intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

PHÁT HÀNH CHỨNG KHOÁN

Chia sẻ: Phạm Quốc Huân Huân | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:11

689
lượt xem
211
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tham khảo tài liệu 'phát hành chứng khoán', tài chính - ngân hàng, đầu tư chứng khoán phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: PHÁT HÀNH CHỨNG KHOÁN

  1. PHÁT HÀNH CHỨNG KHOÁN 1.            Khái niệm về phát hành chứng khoán  Việc chào bán lần đầu tiên chứng khoán mới gọi là phát hành chứng khoán. Nếu đợt phát hành dẫn  đến việc đưa một loại chứng khoán của một tổ chức lần đầu tiên ra công chúng thì gọi là phát hành   lần đầu ra công chúng. Nếu việc phát hành đó là việc phát hành bổ sung bởi tổ chức đã có chứng  khoán cùng loại lưu thông trên thị trường thì gọi là đợt phát hành chứng khoán bổ sung. Tuy nhiên,  không phải mọi đối tượng đều được phát hành chứng khoán mà chỉ những chủ thể phát hành mới  có được quyền này.    2.            Phương thức phát hành chứng khoán  Có 2 phương thức phát hành chứng khoán trên thị trường sơ cấp. Đó là phát hành riêng lẻ và phát  hành ra công chúng. 2.1.                  Phát hành riêng lẻ (Private Placement) Phát hành riêng lẻ là việc công ty phát hành chào bán chứng khoán của mình trong phạm vi một số  người nhất định (thông thường là cho các nhà đầu tư có tổ chức có ý định nắm giữ chứng khoán  một cách lâu dài) như công ty bảo hiểm, quỹ hưu trí… với những điều kiện hạn chế chứ không phát  hành rộng rãi ra công chúng. Các ngân hàng đầu tư cũng có thể tham gia vào việc phát hành riêng  lẻ với tư cách nhà phân phối để hưởng phí phát hành. Đa số các đợt phát hành trái phiếu đều thực  hiện dưới hình thức phát hành riêng lẻ, việc phát hành cổ phiếu thường – cổ phiếu phổ thông ít khi  được thực hiện dưới hình thức này. 2.2.                  Phát hành chứng khoán ra công chúng  Phát hành chứng khoán ra công chúng là việc phát hành trong đó chứng khoán có thể chuyển  nhượng được bán rộng rãi ra công chúng cho một số lượng lớn người đầu tư nhất định (trong đó  phải dành một tỷ lệ cho các nhà đầu tư nhỏ) và khối lượng phát hành phải đạt một mức nhất định. 2.3.                  Ý nghĩa cơ bản của việc phân biệt giữa phát hành riêng lẻ và phát hành ra công   chúng Việc phân biệt phát hành riêng lẻ và phát hành ra công chúng là để xác định những người phát  hành rộng rãi ra công chúng phải là những công ty có chất lượng cao, hoạt động sản xuất kinh  doanh tốt, nhằm bảo vệ cho công chúng đầu tư nói chung, nhất là những nhà đầu tư nhỏ thiếu hiểu  biết. Đồng thời, đây cũng là điều kiện để xây dựng một thị trường chứng khoán an toàn, công khai  và có hiệu quả. Việc phát hành chứng khoán riêng lẻ thông thường chịu sự điều chỉnh của Luật Công ty. Chứng  khoán phát hành dưới hình thức này không phải là đối tượng được niêm yết và giao dịch trên thị  trường chứng khoán sơ cấp.  3.            Bảo lãnh phát hành chứng khoán 3.1.                  Khái niệm Bảo lãnh phát hành là việc tổ chức bảo lãnh giúp tổ chức phát hành  thực hiện các thủ tục trước khi  chào bán chứng khoán, tổ chức việc phân phối chứng khoán và giúp bình ổn giá chứng khoán trong  giai đoạn đầu sau khi phát hành. Trên thế giới, các ngân hàng đầu tư thường là những tổ chức đứng  ra làm bảo lãnh phát hành.  Tổ chức bảo lãnh là người chịu trách nhiệm mua hoặc chào bán chứng khoán của một tổ chức phát  hành nhằm thực hiện việc phân phối chứng khoán để hưởng hoa hồng.  3.2.                  Các phương thức bảo lãnh phát hành Việc bảo lãnh phát hành thường được thực hiện theo một trong các phương thức sau: ∙        Bảo lãnh với cam kết chắc chắn: là phương thức bảo lãnh mà theo đó tổ chức bảo  lãnh cam kết sẽ mua toàn bộ số chứng khoán phát hành cho dù có phân phối được hết  chứng khoán hay không. Trong hình thức bảo lãnh tổ hợp theo “cam kết chắc chắn”, một 
