intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Phật giáo Hoa Nam trong hành trình mở đất phương Nam thế kỉ XVII

Chia sẻ: ViVatican2711 ViVatican2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

56
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Phật giáo Hoa Nam du nhập vào Đàng Trong hồi thế kỉ XVII ở nước ta. Các chúa Nguyễn như Nguyễn Hoàng, Nguyễn Phúc Chu... không chỉ là những vị vua có công khai hóa vùng đất mới mà còn là những Phật tử chân chính đã khéo léo vận dụng Phật giáo vào việc an dân hộ quốc, khiến cho hai tông phái Lâm Tế và Tào Động từ Trung Quốc truyền sang hòa nhập được với tư tưởng Phật giáo bản địa mang tính phổ quát.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Phật giáo Hoa Nam trong hành trình mở đất phương Nam thế kỉ XVII

TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 33 (58) - Thaùng 10/2017<br /> <br /> <br /> <br /> Phật giáo Hoa Nam trong hành trình<br /> mở đất phương Nam thế kỉ XVII<br /> Hoa Nam Buddhism during the period of Vietnamese advance<br /> to the South in the 17th century<br /> <br /> ThS. Đặng Thị Đông,<br /> Chùa Linh Quang, Hưng Yên<br /> <br /> Dang Thi Dong, M.A.,<br /> Linh Quang Pagoda, Hung Yen Province<br /> <br /> Tóm tắt<br /> Phật giáo Hoa Nam du nhập vào Đàng Trong hồi thế kỉ XVII ở nước ta. Các chúa Nguyễn như Nguyễn<br /> Hoàng, Nguyễn Phúc Chu... không chỉ là những vị vua có công khai hóa vùng đất mới mà còn là những<br /> Phật tử chân chính đã khéo léo vận dụng Phật giáo vào việc an dân hộ quốc, khiến cho hai tông phái<br /> Lâm Tế và Tào Động từ Trung Quốc truyền sang hòa nhập được với tư tưởng Phật giáo bản địa mang<br /> tính phổ quát. Bên cạnh đó, dòng chảy của Thiền phái Trúc Lâm cùng tín ngưỡng bản địa cũng hòa<br /> nhập với Phật giáo Nguyên Thủy và Đại Thừa đã mang những giá trị tốt đẹp khi vào nước ta.<br /> Từ khóa: Phật giáo Hoa Nam, Đàng Trong, thế kỉ XVII, chúa Nguyễn, vùng đất mới, vận dụng Phật<br /> giáo vào việc an dân hộ quốc.<br /> Abstract<br /> Hoa Nam Buddhism was introduced to the South of our country in the 17th century. Nguyen Lords such<br /> as Nguyen Hoang and Nguyen Phuc Chu were regarded not only as heroes for discovering new lands<br /> but also as genuine monks. They smartly used Buddhism to reassure the people and enrich the country,<br /> which merged Lam Te and Tao Dong sects from China with local Buddhism. Besides, Truc Lam sect as<br /> well as native religion merged with original Buddhism and Mahayana which brought good values to our<br /> country.<br /> Keywords: Hoa Nam Buddhism, the South, the 17th century, Nguyen Lords, new land, using Buddhism<br /> to reassure the people.