<br />
F5>F3>F4>F1,2. Kết quả này tương đương với các kết quả đã phân tích dạng kim loại của<br />
As, Cr trong trầm tích của một số sông, hồ trên thế giới như trong trầm tích cửa sông<br />
Dương Tử ở Trung Quốc [8], hồ Mangla ở Pakistan [9], sông Hoàng Hà, Bắc Trung Quốc<br />
[10]. Như vậy, cả hai kim loại này đều có xu hướng tích lũy trong trầm tích ở dạng bền<br />
vững, nằm trong cấu trúc của trầm tích nên mức độ linh động và khả năng ảnh hưởng đến<br />
hệ sinh thái sẽ không cao.<br />
3.2. Hàm lượng tổng của As, Cr<br />
Từ kết quả nghiên cứu (bảng 2 và hình 3) cho thấy hàm lượng tổng của Cr>As, hàm<br />
lượng Cr từ 62,64 – 119,49 mg/kg còn của As từ 35,00-49,39 mg/kg. Từ đồ thị hình 3 cho<br />
thấy sự phân bố hàm lượng Cr là không đồng đều tại các vị trí lấy mẫu, các vị trí SC02 và<br />
SC07 có hàm lượng Cr cao hơn so với các vị trí khác, còn tại vị trí SC05 và SC08 thì thấp<br />
hơn cả. Còn đối với As thì sự phân bố hàm lượng tổng lại khá đồng đều ở các vị trí lấy mẫu.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
.<br />
Hình 3. Phân bố hàm lượng tổng của As,Cr trong trầm tích nghiên cứu.<br />
3.3. Đánh giá mức độ ô nhiễm<br />
Để đánh giá mức độ ô nhiễm các kim loại nặng trong trầm tích nghiên cứu, chúng tôi<br />
dựa vào chỉ số tích lũy địa chất Igeo (Geoaccumulation index), chỉ số đánh giá rủi ro RAC<br />
(Risk Asessment Code) và theo quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng trầm tích<br />
(QCVN 43:2012/MTNMT). Igeo là giá trị được tính bằng cách so sánh hàm lượng tổng kim<br />
loại có trong mẫu với giá trị nền của kim loại đó trong vỏ Trái đất [8]. Chỉ số RAC được<br />
tính theo phần trăm của dạng trao đổi và dạng cacbonat [8]. Sự phân loại theo các chỉ số<br />
Igeo và RAC được chỉ ra trong bảng 3.<br />
3.3.1. Chỉ số tích lũy địa chất (Igeo)<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Hình 4. Giá trị Igeo của các kim loại.<br />
Các kết quả Igeo được chỉ ra trong bảng 2 và hình 4. Giá trị Igeo của As từ 1,11 đến 1,26<br />
và theo bảng phân loại thì ô nhiễm As trong trầm tích sông Cầu – Thái Nguyên ở mức<br />
<br />
<br />
142 P. T. T. Hà, …, N. T. A. Tuyết, “Phân tích dạng kim loại nặng … tỉnh Thái Nguyên.”<br />
Nghiên cứu khoa học công nghệ<br />
<br />
trung bình. Đối với Cr, giá trị Igeo trong khoảng 0,08-0,36 hay Igeo 50 Rất cao<br />
5 4 ≤ Igeo ≤ 5 Nặng rất nghiêm trọng<br />
6 Igeo > 5 Rất nghiêm trọng<br />
3.3.3. Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng trầm tích<br />
Theo QCVN 43:2012/BTNMT thì hàm lượng As trong trầm tích sông Cầu – Thái<br />
Nguyên vượt quá tiêu chuẩn cho phép (giới hạn cho phép của As trong trầm tích nước<br />
ngọt là 17 mg/kg), còn đối với Cr thì tại các vị trí SC01, SC02, SC03, SC07 đều có hàm<br />
lượng vượt quá tiêu chuẩn cho phép (giới hạn của Cr trong trầm tích nước ngọt là 90<br />
mg/kg).<br />
Như vậy, qua đánh giá mức độ ô nhiễm As, Cr theo Igeo, RAC và QCVN 43:2012 cho<br />
thấy nếu đánh giá theo hàm lượng tổng (Igeo, QCVN) thì trầm tích sông Cầu – Thái Nguyên<br />
