intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Phát huy những giá trị tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của lệ làng trong việc xây dựng nông thôn mới ở nước ta hiện nay

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:9

118
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Lệ làng vốn được xem là công cụ quản lý xã hội trong các làng xã truyền thống của Việt Nam. Lệ làng được hình thành và phát triển cùng với sự phát triển của chế độ phong kiến Việt Nam. Nó có giá trị tích cực trong việc điều chỉnh mối quan hệ xã hội trên quy mô nhỏ hẹp của làng xã. Bên cạnh đó nó cũng tồn tại những mặt còn hạn chế mang ý thức hệ phong kiến.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Phát huy những giá trị tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của lệ làng trong việc xây dựng nông thôn mới ở nước ta hiện nay

  1. NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Phát huy những giá trị tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của lệ làng trong việc xây dựng nông thôn mới ở nước ta hiện nay Promoting the positive values of the village’s rules in the construction process of new rural areas in our country today Trần Hoàng Yến Email: yendhsd@gmail.com Trường Đại học Sao Đỏ Ngày nhận bài: 29/10/2019 Ngày nhận bài sửa sau phản biện: 24/6/2020 Ngày chấp nhận đăng: 30/6/2020 Tóm tắt Lệ làng vốn được xem là công cụ quản lý xã hội trong các làng xã truyền thống của Việt Nam. Lệ làng được hình thành và phát triển cùng với sự phát triển của chế độ phong kiến Việt Nam. Nó có giá trị tích cực trong việc điều chỉnh mối quan hệ xã hội trên quy mô nhỏ hẹp của làng xã. Bên cạnh đó nó cũng tồn tại những mặt còn hạn chế mang ý thức hệ phong kiến. Chính vì vậy, lệ làng có nhiều yếu tố ảnh hưởng tích cực và tiêu cực tới việc xây dựng nông thôn mới giai đoạn hiện nay. Do vậy, để xây dựng thành công nông thôn mới ở nước ta hiện nay một mặt phải đẩy việc xây dựng và hoàn thiện kết cấu hạ tầng nông thôn, mặt khác cần phải có những giải pháp thiết thực, hiệu quả phát huy những mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của lệ làng truyền thống để xây dựng nông thôn mới ở nước ta hiện nay. Từ khóa: Lệ làng; nông dân; nông thôn; ý thức pháp luật. Abstract Village’s rules are considered as a social management tool in traditional villages of Vietnam. It has a positive value in adjusting social relations on the small scale of villages, therefore, the village’s rules have many factors that have positively influence on the construction of new rural areas in this period. Therefore, in order to successfully build a new rural area in our country, on the one hand, it is necessary to push the construction and complete the rural infrastructure, on the other hand, it is necessary to promote the positive aspects and limit the negative aspects of the traditional laws in some villages to build a new rural area in our country today. Keywords: Village’s rules; farmers; rural; law consciousness. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ lý nông thôn [3], Mấy nét về quá trình hình thành và phát triển Hương ước Việt Nam [3] của Phan Đại Ra đời cùng với quá trình hình thành và phát triển Doãn, công trình Hương ước quản lý làng xã [6], Lệ làng xã, lệ làng là một trong những cơ sở để duy trì làng phép nước [7] của Bùi Xuân Đính - các tác và điều chỉnh các mối quan hệ của người nông dân giả cũng đã đi phân tích những mặt tích cực và trong phạm vi làng xã. Lệ làng đã góp phần quan tiêu cực về hương ước làng xã Việt Nam… Mặc dù trọng trong ổn định trật tự, củng cố làng xã thành vậy, do yếu tố lịch sử và thời đại nên các công trình địa bàn vững chắc để bảo tồn những giá trị văn chưa đề cập tới giá trị của lệ làng trong việc xây hóa. Đã có nhiều công trình nghiên cứu khác nhau dựng nông thôn mới. liên quan đến lệ làng như: Việt Nam phong tục của Phan Kế Bính [1], tác giả đã khái quát về những Trong bài viết này, tác giả đi phân tích, đánh giá phong tục làng xã Việt Nam từ thời phong kiến đến những mặt tích cực và hạn chế của lệ làng, từ đó nay trên cả phương diện tích cực và tiêu cực, các đề ra một số giải pháp để phát huy những giá trị công trình: Mấy suy nghĩ về Hương ước trong quản tích cực và khắc phục những hạn chế của lệ làng Người phản biện: 1. PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hà để xây dựng thành công nông thôn mới ở nước ta 2. TS. Nguyễn Thị Kim Nguyên thời kỳ hội nhập. 120 Tạp chí Nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190, Số 2 (69) 2020