  2. nhóm các tổ chức bảo lãnh hình thành một tổ hợp để mua chứng khoán của tổ chức phát  hành với giá chiết khấu so với giá chào bán ra công chúng (POP) và bán lại các chứng  khoán đó ra công chúng theo giá POP. Chênh lệch giữa giá mua chứng khoán của các tổ  chức bảo lãnh và giá chào bán ra công chúng được gọi là hoa hồng chiết khấu.  ∙        Bảo lãnh theo phương thức dự phòng: đây là phương thức thường được áp dụng  khi một công ty đại chúng phát hành bổ sung thêm cổ phiếu thường ở các nước phát triển.  Trong trường hợp đó, công ty cần phải bảo vệ quyền lợi cho các cổ đông hiện hữu, và như  vậy, công ty phải chào bán cổ phiếu bổ sung cho các cổ đông cũ trước khi chào bán ra  công chúng bên ngoài. Dĩ nhiên, sẽ có một số cổ đông không muốn mua thêm cổ phiếu  của công ty. Do vậy, công ty cần có một tổ chức bảo lãnh dự phòng sẵn sàng mua những  quyền mua không được thực hiện và chuyển thành những cổ phiếu để phân phối ra ngoài  công chúng. Có thể nói, bảo lãnh theo phương thức dự phòng là việc tổ chức bảo lãnh cam  kết sẽ mua nốt số chứng khoán còn lại chưa được phân phối hết của tổ chức phát hành và  bán lại ra công chúng. Tại các nước đang phát triển, khi các tổ chức bảo lãnh còn non trẻ  và chưa có tiềm lực lớn thì phương thức bảo lãnh phát hành dự phòng lại là phương thức  bảo lãnh thông dụng nhất.  ∙        Bảo lãnh với cố gắng cao nhất: là phương thức bảo lãnh mà theo đó tổ chức bảo  lãnh tổ chức bảo lãnh thoả thuận làm đại lý cho tổ chức phát hành. Tổ chức bảo lãnh  không cam kết bán toàn bộ số chứng khoán mà cam kết sẽ cố gắng hết sức để bán chứng  khoán ra thị trường, nhưng nếu không phân phối hết sẽ trả lại cho tổ chức phát hành phần  còn lại. ∙        Bảo lãnh theo phương thức bán tất cả hoặc không: trong phương thức này, tổ  chức phát hành  yêu cầu tổ chức bảo lãnh bán một số lượng chứng khoán nhất định, nếu  không phân phối được hết sẽ huỷ toàn bộ đợt phát hành. ∙        Bảo lãnh theo phương thức tối thiểu – tối đa: là phương thức trung gian giữa  phương thức bảo lãnh với cố gắng cao nhất và phương thức bảo lãnh bán tất cả hoặc  không. Theo phương thức này, tổ chức phát hành yêu cầu tổ chức bảo lãnh bán tối thiểu  một tỷ lệ chứng khoán nhất định (mức sàn). Vượt trên mức ấy, tổ chức bảo lãnh được tự do  chào bán chứng khoán đến mức tối đa quy định (mức trần). Nếu lượng chứng khoán bán  được đạt tỷ lệ thấp hơn mức yêu cầu thì toàn bộ đợt phát hành sẽ bị huỷ bỏ.   NIÊM YẾT CHỨNG KHOÁN   Niêm yết chứng khoán là việc đưa các chứng khoán có đủ tiêu chuẩn vào đăng ký và giao dịch tại  thị trường giao dịch tập trung (Trung tâm Giao dịch Chứng khoán, Sở Giao dịch Chứng khoán). Hay  nói cách khác, để có thể được niêm yết tại một Sở giao dịch chứng khoán nào đó thì công ty xin  niêm yết phải đáp ứng đủ các tiêu chuẩn do Sở đó đặt ra. Mỗi Sở giao dịch chứng khoán có những  điều kiện đặt ra khác nhau để đảm bảo cho sự hoạt động an toàn đồng thời phù hợp với mục đích  hoạt động của Sở giao dịch đó Thị trường chứng khoán (TTCK) làm trung gian giữa công chúng (vòng 4) với công ty (vòng 1) . Hai  vòng này lúc lắc trái chiều nhau ; vì công chúng có ít tiền, muốn kiếm lãi cao, lại còn muốn rút vốn  ra bất cứ lúc nào ; trong khi ấy công ty muốn vốn vào nhiều mà ở lại lâu. ở bài đầu chúng ta đã nói  đây là hai đòi hỏi cực đoan. Vai trò của TTCK là hoá giải hai cái cực đoan ấy ; nghĩa là nó làm cho  hai vòng kia vẫn gắn với nhau dù lúc lắc trái chiều nhau. Xin quý vị tưởng tượng ra một cái bạc đạn 