đã bị ô nhiễm As và Cr, tuy nhiên mức độ rủi do đối với hệ sinh thái của As và Cr lại ở mức<br />
thấp (theo RAC) do As, Cr tồn tại chủ yếu nằm trong cấu trúc trầm tích đây là dạng rất bền<br />
vững, khó bị hòa tan vào nước cũng như bị hấp thu bởi sinh vật. Từ kết quả khẳng định việc<br />
đánh giá mức độ ô nhiễm nếu chỉ xác định theo hàm lượng tổng sẽ không đầy đủ và chính<br />
xác, việc xác định dạng tồn tại và đánh giá mức độ ô nhiễm theo dạng tồn tại của kim loại là<br />
rất cần thiết.<br />
4. KẾT LUẬN<br />
Chúng tôi đã áp dụng quy trình chiết đơn dựa trên quy trình của BCR và Tessier để xác<br />
định 04 dạng tồn tại của As, Cr trong trầm tích bề mặt lưu vực sông Cầu trên địa bàn tỉnh<br />
Thái Nguyên.<br />
<br />
<br />
Tạp chí Nghiên cứu KH&CN quân sự, Số 55, 06 - 2018 143<br />
Hóa học & Kỹ thuật môi trường<br />
<br />
Phần lớn kim loại As, Cr tồn tại ở dạng cặn dư (F5), ngoài ra chiếm một phần nhỏ ở<br />
dạng F3 và F4. Hàm lượng tổng của Cr>As, sự phân bố hàm lượng Cr theo các vị trí lấy<br />
mẫu dọc sông Cầu – Thái Nguyên là không đồng đều, còn As lại khá đồng đều tại các vị<br />
trí nghiên cứu.<br />
Đánh giá mức độ ô nhiễm của As, Cr trong trầm tích bề mặt thuộc lưu vực sông Cầu<br />
đoạn chảy qua tỉnh Thái Nguyên cho thấy trầm tích bề mặt tại đây ô nhiễm As ở mức độ<br />
trung bình; còn Cr ở mức nhẹ; mức độ rủi ro đối với hệ sinh thái của cả hai kim loại đều ở<br />
mức thấp.<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
[1]. Dương Thị Tú Anh, Cao Văn Hoàng, “Xác định đồng thời hàm lượng vết Zn(II),<br />
Cd(II), Pb(II) và Cu(II) trong trầm tích lưu vực Sông Cầu-Thành phố Thái Nguyên”,<br />
Tạp chí Khoa học Công nghệ Việt Nam –Bộ Khoa học và Công nghệ, Tập 8, Số 651<br />
(2013), tr. 57-60.<br />
[2]. Phạm Thị Thu Hà, Vũ Đức lợi, “Phân tích dạng kim loại chì trong trầm tích cột thuộc<br />
lưu vực sông Cầu – tỉnh Thái Nguyên”,Tạp chí Khoa Học và Công nghệ, Tập 53, Số<br />
6A (2015), tr. 209-219.<br />
[3]. Phạm Thị Thu Hà, Vũ Đức lợi, Lê Lan Anh, Vũ Xuân Hòa, Dương Tuấn Hưng,<br />
“Phân tích dạng kim loại cadimi và sự phân bố của chúng trong các cột trầm tích<br />
thuộc lưu vực sông Cầu – tỉnh Thái Nguyên”, Tạp chí Hóa học, Tập 54, Số 6e2<br />
(2016), tr. 189-195.<br />
[4]. Phạm Thị Thu Hà, Vũ Xuân Hòa, Bùi Minh Quý, Vương Trường Xuân, “Phân tích<br />
dạng một số kim loại Fe, Co, Mn, Ni trong trầm tích bề mặt thuộc lưu vực sông cầu –<br />
tỉnh thái nguyên theo phương pháp chiết đơn”, Tạp chí Khoa học & Công nghệ, đại<br />
học Thái Nguyên, Tập 169, Số 09 (2017), tr. 23 – 27.<br />
[5]. Canepari S., Cardarelli E., Ghighi S., Scimonelli L., “Ultrasound and microwave-<br />
assisted extraction of metals from sediment: a comparison with the BCR procedure”,<br />
Talanta, Vol. 66 (2005), pp. 1122–1130.<br />
[6]. Vũ Đức Lợi, Nguyễn Thanh Nga, Trịnh Anh Đức, Phạm Gia Môn, Trịnh Hồng Quân,<br />
Dương Tuấn Hưng, Trần Thị Lệ Chi, Dương Thị Tú Anh, “Phân tích dạng một số<br />