  2. LIÊN NGÀNH TRIẾT HỌC - XÃ HỘI HỌC - CHÍNH TRỊ HỌC 2. LỆ LÀNG VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA LỆ LÀNG Luật nước dưới thời phong kiến thể hiện quyền lực - LUẬT NƯỚC TRONG XÃ HỘI PHONG KIẾN và ý chí thống trị của nhà vua - người đứng đầu cơ VIỆT NAM quan nhà nước và giai cấp thống trị. Luật do vua 2.1. Những điểm giống nhau giữa lệ làng và ban hành và bắt buộc mọi người phải tuân theo. luật nước Còn lệ làng ra đời dựa trên tập tục, sự bàn bạc và đồng tình, tuy không phải của toàn thể, nhưng - Thứ nhất, giống nhau ở mục đích tồn tại. Cả lệ ít ra cũng là của phần lớn cư dân trong làng xã. làng và luật pháp nhà nước nhằm điều chỉnh mối Tùy theo mức độ phong kiến hóa của từng làng xã quan hệ giữa con người với con người, con người mà lệ làng thể hiện trong các hương ước phản ánh với tổ chức trong các mối quan hệ xã hội. kết quả của sự bàn bạc, thảo luận, nhân nhượng - Thứ hai, với đặc tính là công cụ quản lý, lệ làng lẫn nhau để đi đến thống nhất. Điều này thể hiện ít và luật pháp nhà nước lấy hoạt động xã hội là cơ nhiều tính chất "dân chủ làng xã", đối lập với tính sở để phản ánh và điều chỉnh các mối quan hệ xã chất áp đặt chuyên chế của "phép vua". hội. Vì vậy cả lệ làng và luật pháp nhà nước đều có - Thứ hai, phạm vi áp dụng và nội dung quy định nội dung phong phú liên quan đến các lĩnh vực của cũng có những khác nhau giữa “Lệ” và “Luật”. Làng đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội. xã là đơn vị tụ cư của người nông dân, là đơn vị Trên lĩnh vực chính trị xã hội, lệ làng và luật pháp cơ sở và cấp hành chính cuối cùng của nhà nước. nhà nước có những quy định về cơ cấu tổ chức bộ Do đó đời sống kinh tế và sinh hoạt tinh thần của máy nhà nước, làng xã; các quy định về hôn nhân mỗi làng là khác nhau, nên lệ làng cũng khác nhau gia đình và quan hệ về hành vi ứng xử giữa người và không thể phong phú bằng đời sống của một với người, cá nhân và cộng đồng trong các quan hệ nước. Bởi vậy, phạm vi áp dụng của lệ làng là chỉ xã hội của con người. dành riêng cho làng đó, mặt khác nội dung văn bản Trên lĩnh vực đời sống tinh thần: Văn hóa, giáo của lệ làng thường đơn giản hơn so với luật pháp dục, tín ngưỡng, tôn giáo... lệ làng và luật pháp nhà nước. Một bộ luật của nhà nước thường có nhà nước đều có những quy định về cơ cấu tổ hàng trăm điều khoản. Chẳng hạn như Luật Hồng chức, nội dung và hình thức thực hiện. Thông qua Đức với 13 chương 722 điều liên quan tới hầu hết những quy định đó thấy toát lên những nét văn hóa các lĩnh vực của đời sống đất nước, còn một bản Việt Nam ẩn sâu trong làng xã: hiếu học, trọng học hương ước, chỉ gồm vài chục điều liên quan tới một thức, trọng đạo đức lễ nghĩa, sống tình nghĩa thủy số mặt của đời sống một làng. chung... Mỗi lĩnh vực của đời sống xã hội lại được luật nước - Thứ ba, các quy định của lệ làng và luật pháp nhà cụ thể hóa thành hàng chục, có khi hàng trăm nước được đảm bảo hiệu lực thi hành nhờ chế độ điều khoản. Ví dụ, chỉ riêng vấn đề hôn nhân gia thưởng phạt rõ ràng, nghiêm khắc đối với mọi cá đình, Luật Hồng Đức đã quy định thành 58 điều nhân và tổ chức. Những hình thức thưởng phạt mà từ điều 284 đến điều 341, ở chương Hộ hôn. Vấn luật và lệ quy định có biện pháp kinh tế (bắt bồi đề liên quan đến trộm cướp có 54 điều, ở chương thường thiệt hại, phạt bằng tiền, bằng hiện vật); có Đạo tặc (từ điều 411 đến điều 464) [9] trong khi biện pháp chính trị (hạ quan chức, tước ngôi thứ); đó, những vấn đề tương tự chỉ được ghi thành đến cả việc chà đạp lên nhân phẩm sử dụng nhục một vài điều ngắn gọn trong các bản hương ước. hình, đánh đập... nhằm buộc mọi cá nhân, tập thể Tính chất phong phú và phức tạp của đời sống một phải tuân thủ nghiêm những quy ước chung của nước, cũng đòi hỏi luật nước phải có những quy xã hội. Việc sử dụng hình phạt bằng nhục hình thể định đảm bảo cho cuộc sống ấy đi vào quĩ đạo, hiện rõ tính tàn bạo của luật - lệ phong kiến. giữ "thăng bằng" cho nó. Những điều khoản mà người ta không thể tìm thấy trong bất kỳ một văn 2.2. Sự khác nhau giữa lệ làng và luật nước bản lệ làng nào. Chẳng hạn, những quy định liên Với tư cách là một đơn vị dân cư, quá trình hình quan đến đấu tranh (kiện tụng), trá ngụy (xét xử thành và phát triển của làng, xã gắn liền với sự hình tội theo giặc, phản quốc), toán ngục (việc xét xử thành và phát triển của dân tộc. Trong quá trình đó của ngành luật pháp) danh lệ (định chức danh tội lệ làng từng bước được hình thành. Chính vì vậy, phạm), vi chế (làm trái pháp luật)... Cũng có những lệ làng vẫn tồn tại song song với luật nước. Sự tồn vấn đề diễn ra trong đời sống hàng ngày nhưng lại tại của cả "Luật" và "Lệ" mặc nhiên đã thể hiện sự không được, hay ít được ghi trong hương ước như khác nhau của nó. vấn đề hương hỏa, điền sản trong khi đó Luật Hồng - Thứ nhất, tính dân chủ của lệ làng và sự chuyên Đức quy chế hóa thành 13 điều (hương hỏa) và 32 chế của luật nước. điều về điền sản [9]. Tạp chí Nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190, Số 2 (69) 2020 121