  3. (vòng bi). Nó có hai vòng lớn nhỏ phải không ? Nhưng các viên bi ở giữa được thay bằng một lớp  keo dày, dẻo giống như kẹo cao su (chewing gum) đã nhai lâu. Lớp keo đó là TTCK.  Chúng ta sẽ nói về chất keo kia, tức TTCK vận hành thế nào, trong phần hai của loạt bài này. Tuy  nhiên cần phải nhấn mạnh rằng, chất keo không thể làm hai vòng kia dính mãi nếu bản thân hai  cái vòng không có một cái gì chung làm điểm nối kết. Điểm chung đó là tiền lời hay lãi mà người  đầu tư đòi hỏi thì công ty phải đáp ứng cho được qua việc kinh doanh của mình. Tiền cũng giống  như nước, nó chảy vào chỗ trũng. Công ty phải là chỗ trũng thì nước mới chảy vào. Đó là điều kiện  tiên quyết cho sự tồn tại của một TTCK.  Về mặt vĩ mô, TTCK không có vốn để cung cấp cho công ty. Nó chỉ hỗ trợ công ty theo tinh thần  “anh hãy tự giúp trước, rồi trời sẽ giúp sau”. Sau khi người đầu tiên (là công ty bảo lãnh phát hành  chứng khoán) đã trả hết tiền mua chứng khoán mà công ty bán ra thì TTCK làm xong việc giao vốn  dài hạn cho công ty. Nó không làm gì khác cho công ty nữa. Công ty cũng không phải trả lãi, trả  vốn cho TTCK, như phải làm với ngân hàng. Việc đăng ký và niêm yết chứng khoán công ty làm với  cơ quan chính quyền quản lý sự giao dịch chứng khoán và với Sở Giao dịch chứng khoán là nơi  quản lý cái chợ, chứ không phải với TTCK. Vì vậy, công ty phải tự làm ăn mà trả lời, trả lãi cho  những người đã hay sẽ mua chứng khoán của họ. Trong số công việc của mình, TTCK phục vụ  công ty khoảng 10 %, còn phục vụ những người mua chứng khoán đến 90 %. Việc phục vụ sau  gồm hai công tác chính : (1) làm sao cho họ có thể kiếm lời từ việc mua bán chứng khoán trên thị  trường ; và (2) cho họ rút tiền ra lúc nào cũng được. Cách duy nhất mà TTCK làm để thực hiện tốt  hai công tác kia, là làm sao cho có thật nhiều người tham gia vào nó, càng đông càng tốt. Đông  người mua ắt sẽ bán dễ, vậy là có sự mua bán để kiếm lời. Nhiều người mới sẵn sàng vào thì người  cũ bán chứng khoán cho họ, như vậy là rút ra lúc nào cũng được. TTCK cũng không bảo đảm cho  người đầu tư là cứ mua bán chứng khoán sẽ có lời, hay cho vay ở TTCK là có lãi cao. Những thứ  này tuỳ thuộc vào các công ty đã bán chứng khoán và hoạt động của họ, và tuỳ cách người đầu tư  đã đặt mua bán như thế nào.  Cách làm của TTCK là sử dụng một số công nghệ để :  Giá mua bán sẽ là một giá công bằng (fair), một bên không thể bắt chẹt bên kia vì nắm nhiều thông  tin hơn ;  Có sẵn thanh khoản, tức là lúc nào cũng có tiền mặt để thanh toán hay là người bán hay mua  chứng khoán dù nhiều hay ít thì cũng không bị dìm giá hay tăng giá vì không có sẵn tiền mặt ;  Chi phí cho việc mua bán thấp ;  Việc thanh toán tiền nong giữa một số rất đông người diễn ra nhanh chóng và thuận tiện và  Mọi giao dịch diễn ra trong sự thanh liêm và trong sáng. Bốn yếu tố đầu có tính thương mại hay vật  chất, còn yếu tố cuối là tinh thần ; và tất cả đều nhằm phục vụ người đầu tư.  Tư cách của người mua bán chứng khoán Khi phát hành chứng khoán, công ty sẽ ấn định một giá bán ban đầu được ghi trên chứng khoán,  gọi là mệnh giá. Mệnh giá sẽ lên hay xuống để thành giá thực tế lúc mua hay bán gọi là thực giá. 