<br /> <br /> <br /> 1. Mở đầu bên ngoài trong đó có tư tưởng Phật giáo,<br /> Phật giáo xuất phát từ Ấn Độ, truyền nhưng khi vào Việt Nam đều được bản địa<br /> vào nước ta từ đầu thế kỷ thứ nhất Tây hóa cho phù hợp với con người và hoàn<br /> lịch, được nhân dân Việt Nam tiếp biến và cảnh dân tộc Việt. Phật giáo Hoa Nam thế<br /> hội nhập trên mọi phương diện. Lịch sử kỷ XVII dưới thời nhà Nguyễn trong hành<br /> dân tộc Việt Nam gắn liền với lịch sử Phật trình mở đất phương Nam cũng vậy. Phật<br /> giáo Việt Nam, như Giáo sư Trần Văn giáo dưới thời nhà Nguyễn mở đất phương<br /> Giàu nhận định: “Bình minh của dân tộc ta Nam nhập thế tích cực, mang tính phổ<br /> gắn liền với Phật giáo” [4; tr.15]. Việt Nam quát, pha trộn giữa tư tưởng Đại Thừa với<br /> là một dân tộc có nền văn hóa phong phú, hai tông phái Thiền Lâm Tế và Tào Động<br /> không giáo điều, tiếp thu nhiều tư tưởng từ Trung Hoa kết hợp tư tưởng Thiền Trúc<br /> <br /> 112<br /> ĐẶNG THỊ ĐÔNG<br /> <br /> <br /> Lâm có từ đời Trần giúp nhà Nguyễn ngay nhiều Thiền sư đã phát triển vùng đất mới<br /> từ thời kỳ đầu đã làm rất tốt công tác ổn bằng con đường hòa bình dựa trên Phật<br /> định vùng đất mới. Công lao có được là do pháp, tiêu biểu là: Thiền sư như Tăng<br /> các vua chúa, nhân dân trên dưới một lòng thống Chân Nguyên, Thiền sư Huệ Hồng,<br /> đoàn kết, các Thiền sư Trung Hoa cũng Thiền sư Như Sơn, Thiền sư Hương Hải,<br /> như các Thiền sư trong nước hết lòng Đạo Chân, Đạo Tâm, Chuyết Công Hòa<br /> phụng sự đạo pháp, dân tộc. Sự giao thoa Thượng, Thủy Nguyệt Thông Giác, Tông<br /> văn hóa Phật giáo giữa hai nước Việt- Diễn, Như Hiện, Như Trừng, Tính Dược…<br /> Trung thế kỷ XVII mang nhiều nét đặc sắc Kế tiếp có các Thiền sư: Toàn Nhật, Tính<br /> đã giúp cho nước nhà ổn định phía Bắc, Tĩnh, Tính Tuyền, Hải Quýnh – Từ Phong,<br /> phát triển và mở rộng bờ cõi về phía Nam. Kim Liên Tịnh Tuyền, Tường Quang<br /> 2. Nội dung Chiếu Khoan, Phúc Điền, Phổ Tịnh, Thông<br /> 2.1. Nguyên nhân Phật giáo Việt Nam Vinh, Nguyên Thiều, Liễu Quán... Trước<br /> giao thoa với Phật giáo Trung Quốc Ngài Liễu Quán phần nhiều các Thiền sư ở<br /> thế kỷ XVII Đàng Trong là người Trung Hoa. Vì vậy,<br /> Thời đại chuyển tiếp giữa hai triều Phật giáo Việt Nam thời kì này hội nhập,<br /> Minh - Thanh, nhiều cao tăng Trung Hoa giao thoa tư tưởng Phật giáo với Trung<br /> đã tới Ðàng Trong hành hóa. Một phần Hoa rất sâu sắc.<br /> quan trọng của những Tổ đình Việt Nam 2.2. Tư tưởng Phật giáo Hoa Nam<br /> hiện nay là do các Thiền sư Trung Hoa trong hành trình mở đất phương Nam<br /> sáng lập. Phật giáo Trung Quốc đầu nhà thế kỷ XVII<br /> Thanh khởi sự từ năm 1616. Năm 1662, Giai đoạn nhà Nguyễn trị vì trong cuộc<br /> nhà Thanh thắng được nhà Minh và thống mở đất phương Nam, Trung Quốc cũng<br /> nhất lãnh thổ Trung Quốc. Vào năm Kỷ loạn lạc, nhiều cao tăng sang Việt Nam,<br /> Mùi (1679), “hơn 50 chiến thuyền và hơn nước ta có thêm nhiều tôn phái mới.<br /> 3.000 quân sang đóng ngoài cửa Tư Dung 2.2.1. Phật giáo hòa nhập trong tư<br /> (Tư Hiền) để hàng chúa Nguyễn Phúc Tần” tưởng Đạo pháp - Dân tộc<br /> [3; tr.62]. Chúa Nguyễn Phúc Tần cho Thuận Hoá (bao gồm cả Quảng Trị và<br /> phép Phú Xuân tiếp nhận các vị Thiền sư Thừa Thiên Huế ngày nay) chịu ảnh hưởng<br /> từ Trung Quốc từ đường biển đổ bộ vào của Tam giáo và tín ngưỡng dân gian, đặc<br /> cửa Tư Dung. Trong hoàn cảnh vượt biển biệt là Phật giáo. Phật giáo Thuận Hóa<br /> để tránh đao kiếm đã có nhiều Thiền sư mang tính phổ quát. Tín ngưỡng Thuận Hóa<br /> trong phái Thiền Lâm Tế, Tào Động bên tuy có tín thờ mẫu nhưng rất ít. Có thể<br /> Trung Quốc đi theo tàu buôn Quảng Đông khẳng định, tín ngưỡng Phật giáo của Thuận<br /> sang Nam Hà hoằng hóa Phật giáo. Phật Hóa hơn hẳn Phật giáo Bắc Hà lúc bấy giờ<br /> giáo nước ta trong khoảng thế kỷ XVII có vì Phật giáo Bắc Hà còn ảnh hưởng lớn bởi<br /> nhân duyên được giao thoa, tiếp xúc mạnh hệ tư tưởng Nho giáo của Khổng Tử.