  3. NGHIÊN CỨU KHOA HỌC - Thứ ba, sự khác nhau trong chế tài của "Luật" thường xuyên, trực tiếp, việc thực hiện những quy và "Lệ". định của làng nên người nông dân khó có thể vượt ra ngoài sự kiểm soát đó. Người nông dân hình Những quy định hình phạt của lệ làng thường đơn thành thói quen ứng xử theo "lệ" của làng. Hương giản hơn so với luật pháp của nhà nước. Mặt khác, ước luôn "là một thành tố trong thể chế quản lý làng trong mỗi lĩnh vực của đời sống xã hội, thường chỉ xã, là một nét quan trọng trong văn hóa quản lý con liên quan tới một vài điều khoản của lệ làng và cùng người Việt Nam" [3]. với nó là những hình phạt cụ thể; trong khi đó, ở luật nước được ghi thành vài chục điều khoản nên mức - Thứ tư, tính công bằng của “lệ làng” và sự bất bình độ hình phạt rất phong phú. Do vậy, ở cấp độ xử đẳng của “phép vua”. phạt của lệ làng thấp hơn so với luật pháp nhà nước. Trong lệ làng không có hình thức giảm tội cho bất Hình thức xử phạt của lệ làng nói chung nhẹ hơn kỳ hành vi vi phạm và người vi phạm nào, bất kể so với luật pháp của nhà nước. Trong những hình người đó có thành phần xuất thân, hay địa vị xã hội như thế nào. Trong khi đó ở luật nước, có quy thức xử phạt của lệ làng chỉ có một hình thức động định tám điều được nghị xét giảm tội (Bát nghị) khi chạm đến thân thể người vi phạm đó là đánh đập phạm tội. Đó là, nghị thân: những người thân thích nhưng cũng rất ít làng áp dụng. Lệ làng cũng không của vua, thái hậu, hoàng hậu; nghị cố: là những có hình thức lưu đầy, không có tử hình cho bất kỳ người cũ đã theo giúp vua lâu ngày, hoặc những hành vi vi phạm nào kể cả những hành động được người giúp việc của triều trước; nghị hiền: những coi là nghiêm trọng nhất đối với làng. Trong khi đó người có đức hạnh lớn; nghị năng: những người có hình thức xử phạt xâm phạm một cách tàn bạo đến tài năng lớn; nghị công: những người có công lớn; thân thể phạm nhân ta thấy được một cách phổ nghị quý: là những quan lại có chức vụ từ tam phẩm biến trong luật Hồng Đức - một bộ luật được coi là trở lên; nghị cần: là những người cần cù chăm chỉ; tiến bộ dưới chế độ phong kiến. Đó là các hình thức nghị tán: là những con cháu của triều trước [9]. đánh bằng roi, bằng gậy, thích chữ vào mặt, vào trán, chặt đầu, xẻo thịt, chặt chân tay cho chết dần. - Thứ năm, lệ làng không cho phép bất cứ cá nhân Luật nước còn quy định 10 tội buộc phải chết (thập vi phạm nào được nộp tiền để chuộc tội. Trong ác). Điều này thể hiện tính chất nghiêm minh và khi đó, luật nước có một số điều khoản cho phép thậm chí có tính tàn bạo của luật pháp phong kiến. người phạm một số tội nhất định được dùng tiền để chuộc tội. Chẳng hạn Điều 16 Luật Hồng Đức Mặt khác, cùng một hành động phạm tội nhưng ghi rõ: Những người từ 70 tuổi trở lên, 15 tuổi trở biện pháp xử lý giữa lệ làng và luật nước cũng xuống cùng những người bị phế tật, phạm từ tội lưu khác nhau. Chẳng hạn, trong luật Hồng Đức, tội trở xuống, đều cho chuộc bằng tiền, phạm tội thập bất hiếu "là rủa mắng ông bà, cha mẹ, trái lời cha ác thì không theo luật này. Từ 80 tuổi trở lên, từ mẹ dạy bảo; nuôi nấng thiếu thốn, có tang cha mẹ 10 tuổi trở xuống cũng như những người bị ác tật mà lấy chồng, vui chơi ăn mặc như thường; nghe phạm tội phản nghịch, giết người đáng phải tội chết thấy tang ông bà cha mẹ mà giấu, không cử ai (tổ thì cũng phải tâu để vua xét định, ăn trộm và đánh chức tang lễ) nói dối là ông bà cha mẹ chết" [9] bị người bị thương thì cho chuộc [9]. luật pháp quy vào tội thập ác, thì lệ làng chỉ lên án bằng dư luận, hoặc áp dụng hình thức xử lý cao Sự giống và khác nhau giữa lệ làng và luật nước nhất là đánh đòn. cho thấy: Trong xã hội Việt Nam truyền thống lệ làng quan trọng không kém gì luật nước, điều này Ở lệ làng, ta ít thấy ghi những hình phạt cụ thể, thể hiện ở Hương ước của các làng thường mở thay vào đó là những lời khuyên răn chung chung, đầu như một "tuyên ngôn" về sự tồn tại của mình nặng về răn đe thuyết phục tình cảm: không nên, "Nước có pháp luật quy định, còn làng có những không được, cấm không được... nhưng hiệu lực điều ước riêng". Sở dĩ lệ làng có vị trí như vậy vì của nó không chỉ ở mức thưởng phạt mà bằng cả "nó phản ánh một cách sinh động mối quan hệ cơ chế tác động linh hoạt đến với các thành viên thống nhất có mâu thuẫn giữa nước và làng" [11]. của làng. Thông qua bộ máy chính quyền làng xã bầu ra, được nhà nước bổ nhiệm và các tổ chức Chính sự khác biệt giữa lệ làng và luật nước đã xã hội mà người nông dân tham gia với tư cách phản ánh tính chất dân chủ, tính tự quản của làng thành viên: Hội tư văn, tư võ, hội lão, phe, giáp... xã. Việc tự quản được phản ánh trong hương ước họ tộc và qua cả các hoạt động lễ hội, để tác động bắt nguồn từ nhu cầu phải ổn định hóa, trật tự hóa đến mỗi hành vi của người nông dân. Vừa bằng các hoạt động trong nội bộ mỗi làng và từ nhu cầu thưởng phạt mang tính cưỡng chế, vừa bằng cả của mỗi người nông dân, với tư cách là thành viên sức ép của dư luận, làng xã thực hiện sự giám sát của làng. Mặc dù có thể thấy rõ tính chất bắt buộc và 122 Tạp chí Nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190, Số 2 (69) 2020