  4. Thực giá thay đổi tuỳ theo người muốn mua hay bán chứng khoán thấy công ty trả cổ tức hay tiền  lãi ra sao (năm trước trả bao nhiêu, năm nay có thể sẽ trả bao nhiêu) và tuỳ vào sự đánh giá của  họ về triển vọng kinh doanh của công ty (sản phẩm sẽ bán chạy không). Hai yếu tố này tỷ lệ thuận  với nhau nhưng lại tạo ra hai loại người mua bán khác nhau. Người nào mua hay bán chứng khoán  mà dựa trên triển vọng kinh doanh tương lai của công ty thì người đó mong kiếm lời từ chính việc  mua bán ; và họ là người đầu cơ (speculator) hay người kinh doanh chứng khoán. Người đầu cơ ở  TTCK khác hẳn người đầu cơ ở thị trường hàng hoá, họ cần thiết cho TTCK, chúng ta sẽ xem về họ  ở bài 18. Còn người nào chỉ mua chứng khoán để mong hưởng cổ tức hay tiền lãi đều đặn, thì  người đó là người đầu tư bảo thủ hay người nuôi chứng khoán.  Dù là người đầu cơ hay người bảo thủ thì cả hai đều là người đầu tư. Nếu người bảo thủ không bán  chứng khoán đi thì họ ngồi ở vòng 1, còn người đầu cơ thì luôn luôn ở vòng 4. Vị trí của họ có thể  thay đổi từ vòng nọ sang vòng kia, tuỳ theo cách họ ra lệnh cho công ty môi giới mua bán chứng  khoán của một công ty như thế nào.  Xét về phương diện pháp lý thị trường chứng khoán được chia thành thị trường tập trung và   thị trường phi tập trung1, Thị trường chứng khoán tập trung: là thị trường hoạt động theo đúng  các quy định của pháp luật, là nơi mua bán các loại chứng khoán đã được đăng biểu hay đặc biệt  được biệt lệ. Chứng khoán đăng biểu là chứng khoán đã được cơ quan có thẩm quyền cho phép bảo đảm, phân  phối và mua bán qua trung gian các kinh kỷ và công ty kinh kỷ, tứ là đã hội đủ tiêu chuẩn quy định. Chứng khoán biệt lệ là chứng khoán do chính phủ hoặc các cơ quan công quyền phát hành và bảo  đảm. Loại chứngkhoánnày được miễn giấp phép của cơ quan có thẩm quyền. 2, Thị trường chứng khoán phi tập trung (OTC): Là thị trường mua bán chứng khoán nằm ngoài sở  giao dịch, không có địa điểm tập trung những nhà môi giới, những người kinh doanh chứng khoán  như tại sở giao dịch. các giao dịch ở đây chủ yếu là dựa vào sự thoả thuận giữa người mua và người  bán, không có sự kiểm soát từ Hội đồng Chứng khoán. các loại chứng khoán mua bán ở đây thường những chứng khoán không được đăng biểu, ít người  biết đến hoặc ít được mua bán. Xét về quá trình luân chuyển chứng khoán thì thị trường chứng khoán được chia làm thị   trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. 1, Thị trường sơ cấp: Còn gọi là thị trường cấp một hay thị trường phát hành, hàm ý chỉ nơi diễn ra  các hoạt động mua bán chứng khoán mới phát hành lần đầu. Thị trường sơ cấp là thị trường tạo  vốn cho đơn vị phát hành. 2, Thị trường thứ cấp: còn gọi là thị trường cấp hai hay thị trường lưu thông,là nói đến nơi diễn ra  các giao dịch mua bán chứng khoán sau khi đã phát hành lần đầu. Nói cách khác thị trường thứ  cấp là thị trường mua đi bán lại các loại chứng khoán đã phát hành qua thị trường sơ cấp. Nếu xét về phương thức giao dịch thì thị trường chứng khoán được chia là thị trường giao   ngay và thị trường giao sau
  5. 1, Thị trường giao ngay: là thị trường mua bán chứng khoán theo giá tại thời điểm giao dịch nhưng  việc thực hiện thanh toán và giao hàng có thể diễn ra sau dó một vài ngày theo thoả thuận. 2, Thị trường giao sau: Là thị trường mua bán chứng khoán theo một loại hợp đồng định sẵn, giá cả  được thoả thuận trong ngày giao dịch , nhưng việc thanh toán và giao hàng xảy ra trong một thời  hạn ở tương lai. Ngoài ra, nếu căn cứ vào đặc điểm hàng hoá lưu hành thì thị trường chứng khoán còn chia thành  thị trường cổ phiếu, thị trường trái phiếu, thị trường các công cụ phái sinh. Thị trường chứng khoán trong điều kiện của nền kinh tế hiện đại, được quan niệm là nơi  diễn ra các hoạt động giao dịch mua bán chứng khoán trung và dài hạn. Việc mua bán này  được tiến hành ở thị trường sơ cấp khi người mua mua được chứng khoán lần đầu từ những  người phát hành, và ở những thị trường thứ cấp khi có sự mua đi bán lại các chứng khoán đã  được phát hành ở thị trường sơ cấp. Như vậy, xét về mặt hình thức, thị trường chứng khoán chỉ là  nơi diễn ra các hoạt động trao đổi, mua bán, chuyển nhượng các loại chứng khoán, qua đó thay đổi  chủ thể nắm giữ chứng khoán. Thị trường chứng khoán có những chức năng cơ bản sau: • ­        Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế­        Cung cấp môi trường đầu tư cho   công chúng ­        Tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán ­        Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp ­        Tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện các chính sách vĩ mô 1.      Chức năng cơ bản của thị trường chứng khoán 2.      Các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán Các tổ chức và cá nhân tham gia thị trường chứng khoán có thể được chia thành các nhóm sau:  nhà phát hành, nhà đầu tư và các tổ chức có liên quan đến chứng khoán. a)      Nhà phát hành Nhà phát hành là các tổ chức thực hiện huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán. Nhà phát  hành là người cung cấp các chứng khoán – hàng hoá của thị trường chứng khoán. • ­        Chính phủ và chính quyền địa phương là nhà phát hành các trái phiếu Chính  phủ và trái phiếu địa phương.­        Công ty là nhà phát hành các cổ phiếu và trái  phiếu công ty. ­        Các tổ chức tài chính là nhà phát hành các công cụ tài chính như các trái  phiếu, chứng chỉ thụ hưởng… phục vụ cho hoạt động của họ.  b)      Nhà đầu tưNhà đầu tư là những người thực sự mua và bán chứng khoán trên thị trường chứng  khoán. Nhà đầu tư có thể được chia thành 2 loại: nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư có tổ chức.