<br /> với tư tưởng Phật giáo Trung Quốc từ Tín ngưỡng nước ta “thờ cúng ông bà,<br /> những hoàn cảnh xã hội như vậy. Ngọc Hoàng Thượng đế, Thái Thượng Lão<br /> Tư tưởng Phật giáo thời chúa Nguyễn quân, Phật tổ. Và tư tưởng Tam giáo đồng<br /> Phúc Chu phía Đàng Trong được thiết lập nguyên (Nho, Phật, Lão (Đạo) đã có từ<br /> bởi các ngài Thạch Liêm, Nguyên Thiều, khoảng thế kỷ thứ II” [13; tr.57]. Nhưng cư<br /> Liễu Quán. Thời Nguyễn Phúc Chu, rất dân Thuận Hóa không biết đến Nho, Đạo<br /> <br /> 113<br /> PHẬT GIÁO HOA NAM TRONG HÀNH TRÌNH MỞ ĐẤT PHƯƠNG NAM THẾ KỈ XVII<br /> <br /> <br /> vì đất mới này là vùng biên ải. Các chúa Hưng Liên và Thạch Liêm thuộc phái thiền<br /> Nguyễn nhận ra Phật giáo với tư tưởng từ Tào Ðộng.<br /> bi, cứu khổ, vô ngã, vị tha phù hợp với tư Lâm Tế là nhánh Thiền Nam tông của<br /> tưởng cư dân nơi đây. Bởi vậy, nhà tổ sư Nghĩa Huyền ở Trung Hoa truyền vào<br /> Nguyễn ngay từ đầu đã dùng tư tưởng Phật Việt Nam thế kỉ 17, phát triển mạnh tại<br /> pháp để thu phục lòng người, ổn định xã Đàng Trong. Sau này, ngài Nguyên Thiều<br /> hội. Chúa Nguyễn Hoàng thường thi hành lập nên các dòng truyền thừa theo phả hệ<br /> chính sự một cách khoan dung. Thiền sư Thập Tháp và Quốc Ân; ngài Pháp Bảo lập<br /> Thạch Liêm tổ chức kinh tế tự túc trong nên hệ Chúc Thánh. Ngài Nguyên Thiều có<br /> chùa. Ngài dùng thi văn, hội họa, chữ viết, công rất lớn đối với Phật giáo và nước ta<br /> thủ công, tích cực nhập thế. Chúa Nguyễn dưới thời nhà Nguyễn mở đất phương<br /> Phúc Chu nhiệt thành mang đạo vào đời, Nam. Phái Lâm Tế ở Trung kỳ coi ngài là<br /> gần gũi tư tưởng Trần Nhân Tông lấy tinh Sơ tổ. Phật giáo vào Trung Hoa, phân chia<br /> thần Phật pháp định hướng cho đời sống nhiều tôn phái, Thiền Tông cũng chia ra<br /> dân tộc. Khi chúa Nguyễn xây ngôi chùa nhiều nhánh nên Ngài Nguyên Thiều cũng<br /> đầu tiên – chùa Thiên Mụ (1601), thì có hai danh hiệu: Nguyên Thiều và Siêu<br /> “trước kia trên gò vẫn có chùa thờ Phật” Bạch. Ngài Nguyên Thiều mời được Thạch<br /> [15; tr.96]. Chùa thứ hai là Sùng Hóa Liêm Hòa thượng sang nước ta theo sự đề<br /> (1602), “di tích chùa cổ, sửa chữa lại và nghị của chúa Nguyễn. Cùng với các chúa<br /> cho tên hiện nay” [15; tr.241]. Như vậy, Nguyễn, hai Ngài Nguyên Thiều và Thạch<br /> khi Chúa Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Liêm rất có công đem tư tưởng Phật giáo<br /> Thuận Hóa, nơi đây vốn có nhiều nét Phật Trung Quốc tiếp xúc với văn hóa Đại Việt<br /> giáo Nguyên thủy của vương quốc Chăm- trên tinh thần tiếp biến và ứng dụng tại<br /> pa nhưng các tư tưởng Phật giáo Đại thừa vùng đất mới.<br /> của Đại Việt vẫn chiếm ưu thế. Tư tưởng Thiền Lâm Tế chú trọng đến<br /> 2.2.2. Tiếp thu tư tưởng Thiền Phái pháp thân thanh tịnh, vắng lặng không phải<br /> Lâm Tế là không mà là lý “chân không diệu hữư”.