kim loại nặng trong trầm tích thuộc lưu vực sông Nhuệ và Đáy”,Tạp chí phân tích<br />
Hoá, Lý và Sinh học, Tập 15, Số 4 (2010), tr. 26-33.<br />
[7]. Muhammad B. A., Tasneem G. K., Muhammad K. J., Nusrat J., Hassan I. A., Jameel<br />
A. B.,“Speciation of heavy metals in sediment by conventional, ultrasound and<br />
microwave assisted single extraction methods: A comparison with modified<br />
sequential extraction procedure”, Journal of Hazardous Materials, Vol. 154 (2008),<br />
pp. 998–1006.<br />
[8]. Shou Zhao, Chenghong Feng, Yiru Yang, Junfeng Niu, Zhenyao Shen, “Risk<br />
assessment of sedimentary metals in the Yangtze Estuary: New evidence of the<br />
relationships between two typical index methods”, Journal of Hazardous<br />
Materials, Vol. 241– 242 (2012), pp. 164 – 172.<br />
[9]. Muhammad Saleem, Javed Iqbal, Munir H. Shah, “Geochemical speciation,<br />
anthropogenic contamination, risk assessment and source identification of selected<br />
metals in freshwater sediments—A case study from Mangla Lake, Pakistan”,<br />
Environmental Nanotechnology, Monitoring & Management, Vol. 4 (2015), pp.<br />
27–36.<br />
[10]. Xiaoling Ma, Hang Zuo, Mengjing Tian, Liyang Zhang, Jia Meng, Xuening Zhou,<br />
Na Min, Xinyuan Chang, Ying Liu, “Assessment of heavy metals contamination in<br />
sediments from three adjacent regions of the Yellow River using metal chemical<br />
<br />
<br />
<br />
144 P. T. T. Hà, …, N. T. A. Tuyết, “Phân tích dạng kim loại nặng … tỉnh Thái Nguyên.”<br />
Nghiên cứu khoa học công nghệ<br />
<br />
fractions and multivariate analysis techniques”, Chemosphere, Vol. 144 (2016),<br />
264-272.<br />
ABSTRACT<br />
SPECIATION OF HEAVY METAL (As, Cr) IN SURFACE SEDIMENTS<br />
OF CAU RIVER BASIN – THAI NGUYEN PROVINCE<br />
A single extraction procedure was applied to determine the metals partitioning<br />
of Asen (As) and Crom (Cr) in the surface sediment samples collected at Cau river,<br />
located in Thai Nguyen province. The results showed that As and Cr were found<br />
mainly in the residual fraction and associated with iron - manganese oxide fraction,<br />
organic fraction. The total content followed the order: Cr>As, the distribution of<br />
the total content of As was quite similar in all sampling locations, while Cr was<br />
uneven. The contamination levels of four the metals in the studied sediment was<br />
assessed by the geoaccumulation index (Igeo), Risk Assessment Code (RAC) and<br />
National Technical Regulation on Sediment Quality (QCVN 43:2012/BTNMT).<br />
Keywords: Single extraction; Speciation of metals; Sediment; As; Cr; ICP-MS.<br />
<br />
Nhận bài ngày 17 tháng 01 năm 2018<br />
Hoàn thiện ngày 23 tháng 3 năm 2018<br />
Chấp nhận đăng ngày 08 tháng 6 năm 2018<br />
<br />
Địa chỉ: 1 Trường Đại học Khoa học – Đại học Thái Nguyên;<br />
2<br />
Trường Đại học Y Dược – Đại học Thái Nguyên.<br />
*<br />
Email: haptt@tnus.edu.vn.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Tạp chí Nghiên cứu KH&CN quân sự, Số 55, 06 - 2018 145<br />