  4. LIÊN NGÀNH TRIẾT HỌC - XÃ HỘI HỌC - CHÍNH TRỊ HỌC đòi hỏi cao của hương ước đối với hành vi cá nhân nông dân - trí thức vững mạnh, tạo nền tảng kinh tế mỗi người, nhưng mỗi người dân trong làng đều tự - xã hội và chính trị vững chắc cho sự nghiệp công nguyện làm đúng những quy định của lệ làng. Với nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ tư cách là các chuẩn mực được cộng đồng đề ra, quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Sau 10 năm xây những quy ước làng thông qua các hoạt động được dựng nông thôn mới, nước ta đã đạt được những người nông dân nhận thức biến thành tính tổ chức, thành tựu đáng tự hào “đến tháng 10/2019, cả tính kỷ cương thói quen tôn trọng lệ làng. Người nước đã có 4.665 xã (52,4%) được công nhận đạt nông dân thường có ý thức với lệ làng trước khi có chuẩn nông thôn mới, tăng 35,3% so với cuối năm ý thức pháp luật. 2015 (là thời điểm tổng kết giai đoạn 1) và hoàn thành vượt 2,4% so với mục tiêu 10 năm (2010- Tính tự nguyện trong việc chấp hành các quy định 2020) của Đảng, Quốc hội và Chính phủ giao” [13]. của lệ làng phản ánh tính "dân chủ làng xã" vốn Làm thay đổi nhận thức sâu sắc của toàn thể cán hình thành và duy trì trong nội bộ mỗi làng. bộ, đảng viên và người dân về vị trí, vai trò của Trong công cuộc đổi mới đất nước do Đảng khởi nông nghiệp, nông dân, nông thôn; có vai trò quan xướng, Đảng ta xác định văn hóa là nền tảng tinh trọng trong phát triển kinh tế - xã hội và thực sự là thần của xã hội. Vì vậy, để xây dựng thành công tiềm năng, thế mạnh của đất nước. Phong trào “Cả nông thôn mới, chúng ta cần phải tiếp tục phát huy nước chung sức xây dựng nông thôn” đã trở thành những giá trị tốt đẹp của văn hóa làng, đồng thời một phong trào có sức lan tỏa mạnh mẽ, sâu rộng loại bỏ những nội dung không còn phù hợp với giai trên phạm vi cả nước. Huy động sự vào cuộc của đoạn hiện nay. cả hệ thống chính trị các cấp và toàn xã hội, đặc 3. NHỮNG TÁC ĐỘNG TÍCH CỰC VÀ TIÊU CỰC biệt là sự đồng lòng, hưởng ứng của người dân. CỦA LỆ LÀNG TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính NÔNG THÔN MỚI trị - xã hội đã triển khai hiệu quả vai trò giám sát và phản biện xã hội, phát huy dân chủ, vai trò chủ 3.1. Vài nét về xây dựng nông thôn mới ở nước thể của người dân trong xây dựng nông thôn mới. ta hiện nay Trong 10 năm triển khai, Chương trình nông thôn Ngày 05/8/2008, Hội nghị lần thứ VII, Ban Chấp mới là chương trình duy nhất đã hình thành được hành Trung ương Đảng (khoá X) thông qua Nghị hệ thống bộ máy chỉ đạo, điều hành, quản lý, triển quyết số 26-NQ/TW, về nông nghiệp, nông dân và khai đồng bộ từ Trung ương đến địa phương và nông thôn; ngày 16/4/2009 Thủ tướng Chính phủ hoạt động ngày càng chuyên nghiệp. Mặc dù vậy, đã ra Quyết định số 491/QĐ-TTg về Ban hành bộ kết quả xây dựng nông thôn mới của một số vùng tiêu chí quốc gia về nông thôn mới; ngày 21/8/2009 còn thấp hơn so với mặt bằng chung của cả nước, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ban vẫn còn khoảng cách chênh lệch về kết quả thực hành Thông tư số 54/TT-NNPTN quy định: vùng/ hiện giữa các vùng, miền. Môi trường nông thôn tuy khu vực nông thôn mới Việt Nam XHCN là phần được quan tâm nhưng chưa thực sự chuyển biến lãnh thổ không thuộc nội thành, nội thị các thành rõ nét, vẫn là vấn đề bức xúc ở nhiều địa phương, phố, thị xã, thị trấn; được quản lý bởi cấp hành nhất là xử lý chất thải rắn, nước thải sinh hoạt, chất chính cơ sở là UBND xã. thải của các khu công nghiệp, làng nghề. Nhiều giá trị văn hóa truyền thống ở một số địa phương đang Từ các văn bản chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, các dần bị mai một, các tệ nạn xã hội ở nông thôn vẫn bộ, ban ngành, chúng ta có thể thấy rằng xây dựng tồn tại và diễn biến phức tạp. nông thôn mới: Là xây dựng, phát triển vùng nông thôn, làm cho dân cư nông thôn có đời sống vật 3.2. Những tác động tích cực của lệ làng đối với chất và tinh thần không ngừng được nâng cao với quá trình xây dựng nông thôn mới nền nông nghiệp phát triển toàn diện theo hướng Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định con người là hiện đại, bền vững: kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội chủ thể sáng tạo ra lịch sử. Đứng trên quan điểm hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức chủ nghĩa duy vật lịch sử, bàn về các giá trị truyền sản xuất hợp lý, gắn công nghiệp với phát triển thống, Giáo sư Trần Văn Giàu