<br /> Vào thế kỷ thứ 17 tại Ðàng Trong, Đó chính là tư tưởng Thiền với tánh không<br /> được sự cho phép của các chúa Nguyễn, sáng suốt, rộng lớn, không dính mắc, thanh<br /> nhiều Thiền sư đã xuất hiện và hoằng đạo tịnh trong mọi hoàn cảnh, không phân biệt,<br /> như: Viên Cảnh và Viên Khoan ở Quảng thường còn bất biến. Tư tưởng Thiền của<br /> Trị, Minh Hoằng (chùa Ấn Tôn), Giác ngài Nguyên Thiều thuộc phái Lâm Tế có<br /> Phong (chùa Thiên Thọ), Từ Lâm (chùa Từ thể được tóm gọn trong bài kệ:<br /> Lâm) ở Thuận Hóa; Pháp Bảo (chùa Chúc Tịch tịch kỉnh vô ảnh,<br /> Thánh) và Quốc sư Hưng Liên (chùa Tam Minh minh châu bất dung.<br /> Thai) ở Quảng Nam; Pháp Hóa (chùa Đường đường vật phi vật,<br /> Thiên Ấn) ở Quảng Ngãi; Tế Viên (chùa Liêu liêu không vật không.<br /> Hội Tông) ở Phú Yên; Nguyên Thiều (chùa Đại ý:<br /> Thập Tháp Di Ðà) ở Bình Ðịnh và chùa Lặng lẽ gương không chiếu bóng<br /> Quốc Ân, chùa Hà Trung, Thạch Liêm Sáng trưng ngọc chẳng thâu hình<br /> (chùa Thiền Lâm) ở Thuận Hóa... Nhìn Rõ ràng vật không phải vật<br /> chung, các Thiền sư khai sơn tất cả đều Minh mông không chẳng là không<br /> thuộc phái thiền Lâm Tế, chỉ trừ hai vị [6; tr.590].<br /> <br /> 114<br /> ĐẶNG THỊ ĐÔNG<br /> <br /> <br /> Nếu thiền sư Chân Nguyên được xem thuộc về giòng Lâm Tế, mà ngài Liễu<br /> là nhân vật then chốt để phục hưng Ðàng Quán là người có công khai hóa hơn hết.<br /> Ngoài, thì Phật giáo Ðàng Trong, ở vị trí 2.2.3. Tiếp thu tư tưởng Thiền Phái<br /> thiền sư, Liễu Quán cũng vậy. Ngài là đời Tào Động<br /> thứ 35 giòng Lâm Tế chánh tôn, khai sơn Tào Động là dòng thiền xuất phát từ<br /> chùa Thiên Thai Thiền Tôn ở Huế. Thiền Trung Quốc, do Ngài Tào Sơn Bản Tịch<br /> sư Liễu Quán từng tham cầu với Ngài (840-901) và Động Sơn Lương Giới (807-<br /> Thạch Liêm Hòa thượng và được ngài Tử 869) sáng lập, truyền vào Việt Nam từ thế<br /> Dung ấn chứng. Một trong những công án kỷ XII, ảnh hưởng ở cả hai miền Nam Bắc.<br /> nổi tiếng ngài Tử Dung truyền dạy là “Vạn “Ở miền Bắc (Đàng Ngoài), cuối thế kỷ XII<br /> pháp qui nhất, nhất qui hà xứ?” (Muôn và trong thế kỷ XIII, dòng thiền Tào Động<br /> pháp về một, một về chỗ nào?). Ngài Liễu đã có những ảnh hưởng to lớn và nó còn<br /> Quán nhân đọc truyện Truyền đăng lục đến ảnh hưởng đến tận ngày nay, nhiều chùa ở<br /> câu: “Chỉ vật truyền tâm, nhân bất hội xứ?” Hà Nội như: Trấn Quốc, Hàm Long, Hòe<br /> mà được tỏ ngộ. Nhai... đến nay vẫn xem là truyền thừa của<br /> Tư tưởng Thiền của Ngài Liễu Quán dòng này” [14; tr.395-396 ].<br /> được thâu tóm trong bài kệ: Thiền sư Động Sơn Lương Giới tham<br /> Thất thập dư niên thế giới trung, yết Thiền sư Nam Tuyền Phổ Nguyện (748<br /> Không không sắc sắc duyệt dung thông. - 834), Quy Sơn Linh Hựu (771 - 853), đắc<br /> Kim triêu nguyện mãn hoàn gia lý, pháp Thiền sư Vân Nham Đàm Thịnh (782<br /> Hà tất bôn man vấn tổ tông. - 814). Về sau, Thiền sư Động Sơn Lương<br /> Đại ý: Giới khai pháp ở Động Sơn, Giang Tây,<br /> Ngoài bảy mươi năm trong thế giới, hoằng dương