  6. • ­        Các nhà đầu tư cá nhân­        Các nhà đầu tư có tổ chức c)      Các tổ chức kinh doanh trên thị trường chứng khoán • ­        Công ty chứng khoán­        Quỹ đầu tư chứng khoán ­        Các trung gian tài chính d)      Các tổ chức có liên quan đến thị trường chứng khoán • ­        Cơ quan quản lý Nhà nước­        Sở giao dịch chứng khoán ­        Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán  ­        Tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán ­        Công ty dịch vụ máy tính chứng khoán ­        Các tổ chức tài trợ chứng khoán ­        Công ty đánh giá hệ số tín nhiệm… 3.      Các nguyên tắc hoạt động cơ bản của thị trường chứng khoán Thị trường chứng khoán hoạt động theo các nguyên tắc cơ bản sau: • ­        Nguyên tắc công khai­        Nguyên tắc trung gian  ­        Nguyên tắc đấu giá  4.      Cấu trúc và phân loại cơ bản của thị trường chứng khoán Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các giao dịch, mua bán những sản phẩm tài chính (cổ phiếu,  trái phiếu, các khoản vay ngân hàng… có kỳ hạn trên 1 năm). Sau đây là một số cách phân loại  TTCK cơ bản: a)      Căn cứ vào sự luân chuyển các nguồn vốn Thị trường chứng khoán được chia thành thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp.T ∙        Thị trường sơ cấp Thị trường sơ cấp là thị trường mua bán các chứng khoán mới phát hành. Trên thị trường này, vốn  từ nhà đầu tư sẽ được chuyển sang nhà phát hành thông qua việc nhà đầu tư mua các chứng  khoán mới phát hành. ∙        Thị trường thứ cấp
  7. Thị trường thứ cấp là nơi giao dịch các chứng khoán đã được phát hành trên thị trường sơ cấp, đảm  bảo tính thanh khoản cho các chứng khoán đã phát hành. b)      Căn cứ vào phương thức hoạt động của thị trường Thị trường chứng khoán được phân thành thị trường tập trung (Sở giao dịch chứng khoán) và phi  tập trung (thị trường OTC). c)      Căn cứ vào hàng hoá trên thị trường Thị trường chứng khoán cũng có thể được phân thành các thị trường: thị trường cổ phiếu, thị trường  trái phiếu, thị trường các công cụ chứng khoán phái sinh. ∙        Thị trường cổ phiếu: thị trường cổ phiếu là thị trường giao dịch và mua bán các loại  cổ phiếu, bao gồm cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi. ∙        Thị trường trái phiếu: thị  trường trái phiếu là thị trường giao dịch và mua  bán các trái phiếu đã được phát hành, các  trái phiếu này bao gồm các trái phiếu công ty, trái phiếu đô thị và trái phiếu chính phủ.  ∙        Thị trường các công cụ chứng khoán phái sinh Thị trường các chứng khoán phái sinh là thị trường phát hành và mua đi bán lại các chứng từ tài  chính khác như: quyền mua cổ phiếu, chứng quyền, hợp đồng quyền chọn Vào khoảng giữa thế kỷ thứ 15 ở tại thành phố trung tâm buôn bán của phương Tây, các thương gia  thường tụ tập tại một số khu như quán cà phê để trao đổi mua bán các loại hàng hoá như nông  sản, khoáng sản, tiền tệ và các chứng từ có giá. Ðiểm đặc biệt ở đây là các thương gia chỉ giao  dịch với nhau bằng lời nói, không có hàng hoá thật. Những cuộc thương lượng này nhằm thống nhất  với nhau các hợp đồng trao đổi mua bán ngay hoặc cho tương lai.Những cuộc trao đổi này ban đầu  chỉ là một nhóm người và sau đó đông dần cho đến khi nó thực sự thành một khu chợ riêng. Thời  gian họp chợ lúc đầu là hàng tháng, sau đó hàng tuần rồi rút ngắn còn hàng ngày. Trong các phiên  họp chợ tại đây các thương gia thống nhất với nhau các quy ước cho việc thương lượng và sau này  trở thành những quy tắc có giá trị bắt buộc đối với những ai muốn tham gia thị trường và thị trường  chứng khoán hình thành từ đó. Như vậy, thị trường chứng khoán xuất hiện từ thế kỷ thứ 15. Sự hình thành thị trường chứng khoán  cũng đồng thời