nhấn mạnh: “Không nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch; có giá trị nào không do con người các thế hệ nối xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hoá dân tiếp nhau tạo thành. Giá trị tinh thần cũng không tộc; dân trí được nâng cao, môi trường sinh thái phải là những cái gì nhất thành bất biến, nhưng được bảo vệ; Hệ thống chính trị ở nông thôn dưới mỗi lúc mỗi thay đổi thì tính truyền thống không có sự lãnh đạo của Đảng được tăng cường. Xây dựng nữa; nói truyền thống là nói lâu dài qua nhiều thời giai cấp nông dân, củng cố liên minh công nhân - mà lõi cốt vẫn giữ, nói của dân tộc là nói của chung Tạp chí Nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190, Số 2 (69) 2020 123
  5. NGHIÊN CỨU KHOA HỌC đại đa số nhân dân. Trong giá trị truyền thống dân thuần phong mỹ tục xuống cấp, quan hệ giữa các tộc thì người xưa và người nay đều cơ bản đồng thành viên gia đình dòng họ không còn bị chi phối tình, người sau nối chí người trước, phát huy lên, bởi các chuẩn mực trước đây nữa. Ở một số gia làm giàu mãi” [8]. đình, quan hệ cha mẹ - con cái căng thẳng, anh em bất hòa, mẹ chồng nàng dâu xung đột, tình trạng ly Là sự phản ánh "văn hóa làng", tinh thần dân chủ hôn tăng, một bộ phận thanh thiếu niên sa sút về cơ sở, giá trị của lệ làng xưa thể hiện ở những đạo đức. Sự biến đổi này của ý thức đạo đức đang phong tục tập quán tốt đẹp còn tác động đến nhiều gióng những tiếng chuông báo động đòi hỏi phải mặt của đời sống xã hội của người nông dân trong giữ gìn, phát huy những nét đẹp truyền thống mà quá trình xây dựng nông thôn mới hiện nay. gia đình xưa đã hun đúc nuôi dưỡng để mỗi thành - Thứ nhất, lệ làng đề cao tinh thần trách nhiệm viên có nghĩa vụ trách nhiệm đối với bản thân và của con người trước cộng đồng: gia đình - họ hàng gia đình. - làng - nước. Lệ làng hình thành trực tiếp từ các - Thứ hai, từ trách nhiệm đối với gia đình, những hoạt động trong đời sống làng xã, là những quy định mang tính đạo đức pháp luật. Lệ làng quy định chuẩn mực giá trị nền tảng còn được mở rộng nghĩa vụ và trách nhiệm của cá nhân trước cộng thành những quan hệ tốt đẹp trong họ hàng - xóm đồng, trước hết là trong quan hệ gia đình. Lệ làng làng rồi lan tỏa ra cả cộng đồng quốc gia - dân tộc. quy định: Cha mẹ phải có trách nhiệm dưỡng - dục Đoàn kết tương thân tương ái giúp nhau trong cơn con cái. Con phải thảo kính phụng dưỡng cha mẹ hoạn nạn, giữ gìn tình làng nghĩa xóm là nét đẹp lúc ốm đau, khi già cả. trong làng quê người Việt “hàng xóm tối lửa tắt đèn có nhau”. Việc quy định trách nhiệm của cá nhân Để nuôi dạy con, cha mẹ phải thức khuya dạy sớm, với các công việc trong làng, hương ước cùng với tần tảo với bao vất vả gian nan, nhưng đây mới chỉ dư luận và các quan niệm về đạo đức làng xã đã là một phần trách nhiệm của bậc làm cha, mẹ. Phần tạo ra sự giám sát của cộng đồng đối với mọi cá quan trọng hơn là dạy con làm người, dạy cho con nhân. Bằng sự giám sát đó, mỗi người phải có ý cái biết cách ứng xử trong gia đình, họ hàng, làng thức sống vì xóm làng, mọi giá trị của cá nhân phải xã. Điều này, không chỉ phù hợp với những chuẩn hướng vào giá trị của cộng đồng. Từ đó, người mực đạo đức mới mà còn phù hợp với những yêu nông dân Việt Nam nói chung trọng nhân cách cầu của luật pháp XHCN. Trước đây, làng xã tôn hơn là trọng tài năng và giàu có. Ngày nay, mặc vinh cha mẹ có công nuôi dạy con thành đạt bằng dù trong điều kiện kinh tế thị trường nhiều chuẩn cách dành chỗ ngồi xứng đáng nơi sinh hoạt cộng mực giá trị đã thay đổi, quan hệ kinh tế xã hội của đồng và nêu gương những người con hiếu đễ trong người nông dân không còn bó hẹp trong phạm các dịp sinh hoạt cộng đồng. Giá trị truyền thống vi làng xã, nhưng người có nhân cách sống hòa đó ngày nay chúng ta cần tiếp tục trân trọng giữ thuận với làng xóm vẫn là người được coi trọng gìn, học tập, để xây dựng gia đình văn hóa mới, nhất. Chính vì trọng nhân cách mà người nông dân với phương châm “ông bà, cha mẹ mẫu mực, con sống vì danh, làm xấu danh hoặc đánh mất thanh cháu thảo hiền”. Đại hội lần thứ VII của Đảng đã danh của mình là làm xấu thanh danh của dòng nhấn mạnh "Nâng cao ý thức về nghĩa vụ gia đình họ, xóm làng. Trước đây để giữ lấy "thanh danh" đối với mọi lớp người" [4]. của gia đình, họ hàng, xóm làng mà phải bỏ làng Gia đình là tế bào của xã hội là nơi nuôi dưỡng và ra đi, như trường hợp các cô gái "cả nể" nên để "lỡ tạo tiền đề vững chắc để con cái trưởng thành. Do làng". Bởi vậy, người nông dân Việt Nam luôn có ý đó, gia đình có nhiệm vụ giáo dục cho các thành thức giữ mình và răn dạy con cháu đừng làm gì xấu viên từ tuổi ấu thơ đến lúc trưởng thành thấm để ảnh hưởng tới nhân cách, làm ô danh họ hàng, nhuần và làm theo các chuẩn mực truyền thống để phải hổ thẹn với làng xóm. Đó