thiền pháp, đệ tử nối pháp có<br /> Không không sắc sắc thảy dung thông. Tào Sơn Bản Tịch... Thiền sư Bản Tịch cầu<br /> Ngày nay nguyện mãn về nơi cũ, pháp và đắc pháp nơi Thiền sư Lương Giới<br /> Nào phải ân cần hỏi tổ tông rồi ngài khai pháp tại Cát Thủy, Phủ Châu,<br /> [6; tr.603]. đổi tên là Tào Sơn, xiển dương thiền học:<br /> Đây cũng vẫn là tư tưởng chân không “Về sau, Động Sơn, Tào Sơn thiền càng<br /> diệu hữu, pháp thân thanh tịnh, thể tánh thịnh, môn đồ bèn hợp nhất xưng là tông<br /> sáng suốt, vắng lặng mà tròn đầy, dung Tào Động” [16; tr.347]. Vào thế kỉ 17,<br /> chứa vạn pháp, là “không không sắc sắc dòng Thiền Tào Động từ Trung Hoa truyền<br /> thể dung thông”. Tư tưởng của Thiền sư vào Việt Nam, ảnh hưởng cả ở Ðàng Ngoài<br /> Liễu Quán đã làm cho thiền phái Lâm Tế lẫn Ðàng Trong.<br /> trở thành một thiền phái linh động. Vì Tại xứ Đàng Trong Ðại Việt, người<br /> trước Ngài, Phật giáo Ðàng Trong mang đầu tiên truyền bá thiền Tào Ðộng là thiền<br /> nặng màu sắc Quảng Ðông. Ngài cũng đã sư Hưng Liên, lập đạo tràng ở chùa Tam<br /> Việt hóa thiền phái Lâm Tế, làm cho thiền Thai Quảng Nam. Nhưng người có công<br /> phái này trở thành thiền phái của đa số lớn nhất trong công việc truyền bá, tạo sự<br /> Phật tử Ðàng Trong. Tư tưởng Thiền của phát triển cho Thiền phái Tào Động ở<br /> Ngài cũng khiến cho lễ nhạc bắt đầu trút bỏ Đàng Trong là Thiền sư Thạch Liêm (1633<br /> màu sắc Trung Quốc và dần dần nhuốm - 1704), người Giang Tây. Thạch liêm còn<br /> màu sắc dân tộc. Ngày nay, Tăng đồ và tín viết cuốn Kim cương trực sớ mà Phật tử<br /> đồ ở miền Trung và miền Nam hầu hết là miền Nam đặc biệt coi trọng.<br /> <br /> 115<br /> PHẬT GIÁO HOA NAM TRONG HÀNH TRÌNH MỞ ĐẤT PHƯƠNG NAM THẾ KỈ XVII<br /> <br /> <br /> Tào Động là một trong 5 tông phái trở thành tự tính của mọi người, thấy được<br /> (Lâm Tế, Quy Ngưỡng, Tào Động, Vân Phật A Di Ðà tức là thấy được tự tính của<br /> Môn, Pháp Nhãn), xuất phát từ Thiền Tào chính mình. “Nho - Phật nhất trí” là<br /> Khê của Lục tổ Tuệ Năng (638 - 713) phương pháp bỏ hết căn trần, không lập<br /> Trung Hoa. Trong đó, ba tông Tào Động, văn tự, chỉ thẳng lòng người, thấy tính<br /> Vân Môn và Pháp Nhãn theo hệ của Thiền thành Phật, nhập thế tích cực, an lạc trong<br /> sư Thanh Nguyên Hành Tư đệ tử của Lục mọi hoàn cảnh, ở đâu cũng có thể tu được.<br /> Tổ Tuệ Năng. Tào Động chủ trương về “Lâm Tào tổng hợp” là Lâm Tế và Tào<br /> Ngũ vị (Năm vị) vốn do Thiền sư Lương Động dung hòa, là phương tiện vào cửa<br /> Giới đề xuất và Thiền sư Bản Tịch đã bổ đạo. Tư tưởng Lâm Tào tổng hợp thể hiện<br /> sung và hệ thống hóa. Có hai loại năm vị là: thông qua việc: Thiền sư Nguyên Thiều<br /> Năm vị Chánh thiên và Năm vị Công huân. phái Lâm Tế khi thỉnh các danh Tăng từ<br /> Năm vị Chánh thiên là Chánh trung Trung Hoa về khai giới đàn tại chùa Thiên<br /> thiên, Thiên trung chánh, Chánh trung lai, Mụ (có mặt ngài Thạch Liêm phái Tào<br /> Thiên trung Chí và Kiêm trung đáo. Chánh Động); Thiền sư Hương Hải ở Ðàng Trong,<br /> là âm, ý tức chỉ cho bản thể của chân như. sau ra Ðàng Ngoài để hành đạo. Phật giáo<br /> Thiên là dương, ý tức chỉ cho hiện tượng thời đại chúa Nguyễn Phúc Chu được thiết<br /> của sinh diệt. Chánh Trung Thiên là chỉ định bởi các ngài Thạch Liêm, Nguyên<br /> cho trong bình đẳng còn có sai biệt. Thiên Thiều, Liễu Quán ở xứ Đàng Trong; và các<br /> Trung Chánh là chỉ cho sai biệt tức là bình ngài Minh Châu Hương Hải, Chân<br /> đẳng. Tạo công phu tu hành của động ở Nguyên, Toàn Nhật... ở Đàng Ngoài. Thời<br /> trong tĩnh. Tĩnh ở trong động. Gồm cả hai chúa Nguyễn Phúc Thái, Thiền phái Lâm<br /> thứ trên, đạt được cảnh giới tự do tự tại. Tế và Thiền phái Tào Động đã đến xứ<br /> Năm vị Công huân là Hướng, Phụng, Đàng Trong hoằng dương chánh pháp.<br /> Công, Cộng công và Công công, (tức nhận Chủ trương “Ngũ vị” của Tào Động<br /> biết về chúng sinh vốn gồm đủ Phật tánh, được các Thiền sư Việt Nam thuộc phái<br /> cầu đạt quả Phật (Hướng), nhằm chứng Tào Động tiếp biến và thích nghi, phát<br /> Phật tánh nên tu hành (Phụng), thấy Phật triển cho phù hợp: Từ việc ngồi thiền, đạt<br /> tánh (Công). Tuy đã đạt vị giác của tự do, đạo, chứng đắc, giác ngộ, sau này tông Tào<br /> nhưng hãy còn có tác dụng (Cộng công). Động hình thành phương pháp tu tập là<br /> Sau cùng, lại siêu việt các thứ trước, đạt ngồi thiền không cần chủ đề thiền, ngồi<br /> đến cảnh giới tự do tự tại (Công công) [11; thiền và đạt đạo là một, không vướng chấp<br /> tr.1088 ]. nơi đối tượng chứng đắc, không chấp vào<br /> 2.2.4. Tư tưởng Phật giáo mang tính đối tượng giác ngộ, thân tâm là một.<br /> dung hòa Những nguyên tắc phát triển đó dần dần<br /> Có thể thấy, “tư tưởng thiền của Thiền được áp dụng trong các thiền phái khác,<br /> sư Thạch Liêm gồm ba điểm chính là: trong đó Lâm Tế cũng chịu ảnh hưởng.<br /> Thiền tịnh song tu, Nho Phật nhất trí và Thiền sư Phân Dương của phái Lâm Tế<br /> Lâm - Tào (Lâm Tế - Tào Động) tổng hợp” cũng đã sử dụng khái niệm về năm vị trí<br /> [5; tr.229 - 236]. “Thiền Tịnh Song Tu” tức giữa “cái thẳng và cái nghiêng”, “vô đắc”<br /> Thiền tông và Tịnh độ được phối hợp làm của Tào Động; ngược lại, lối dùng thoại<br /> một. Tịnh độ là phương pháp hành thiền đầu của Lâm Tế cũng được áp dụng trong<br /> đại chúng có thể dễ tu tập. Phật A Di Ðà thiền phái Tào Ðộng.<br /> <br /> 116<br /> ĐẶNG THỊ ĐÔNG<br /> <br /> <br /> Thiền của Hương Hải đã làm cho tư Ánh sáng chân chính của đạo Pháp<br /> tưởng thiền Tào Động thêm phong phú với biến thành những hành động tích cực, tốt<br /> tư tưởng không chạy trốn sự vật, giới luật đẹp, thiện pháp, không chỉ cho cá nhân mà<br /> cao nhất là sự vô tâm, thành Phật ngay còn lan rộng ra cả xã hội, tạo nên sức mạng<br /> trong giờ phút hiện tại. Lâm Tào tổng hợp đoàn kết để an dân hộ quốc dưới thời nhà<br /> của Ngài Thạch Liêm là một minh chứng Nguyễn. Phật giáo luôn đồng hành với dân<br /> về sự dung hòa hai Thiền phái này rất rõ tộc. Điểm này dễ dàng nhận thấy trong<br /> ràng trên phương diện tướng hữu vi. những thời đại hưng thịnh của đất nước<br /> Có thể nhận thấy, vào thế kỷ XVII, khi như Đinh, Lê, Lý, Trần với vị trí quan<br /> phái Tào Ðộng truyền sang Ðại Việt thì trọng của các Thiền sư được triều đại đó<br /> những khác biệt giữa hai tông phái Lâm Tế ủng hộ. Các chúa Nguyễn và các vị Thiền<br /> và Tào Động hình như không còn khoảng sư xác định “Phật giáo tại thế gian không<br /> cách nữa mà cùng dung hòa để khai thác lìa thế gian mà giác ngộ” nên đã đưa Phật<br /> nội tâm, chủ trương giác ngộ là con đường giáo hòa chung với văn hóa dân tộc dựa<br /> đi vào một cách tự nhiên, lục căn xúc với trên tinh thần từ bi hỷ xả, vô ngã, vị tha;<br /> trần cảnh tiếp xúc như đi vào ngôi nhà rỗng khẳng định tính năng động tùy duyên<br /> không, chẳng có gì ràng buộc, chấm dứt nhưng bất biến của Phật giáo và màu sắc<br /> sinh tử “ngay tại đây và bây giờ”. Ngôn văn hóa riêng của nước nhà.<br /> ngữ, chỉ là phương tiện, quan trọng là dĩ Phật giáo Hoa Nam thế kỷ XVII trên<br /> tâm truyền tâm, dĩ mục truyền mục. Cả hai vùng đất mới đạt được nhiều thành tựu<br /> phái ít ưa lý luận về triết học, chú trọng quan trọng trong việc an dân hộ quốc, kiện<br /> điều tâm ý vào việc thiền quán, nhận thức toàn quốc gia trên tinh thần tư tưởng: tức<br /> về liên hệ giữa Phật và chúng sinh, giữa tâm tức Phật, nhập thế tích cực, coi trọng<br /> tâm và cảnh, mê và ngộ, thiện và ác. Các nhân tâm, đề cao Phật giáo chân chính, tiếp<br /> thiền sư giữa hai phái cũng có sự hợp tác thu và phát huy các tư tưởng tích cực của<br /> trên nhiều phương diện tư tưởng và các Phật giáo truyền thống, dung nạp ba yếu tố<br /> chúa Nguyễn cũng hết sức ủng hộ. Tịnh, Thiền, Mật, dung hòa tín ngưỡng<br /> 2.3. Vai trò của Phật giáo Hoa Nam theo quan điểm tự độ độ tha, tự giác và<br /> đối với vấn đề an dân hộ quốc giác tha...<br /> Nhà Nguyễn luôn lấy tư tưởng tích cực Với sự ảnh hưởng, tác động qua lại lẫn<br /> của đạo Phật để xây dựng, ổn định và mở nhau giữa hai Thiền phái Tào Động và<br /> rộng bờ cõi. Đặt chân lên vùng đất mới, Lâm Tế và kế thừa tư tưởng Thiền của<br /> các chúa Nguyễn đã kế thừa tư tưởng của Trần Nhân Tông mang đặc thù của dân tộc<br /> nhà Trần, mở rộng lãnh thổ về phương đã thúc đẩy Thiền Việt Nam vượt hẳn<br /> Nam, lấy Phật giáo làm nền tảng tư tưởng Thiền Trung Hoa. Ngoài giải thoát cá nhân,<br /> để thu phục nhân tâm, tạo tiền đề quan Phật giáo Hoa Nam còn thiết lập lại ý thức<br /> trọng cho sự phát triển Đàng Trong, khiến mới trong bối cảnh xã hội bấy giờ. Sự phát<br /> cho Phật giáo Đàng Trong thế kỷ XVII đã triển của Phật giáo thời nhà Nguyễn trị vì<br /> có dòng Tào Động và Lâm Tế với chư Tổ trong cuộc mở đất phương Nam đã tạo<br /> là hai Ngài Nguyên Thiều và Liễu Quán. bước quan trọng là gắn hoạt động tôn giáo<br /> Đây chính là thời đại hưng thịnh và phát với hoạt động chính trị xã hội, gắn ý thức<br /> triển của Phật giáo Thuận Hoá nói riêng và dân tộc mở rộng bờ cõi với ý thức Phật<br /> Phật giáo nước nhà sau này nói chung. giáo của các chúa Nguyễn giai đoạn đó và<br /> <br /> 117<br /> PHẬT GIÁO HOA NAM TRONG HÀNH TRÌNH MỞ ĐẤT PHƯƠNG NAM THẾ KỈ XVII<br /> <br /> <br /> sau này. Phật giáo. Qua đó thấy rõ được vai trò an<br /> 3. Kết luận dân hộ quốc của Phật giáo Việt Nam song<br /> Có thể thấy, xuyên suốt chiều dài lịch hành cùng dân tộc.