với thị trường hối đoán và một số thị trường khác. Quá trình hình thành và phát triển của thị tường chứng khoán thế giới đã trải qua những giai đoạn  thăng trầm. Thời kỳ huy hoàng nhất là vào những năm 1875 đến 1913, thị trường chứng khoán  trong thời kỳ này phát triển mạnh cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế. Nhưng đến “ngày thứ  sáu đen tối” vào ngày 29­10­1929 là ngày mở đầu cuộc khủng hoảng của thị trường chứng khoán  New York, từ đó cuộc khủng hoảng kéo sang các thị trường chứng khoán Tây Âu, Bắc Âu và Nhật  Bản. Sau thế chiến thứ hai, thị trường chứng khoán phục hồi và phát triển mạnh. Nhưng rồi cuộc  khủng hoảng tài chính năm 1987 một lần nữa đã làm cho thị trường chứng khoán thế giới suy sụp  nặng nề. Cuộc khủng hoảng hoảng này để lại hậu quả nghiêm trọng hơn cuộc khủng hoảng năm  1929. Nhưng chỉ sau hai năm, thị trường chứng khoán thế giới tiếp tục đi vào hoạt động ổn định, 
  8. phát triển và trở thành một định chế không thể thiếu trong đời sống kinh tế của những quốc gia có  nền kinh tế phát triển theo định hướng thị trường. Một cái chợ có tổ chức Thị trường là một “cái chợ”. ở mức phát triển thấp, chợ là một nơi tập trung hàng hoá các loại, và kẻ  bán người mua gặp nhau. ở mức phát triển cao hơn, như các siêu thị “mart”, chợ không có người  bán. ở mức cao hơn nữa chợ là nơi diễn ra sự trao đổi. ở đó người mua hay bán không xuất hiện mà  giao dịch với nhau qua những người môi giới. Chợ bán chứng khoán thuộc loại này. Nơi đây, hàng  là các chứng khoán được trao đổi ; nhưng chúng thực sự lại chỉ là những con số đi kèm với tên công  ty. Điều này giúp người mua kẻ bán, vào bất cứ lúc nào, cũng có thể thay đổi vị trí, khi mua chứng  khoán, khi bán nó đi. Và người này là những nhà đầu tư hay công chúng như ta đã biết. Người đầu  tư mua và bán hàng, nhưng hàng của họ là hàng mua lại. Người bán thực sự là các công ty cổ  phần. Nhưng những công ty này chẳng còn dính dáng gì vào việc buôn bán. Chợ bán chứng khoán  có rất đông người mua, kẻ bán, bởi thế, nó được tổ chức rất quy củ và được gọi là “một cái chợ có  tổ chức cao” (highly organized market).  Các loại chợ Bình thường, ở chợ hàng hoá, ta có chợ đầu mối và chợ bán lẻ là những chợ phân loại theo số  lượng hàng bán (bán buôn, bán lẻ) ; có chợ trong nhà lồng, chợ bên ngoài nhà lồng là những chợ  phân chia theo phẩm chất hàng bán ; rồi có chợ bán lương thực, chợ bán cây cảnh là những chợ  phân theo mặt hàng. TTCK cũng có những loại chợ giống như thế chỉ khác là nó có tổ chức cao.  Chợ bán theo số lượng hàng bán Chứng khoán thoạt đầu do công ty đưa ra ; khi đã đăng ký với uỷ ban giao dịch chứng khoán thì họ  được phép bán. Công ty sẽ bán cho một nơi mua sỉ để cho tiện khi đưa bán cũng như lúc lấy tiền  về. Công ty “mua sỉ” là công ty bảo lãnh phát hành chứng khoán. Sự mua bán giữa hai nơi này tạo  nên thị trường sơ cấp, giống như chợ đầu mối.  Khi công ty “mua sỉ” đem bán lẻ chứng khoán cho công chúng, thì hai người này tạo ra một thị  trường thứ hai, gọi là thị trường thứ cấp, giống như chợ bán lẻ.  Hai thị trường này ăn thông với nhau mới tạo nên TTCK. Nếu chỉ có chợ sơ cấp không thôi, như ở  ta hiện nay, thì chưa có TTCK.  Chợ bán theo phẩm chất hàng hoá  Công ty bán chứng khoán có cái to, cái nhỏ ; cho nên chứng khoán của họ cũng được phân loại  theo sức mạnh của công ty. Chứng khoán của các công ty lớn, hội đủ một số điều kiện nào đó, sẽ  được bán ở một khu vực rộng rãi, phố xá đông người, gọi là các sàn giao dịch, như mô tả ở bài 8.  Dự thảo Pháp lệnh chứng khoán của ta gọi là “thị trường giao dịch tập trung” ; cho ngắn gọn và tuỳ  mạch văn, chúng ta sẽ dịch là chợ bán trên sàn hay sàn giao dịch. Các từ này đều chỉ chung một  chỗ là “trading floor”. 