cũng là mặt tích "trên kính dưới nhường", "mẹ dạy con khéo, cha cực của lệ làng cần được phát huy để người nông dạy con khôn", "thuận vợ thuận chồng", "chị ngã dân - người công dân của xã hội mới thực sự làm em nâng", "con thảo, cháu hiền"... gia đình cũng là chủ nông thôn mới. Giữ gìn tình làng nghĩa xóm, lối pháo đài ngăn ngừa và đẩy lùi những hành vi lệch sống kỷ cương, tôn trọng những quy định của cộng chuẩn để mỗi người trong gia đình thực sự là yêu đồng phù hợp với những chuẩn mực của pháp luật thương đùm bọc lẫn nhau. và yêu cầu quản lý xã hội ở làng xã. Những năm gần đây, dưới tác động của mặt trái Trong quá trình đổi mới và thực hiện nhiệm vụ kinh tế thị trường, cái nôi gia đình truyền thống nông thôn mới, việc vun đắp những giá trị tinh thần đang có những biến động và rạn nứt. Nhiều người truyền thống tốt đẹp, thể hiện thành chuẩn mực cho rằng đạo đức, nề nếp gia đình đang suy thoái, ứng xử giữa con người với con người, con người 124 Tạp chí Nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190, Số 2 (69) 2020
  6. LIÊN NGÀNH TRIẾT HỌC - XÃ HỘI HỌC - CHÍNH TRỊ HỌC với xã hội, với thiên nhiên luôn luôn được Đảng và trên mọi lĩnh vực. Làng xã là nền tảng của xã hội, nhân dân ta coi trọng. là nơi trực tiếp thực hiện mọi chủ trương chính sách của Đảng, luật pháp của nhà nước. Trong hệ Nét đẹp truyền thống, ý thức trách nhiệm này nay thống tổ chức nhà nước xã là đơn vị hành chính được thể hiện ở những phong trào đền ơn đáp cấp cơ sở ở nông thôn, là địa bàn nông dân sinh nghĩa, giúp nhau làm kinh tế xóa đói giảm nghèo. sống, lao động sản xuất, là nơi diễn ra sự tiếp xúc Từ lịch sử phát triển của dân tộc Việt Nam, chúng và các mối liên hệ nhiều mặt giữa nhân dân với ta thấy cộng đồng người Việt đã tìm ra một lẽ sống chính quyền, là nơi trực tiếp thể hiện quyền dân trọng nhân nghĩa, trọng lẽ phải, giàu lòng nhân chủ của nhân dân. ái, thương người như thể thương thân. Lẽ sống ấy không chỉ được chứng minh trong cuộc kháng Dân chủ gắn bó mật thiết với các quyền tự do, chiến trường kỳ của dân tộc chống xâm lược mà bình đẳng và hạnh phúc của con người. Nội dung còn được thể hiện ngay trong điều kiện đất nước quan trọng nhất của dân chủ là mọi người đều phải phát triển kinh tế thị trường, khi mà những chuẩn được bình đẳng tham gia vào các công việc của xã giá trị đang có sự thay đổi. Lẽ sống ấy còn được hội, được bàn bạc và quyết định những công việc thể hiện ở mỗi nghĩa cử cao đẹp của từng cá nhân chung của cộng đồng. và mỗi tập thể như: phong trào hiến đất làm đường, Dân chủ chỉ có thể được xác lập và thể chế hóa trên làm các công trình công cộng xây dựng nông thôn mảnh đất cụ thể, nơi con người đã sinh ra và lớn mới, phong trào cả nước hướng về miền quê lên trong môi trường, truyền thống dân tộc mình, nghèo khó, trong cơn hoạn nạn, bão lụt điều này với hệ thống giá trị chuẩn mực định hướng suy nghĩ thể hiện lương tâm trách nhiệm của người dân cả và hành động của đa số nhân dân lao động. Sự nước, là sự tiếp nối truyền thống tốt đẹp trong lịch phát triển, mức độ và phạm vi ảnh hưởng của nó sử dân tộc. phụ thuộc rất nhiều vào truyền thống lịch sử dân tộc. Mỗi dân tộc tùy đặc điểm lịch sử sẽ xây dựng - Thứ ba, lệ làng đòi hỏi người nông dân có ý thức cho mình một mô hình dân chủ, một thiết chế chính trách nhiệm trước cộng đồng trong việc bảo vệ môi trị phù hợp với hoàn cảnh của mình đảm bảo cho trường sống, bảo vệ trật tự an ninh làng xã. Ý thức quyền dân chủ thực sự ở nhân dân. Trong truyền trách nhiệm với cộng đồng đã hình thành trong thống dân tộc Việt Nam, mỗi con người đều có sự người nông dân ý thức dân chủ làng xã, dù rằng gắn kết với cộng đồng, là thành viên của gia đình - ý thức này dưới chế độ thực dân phong kiến đã bị họ hàng - làng - nước. Trong đó làng là cộng đồng các tầng lớp trên trong làng lợi dụng. Tham gia đầy cơ sở, là nơi gắn kết các gia đình trong mối quan đủ các công việc trong làng, người nông dân cũng hệ họ hàng - làng xóm đan xen và có ảnh hưởng to đòi hỏi các thành viên trong làng có trách nhiệm lớn đến đời sống mỗi con người. Người Việt Nam như thế. Làm trái với lệ làng nhất là với các điều cả cuộc đời mình gắn bó với làng xã, luôn ý thức về liên quan đến công việc hệ trọng như đắp đê, sử cội nguồn, về quê hương "nơi chôn nhau cắt rốn". dụng quỹ nghĩa thương... đều bị lên án mạnh mẽ. Người Việt Nam trọng đạo lý và danh dự, giải quyết Dựa vào lệ làng - hương ước, người nông dân đã việc gì cũng dựa trên cơ sở có lý có tình. Nhiều khi tranh thủ được phần nào những tập quán tốt đẹp lại trọng tình hơn trọng lý: thuận hòa giải, thậm chí của làng xã để bảo vệ quyền lợi của mình. Khát có hành vi thái quá nhưng chưa vi phạm pháp luật vọng muốn được sống dân chủ, bình đẳng và tinh cũng đã bị dư luận lên án, phê phán, buộc chủ thể thần