<br /> sử Việt Nam, sự giao lưu văn hóa giữa TÀI LIỆU THAM KHẢO<br /> nước ta và Trung Hoa xảy ra liên tục, được<br /> 1. Nguyễn Thế Anh (2008), Kinh tế & xã hội<br /> nhân dân ta tiếp biến để thích ứng với đời Việt Nam dưới các triều vua nhà Nguyễn, Nxb<br /> sống của dân tộc. Tùy theo từng thời kỳ Văn Học.<br /> phát triển lịch sử, người Việt Nam đã tiếp 2. Đặc san Nguyễn Hoàng (2008), số 1, Nxb<br /> biến đạo Phật với những màu sắc khác Thuận Hóa, Huế.<br /> nhau, trong đó, sợi chỉ đỏ xuyên suốt là tư 3. Lê Quý Đôn (bản Việt) (1977), Phủ biên tạp<br /> tưởng tùy duyên, vô ngã, từ bi hỷ xả. Nhà lục, Nxb Hà Nội.<br /> Nguyễn trị vì trong cuộc mở đất phương 4. Trần Văn Giàu (1986), Phật giáo và lịch sử tư<br /> Nam cũng đã tiếp thu và vận dụng rất tiến tưởng Việt Nam, Nxb Viện Triết học, Hà Nội.<br /> bộ, linh hoạt, tích cực. 5. Nguyễn Lang (1979), Việt Nam Phật giáo sử<br /> luận, tập 2, Nxb Văn học, Hà Nội.<br /> Khi đất nước chia hai thành Đàng<br /> 6. Nguyễn Lang (1979), Việt Nam Phật giáo sử<br /> Ngoài và Đàng Trong thì tại Đàng Ngoài luận, tập 3, Nxb Văn Học, Hà Nội.<br /> đạo Phật không phổ biến như ở Đàng<br /> 7. Nhiều tác giả (2007), Những vấn đề lịch sử<br /> Trong. Việt Nam từ xưa vốn chịu ảnh triều Nguyễn, Nxb Văn hoá Sài Gòn.<br /> hưởng văn hóa Trung quốc nên đã hoằng 8. Quốc Sử quán triều Nguyễn (biên soạn)<br /> truyền Phật giáo Đại thừa. Phật giáo dưới (1962), Đại Nam thực lục tiền biên, Nxb Viện<br /> thời các chúa Nguyễn ở phía Nam (Đàng Sử học Hà Nội.<br /> Trong) ảnh hưởng sâu sắc bởi dòng Lâm 9. Quốc Sử quán (1963), Đại Nam liệt truyện<br /> Tế, Tào Động và tín ngưỡng pha trộn. Phật tiền biên, Nxb Viện Đại Học Huế.<br /> giáo Thiền phái Trúc Lâm hòa lẫn với văn 10. Trần Đức Anh Sơn (2004), Huế, Triều<br /> Nguyễn một cái nhìn, Nxb Thuận Hóa<br /> hóa truyền thống tín ngưỡng của dân tộc và<br /> 11. Phật Quang Sơn (2014), Phật Quang đại từ<br /> trên cơ sở chánh pháp. Tại đây, các Thiền điển, Sa môn Thích Quảng Độ (dịch), Nxb<br /> sư đã tạo ra nhiều hướng ứng dụng độc đáo Phương Đông.<br /> và tu tập cho phù hợp với hoàn cảnh thế sự 12. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở Văn hóa Việt<br /> Việt Nam lúc bấy giờ. Phật giáo Việt Nam Nam, Nxb Giáo dục.<br /> thời nhà Nguyễn, nhất là công cuộc mở đất 13. Mật Thể (1996), Việt Nam Phật giáo sử lược,<br /> phương Nam giai đoạn 1533 – 1788, đã Nxb Thuận Hóa, Huế.<br /> cho thấy được tinh thần Phật giáo truyền 14. HT. Thích Thanh Từ (1999), Thiền sư Việt<br /> thống được kế thừa tiếp thu những điểm Nam, Nxb Tp. Hồ Chí Minh.<br /> mới khác biệt từ phía bên ngoài, giúp cho 15. Viện Sử học (2006), Đại Nam nhất thống chí,<br /> tập 1, Nxb Thuận Hóa, Huế.<br /> nhà Nguyễn khai phá vùng đất mới thành<br /> 16. Hòa thượng Hư Vân (2011), Tái Tăng Phật<br /> công tốt đẹp. Đó là nhờ công lao to lớn của Tổ Đạo Ảnh, tập 3, Nguyên Huệ (dịch), Nxb<br /> các chúa Nguyễn đối với đất nước, đối với Phương Đông.<br /> <br /> <br /> <br /> Ngày nhận bài: 20/9/2017 Biên tập xong: 15/10/2017 Duyệt đăng: 20/10/2017<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 118<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2