  9. Chứng khoán của các công ty không hội đủ những điều kiện đòi hỏi kia sẽ được bán ở một nơi khác  gọi là bán “qua các quầy” (over­the­counter trading – OTC) ; có thể tên chính thức của nó ở ta sẽ là  “thị trường giao dịch không tập trung”, ở đây chúng ta dịch là “chợ bán trên bàn” hay “bàn giao dịch”  ta không gọi là quầy để không bị lẫn với quầy ở chợ trên sàn. Chợ trên bàn, không có người qua kẻ  lại, mà chỉ là các văn phòng của các người môi giới đặt tại nhiều nơi trong nước. Họ cũng như  khách hàng giao dịch với nhau qua điện thoại.  Phân loại theo tính chất món hàng Huy động vốn thì không chỉ công ty mới làm, mà cả chính quyền các cấp cũng làm nữa. So với  công ty, khả năng trả nợ của chính quyền chắc chắn hơn, do đó các ràng buộc về trả nợ dành cho  công ty không được áp dụng cho chính quyền. Vì thế, công trái của chính quyền được bán ở một  chợ khác, thường là các ngân hàng thương mại. Sự việc này tạo ra một chợ riêng bán công trái do  chính quyền phát hành.  Sự phân loại các chợ như ở trên cốt cho dễ hiểu. Trên thực tế, các loại chợ kia hoạt động đan xen  với nhau tạo nên một TTCK. Vì cốt tuỷ của một cái chợ là sự trao đổi, nên ở đâu có trao đổi là có  chợ mà không nhất thiết phải có một địa điểm chung cho kẻ mua người bán ; bởi thế “cái bàn” cũng  là một “cái chợ”.  Nguyên tắc hoạt động của chợ  Thị trường sơ cấp phải giải quyết tất cả các vấn đề của việc vay nợ và hùn vốn ; là những thứ luôn  luôn có rủi ro. Muốn tránh rủi ro, người ta phải thu thập tin tức, ký hợp đồng với các con nợ, và kiểm  soát sự thực hiện hợp đồng đó. Việc này sẽ do một công ty hay người bảo lãnh phát hành chứng  khoán (underwriter) làm. Họ sẽ thảo luận với các công ty muốn bán chứng khoán về các điều kiện  của hợp đồng. Khi hợp đồng được thực hiện thì các công ty được uỷ nhiệm (trustee) kiểm soát việc  con nợ thực hiện hợp đồng.  Chợ thứ cấp bán chứng khoán là nơi công ty bảo lãnh phát hành bán lại chứng khoán cho công  chúng. Chợ này – như đã biết – do các người môi giới lập. (Về những người này chúng ta sẽ đề cập  ở bài XIII).  Chợ thứ cấp phải thực hiện ba chức năng. Một là, khai mở, hay xác định một giá công bằng (fair)  cho việc mua hay bán chứng khoán. Hai là, giúp cho việc mua bán theo các giá kia được diễn ra  nhanh chóng dễ dàng ; tức là tạo ra thanh khoản. Ba là, giúp cho việc giao dịch ít tốn kém.  Xác định một giá công bằng  Chứng khoán tiêu biểu cho lời hứa của công ty phát hành là họ sẽ trả lại số tiền đã nhận cùng với  lời lãi sau này. Giá trị của lời hứa đó tuỳ thuộc vào sự mong đợi của người đã bỏ tiền ra và vào sự  đánh giá các rủi ro liên quan đến sự trả nợ. Hai cái này lại bị chi phối bởi các thông tin có sẵn ở  những chỗ nhất định (báo chí, cơ sở, nơi mua bán) và bởi kết luận mà người bỏ tiền rút ra từ các  thông tin ấy. Cùng một thông tin, nhưng những người khác nhau sẽ có những kết luận cho mình  khác nhau. 