đấu tranh của người nông dân trước đây đã phải điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với ngăn chặn được phần nào sự lũng đoạn của các yêu cầu của cộng đồng. Bởi vì "dân chúng biết giải chức dịch làng xã, bảo vệ thành quả lao động sản quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, xuất chung của người dân trong làng. Như vậy, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to trong bối cảnh của xã hội quân chủ quan liêu, mỗi lớn nghĩ mãi không ra" [10]. Trong thực tế có nhiều làng Việt vẫn còn - mặc dù không đậm nét - một số mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân có thể hòa giải, mặt dân chủ mà người nông dân đã sử dụng để có thể được giải quyết trên cơ sở tình làng nghĩa bảo vệ lợi ích chung của mình. Tinh thần dân chủ xóm, tình thương yêu đùm bọc lẫn nhau giữa các ấy cần được phát huy, để hướng người nông dân thành viên trong làng xã, trong cộng đồng. Vì vậy, biết sử dụng pháp luật để thực hiện quyền làm chủ trong quá trình dân chủ hóa và quản lý xã hội ở của mình. nông thôn không thể không chú ý đến đặc điểm và Chế độ dân chủ ở nước ta thể hiện tập trung ở việc truyền thống dân tộc, truyền thống làng xã trên tất xây dựng một nhà nước của dân, do dân và vì dân, cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, để xây dựng nhằm phát huy tối đa quyền làm chủ của nhân dân và nâng cao ý thức pháp luật cho nông dân. Tạp chí Nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190, Số 2 (69) 2020 125
  7. NGHIÊN CỨU KHOA HỌC - Thứ tư, tinh thần "dân chủ làng xã" còn được thể quy ước thì tình hình an ninh trật tự ổn định, không hiện ở tính chủ động của làng trong việc bảo vệ xảy ra các vụ vi phạm pháp luật như lấn chiếm đất an ninh thôn xóm, thực hiện vai trò tự quản của đai... các tệ nạn xã hội, mê tín dị đoan bị đẩy lùi, nông dân. tình đoàn kết trong xóm ngoài làng ngày càng bền chặt, vai trò của các tổ chức đảng, chính quyền và Về mặt cơ cấu tổ chức, mỗi làng Việt xưa đều có các đoàn thể được nâng cao... một thiết chế tự quản, tự nó giải quyết việc bảo vệ an ninh cộng đồng. Làng tổ chức ra các đội "tuần 3.3. Những ảnh hưởng tiêu cực của lệ làng đến phiên" thực hiện tuần tra canh gác "nội hương ấp, quá trình xây dựng nông thôn mới ngoại đồng điền" duy trì trật tự trị an. Từng làng Rõ ràng những phong tục tập quán tốt đẹp, những có quy định riêng để ngăn ngừa và xử phạt các vụ yếu tố tích cực của lệ làng xưa nếu được phát huy đánh chửi nhau, tệ rượu chè, cờ bạc, trộm cắp, sẽ có tác dụng trong việc quản lý xã hội, thực hiện quan hệ nam nữ bất chính... Những quy định đó dân chủ hóa góp phần hình thành và nâng cao ý đã phát huy vai trò tự quản của người nông dân, thức pháp luật cho nông dân đóng góp quan trọng làm cho trong từng lũy tre xanh đó duy trì được vào quá trình xây dựng nông thôn mới ở nước ta cuộc sống có trật tự, bình yên. Phải chăng nhờ tự hiện nay. quản mà người nông dân xưa ít vi phạm pháp luật? Lệ làng là một hình thái ý thức xã hội, nảy sinh và Nhưng có điều chắc chắn là thông qua quan hệ họ tồn tại trên cơ sở tồn tại xã hội, bên cạnh những tác hàng - làng xóm và bằng dư luận đã lên án phê động tích cực, lệ làng là trở ngại đáng kể trong việc phán những thói hư tật xấu và bằng tình làng nghĩa xây dựng nguyên tắc “sống và làm việc theo pháp xóm đã "hòa giải" những xích mích, xung đột bằng luật” trong thời kỳ xây dựng nông thôn mới ở nước những lời khuyên như "một sự nhịn, chín sự lành" ta hiện nay. vì đều là bà con, dây mơ rễ má "trong họ, ngoài - Thứ nhất, lệ làng làm nảy sinh trong bộ phận nhân làng" với nhau. dân tâm lý, tư tưởng cục bộ địa phương “phép vua Khi đất nước chuyển sang cơ chế thị trường, điều thua lệ làng”. Điều này nó thể hiện tính cô lập “tự đáng lo ngại ở nông thôn không phải là buôn lậu, trị” của làng. Chính từ quá trình hình thành và tồn hàng giả, mà khi được hỏi, người nông dân làng tại, làng với cơ sở kinh tế tự cấp tự túc, với kiểu xã cho rằng điều đáng lo ngại nhất là: nạn cờ bạc, tổ chức xã hội riêng cùng các tập tục về ma chay, rượu chè, số đề. Từ cờ bạc, rượu chè mà sinh ra cưới xin, lễ hội, tín ngưỡng, tập quán và cả “thổ trộm cắp đánh chửi nhau mất đi tình làng nghĩa ngữ” riêng và được thể chế hóa bằng hương ước, xóm, vi phạm pháp luật. Vì vậy sử dụng tinh thần lệ làng. Chính điều này, đã hình thành ở người dân "dân chủ làng xã", tạo ra dư luận xã hội lành mạnh thói quen sống theo lệ làng chỉ quan tâm đến lợi ích để hạn chế những tiêu cực, vi phạm pháp luật ở của làng mình mà ít quan tâm đến lợi ích của làng nông thôn sẽ không chỉ tạo nên hiệu quả quản lý xã khác và của cả nước. Lệ làng nó phản ánh tồn tại hội, mà còn phát huy tính tích cực của người nông xã hội trước đây cho nên bản thân nó đã bao hàm dân trong công cuộc xây dựng CNXH. nhiều nội dung phản