  10. Một giá cả công bằng cho chứng khoán là một phí tổn thấp nhất mà những người hiểu biết thông tin  sẵn sàng trả khi mua bán chứng khoán. Một phí tổn thấp nhất cho người bán là số tiền cao nhất họ  đòi được. Còn phí tổn thấp nhất cho người mua lại là số tiền nhỏ nhất mà họ sẽ phải trả.  Khai mở cái giá kia là một diễn trình làm giá hay tạo giá. ở mỗi loại thị trường diễn trình đó khác  nhau.  Tạo ra hay có sẵn thanh khoản  Từ “thanh khoản” nghe khó hiểu. ở đây, cho dễ nhớ, có thể nói một thị trường có khả năng tạo  thanh khoản là nơi mà ở đó bất cứ ai cũng có thể mua bán nhanh chóng mà không bị thua thiệt. Thí  dụ, khi bạn muốn bán chứng khoán của một công ty, ở một nơi nào, vào bất cứ lúc nào, theo cái giá  công bằng, mà nơi đó có thể mua rồi trả tiền cho bạn ngay thì đó là một thị trường có thanh khoản  cao. Nếu phải lâu bạn mới bán được hay phải “lót tay” mới bán được thì nơi đó không có thanh  khoản hay thanh khoản thấp.  Để có thanh khoản, TTCK sẽ áp dụng công nghệ bù qua sớt lại (thanh toán bù trừ). Số tiền nhận từ  người mua sẽ được lấy ra trả cho người bán. Nếu số người bán cao hơn số người mua khiến có sự  mất thăng bằng về thanh khoản, thì TTCK cũng phải có khả năng giống như ngân hàng để bù đắp  sự chênh lệch kia. Các công nghệ của ngân hàng, mà chúng ta đã biết qua bài V, cũng được dùng  trong TTCK.  Giảm chi phí giao dịch  Cốt lõi của TTCK là sự trao đổi. Muốn trao đổi phải có sự đồng ý về điều kiện mua bán. Về sự thực  hiện cái đã đồng ý (tức là sự thực hiện) và rồi thanh toán. Khi làm hai việc sau thì cũng có tốn kém  và rủi ro (thí dụ, người bán nhận bán nhưng không giao hàng khiến người mua phải đi tìm hàng  thay thế ; người mua không trả tiền làm người bán kẹt vốn…). Chi phí thực hiện phải thấp thì buôn  bán mới dễ dàng ; nhờ đó TTCK mới thực hiện được các chức năng của nó. Muốn thế, thị trường  phải có tổ chức nghĩa là có bốn đặc tính sau :  1. Hạn chế gia nhập và có nội quy hoạt động  Người mua bán chứng khoán có thể lên đến hàng trăm hàng ngàn mỗi ngày. Một số đông như thế  giao dịch với nhau thì phải biết nhau và phải tin rằng những người mà họ giao dịch là những người  đáng tin cậy. Nếu không, thì ai cũng sẽ bị “sưu tra lý lịch” trước khi tham gia. Nếu việc đó xảy ra, ta  sẽ thấy ngay là không có mua bán nữa.  Một cách để tránh tình trạng này là chọn lọc để giới hạn sự gia nhập. Trong TTCK, chỉ có những  người được phép mới được vào chợ trên sàn. Đó là những người môi giới. Tất cả những người khác  chỉ có thể mua bán với nhau qua những người này. Để trở thành người môi giới, đương sự phải hội  đủ một số điều kiện về vốn liếng, tiêu chuẩn kế toán chuyên môn và đạo đức. Và để cho chặt chẽ  hơn, các hội viên phải đặt ra nội quy hành nghề ; để những ai vi phạm sẽ bị phạt tiền hay bị sa thải.  Nhờ những biện pháp trên, nên khi người đầu tư ra lệnh mua bán, họ mới dám tin tưởng người mình  giao dịch và điều này làm cho chi phí giảm nhiều. Niềm tin làm giảm bớt giấy tờ và tốn kém. 
  11. 2. Tiêu chuẩn hoá  Việc giao dịch ở chợ phải được tiêu chuẩn hoá và đơn giản hoá. Thí dụ, các chứng khoán được xếp  theo từng lố 100 hay 1.000 cổ phần ; rồi có những thủ tục thống nhất về chuyển giao hàng và thanh  toán tiền.  Sự tiêu chuẩn hoá làm cho việc mua bán được đơn giản. Người mua và bán chỉ cần đồng ý với  nhau về giá hàng và số lượng ; tất cả các vấn đề khác của việc mua bán thì hai bên đã biết, không  cần phải bàn bạc nữa. Tiêu chuẩn hoá còn làm giảm các trường hợp hai bên hiểu khác nhau về  tính chất của sự giao dịch.  3. Giải quyết tranh chấp  Dù đã tạo ra những tập tục trên thì tranh chấp cũng vẫn xảy ra. Giải quyết chuyện đó sẽ mất thời  giờ và tiền bạc. Chợ có tổ chức sẽ giảm chi phí kia bằng cách đề ra một khuôn khổ cho việc giải  quyết tranh chấp. Giải quyết riêng tư với nhau sẽ rẻ hơn nhiều so với việc đưa nhau ra toà.  4. Bảo đảm thi hành  Giao dịch cách nào thì cũng có những rắc rối không lường trước được ; đó là rủi ro, và chúng rất  khác nhau. Mua bán thì bao giờ cũng có hai người, nếu chỉ đưa ra các biện pháp để bảo vệ một  người thì việc mua bán trở nên tốn kém vì người kia cũng phải tìm cách chống đỡ. Để giảm bớt chi  phí đó, thị trường có tổ chức sẽ bảo đảm rằng các sự giao dịch đã được đồng ý thì cũng sẽ được  thực hiện. Làm được như thế thì khi hai bên mua bán đã đồng ý về một vụ việc rồi thì cả hai đều  biết chắc việc ấy sẽ được thực hiện.  Đó là những nguyên tắc chung mà các thị trường có tổ chức áp dụng. Thực hiện chúng cách nào thì  mỗi thị trường sẽ làm khác nhau. 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2