ánh tín ngưỡng, sinh hoạt văn Công cuộc đổi mới thực hiện dân chủ hóa xã hội hóa ở địa phương đó, trong khí đó, hiện nay với sự ở nước ta thực tế cho thấy, ở đâu dân được "biết" phát triển mạnh mẽ của kinh tế, xã hội, những tồn được "bàn", được tham gia vào các hoạt động của tại xã hội đã có sự thay đổi, nhưng những quy định địa phương, các tổ chức tự quản của nhân dân trong hương ước, lệ làng chưa thay đổi và nó mang được phát huy thì ở đó có nhiều gia đình văn hóa tính cổ hủ, lạc hậu. và làng xã trở thành làng văn hóa, người nông dân - Thứ hai, tư tưởng địa vị ngôi thứ, anh em, dòng sống có văn hóa, tôn trọng pháp luật và các quy tắc họ, làng ra đời phát triển gắn liền với chế độ phong của cộng đồng. Tìm hiểu những làng văn hóa đều kiến, vì vậy, lệ làng bản thân nó đã chứa đựng nội nhận thấy một số nét chung: Có "quy ước văn hóa hàm địa vị, ngôi thứ mang tính chất phân biệt “đẳng làng" các tổ chức quần chúng hoạt động có hiệu cấp xã hội”. Tư tưởng địa vị, ngôi thứ đã để lại cho quả và bầu không khí dư luận xã hội lành mạnh. người nông dân những hậu quả tiêu cực nặng nề. "Quy ước làng văn hóa" là sự kế thừa những tập Các thang bậc xã hội trong làng vừa là mục đích quán tốt đẹp của lệ làng xưa và đã phát huy tác tiến thân, song cũng là bởi danh vọng buộc họ phải dụng tích cực của nó... giữ gìn trật tự trị an làng bằng mọi cách mà giành lấy nếu không muốn bị xóm, tệ nạn xã hội giảm, một số nơi không có xảy khinh rẻ và lép vế. Cùng với đó là tâm lý “sống lâu ra vi phạm pháp luật, tăng cường bảo vệ tài sản của lên lão làng”, nó góp phần làm mất dân chủ, bình công và của cộng đồng. Ở các làng thực hiện tốt đẳng giữa các thế hệ, hạn chế việc phát huy trí tuệ 126 Tạp chí Nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190, Số 2 (69) 2020
  8. LIÊN NGÀNH TRIẾT HỌC - XÃ HỘI HỌC - CHÍNH TRỊ HỌC của các thế hệ sau với lý lẽ “trứng không thể khôn - Thứ tư, đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền, hơn vịt”. Tư tưởng họ hàng bè phái nảy sinh trên phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức tôn cơ sở tâm lý làng của người nông dân nó còn ảnh trọng pháp luật cho nông dân. Hiện nay khi công hưởng đậm nét cho tới tận ngày nay, thể hiện qua nghệ thông tin đã phát triển việc tuyên truyền phổ việc bầu các chức danh như: Trưởng thôn, Bí thư biến, giáo dục pháp luật không chỉ thông qua các chi bộ, đại biểu Hội đồng nhân dân… với ý thức bài phát thanh tuyên truyền trên loa công cộng, đưa “người của họ mình”, “của làng mình” vào các bằng sách, báo, truyền hình, mà cần cả sân khấu chức vụ chính quyền, đoàn thể… Điều này ảnh hóa các văn bản pháp luật để nông dân dễ hiểu, hưởng xấu tới quá trình xây dựng nông thôn mới ở dễ nhớ. Cùng với đó là tuyên truyền thông qua các địa phương. phương tiện truyền thông số như qua facebook, - Thứ ba, lệ làng tạo tâm lý thói quen sống theo lệ zalo nhóm, thư điện tử, website,… làm được như chứ ít theo luật. Việc quản lý làng xã bằng hương vậy sẽ từng bước nâng cao ý thức chấp hành pháp ước trước đây là một trong những cơ sở để hình luật của nông dân. thành lối sống theo “lệ”, không quen sống với pháp luật của người nông dân. Người dân sợ lệ, sợ dư - Thứ năm, tiếp tục chuẩn hóa về năng lực, trình luận của làng mà không sợ luật thậm chí coi thường độ văn hóa đối với đội ngũ làm công tác văn hóa, pháp luật “phép vua thua lệ làng”. tuyên truyền tại cơ sở. Cán bộ làm công tác văn hóa cơ sở phải đảm năng lực trình độ từ trung cấp 4. MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT HUY MẶT TÍCH chuyên ngành văn hóa trở lên và trình độ lý luận CỰC VÀ HẠN CHẾ MẶT TIÊU CỰC CỦA LỆ chính trị từ sơ cấp trở lên. Hằng năm cán bộ văn LÀNG TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY hóa cơ sở tập trung ngắn ngày để bồi dưỡng tập - Thứ nhất, nâng cao vai trò lãnh đạo của cấp ủy, huấn cập nhật kiến thức thường xuyên phù hợp với chính quyền địa phương trong công tác chỉ đạo, tình hình mới, tạo điều kiện để kịp thời giải quyết quản lý và xây dựng nếp sống văn hóa mới ở nông những phát sinh trong đời sống thực tiễn. thôn. Hàng năm, Đảng ủy, Ủy ban nhân dân phải có - Thứ sáu, xây dựng, nhân rộng những điển hình, Nghị quyết về xây dựng và hoàn thiện hương ước, mô hình tiên tiến các làng xã thực hiện tốt nếp sống lệ làng mới phù hợp với từng địa phương và phù văn hóa mới. Để nhân rộng các mô hình làng, xã hợp với các văn bản luật hiện hành của Nhà nước. tiên tiến cần chia sẻ nhiều mô hình hay, cách làm - Thứ hai, xác định vị trí, vai trò chủ đạo trong công hiệu quả ở các làng xã. Các làng, xã cụ thể hóa, tác tham mưu, tổ chức thực hiện của Mặt trận Tổ thực hiện nhiều mô hình thiết thực gắn với đời sống quốc và các tổ chức thành viên của Mặt trận trong người dân như: Mô hình tuyến đường tự quản; khu việc xây dựng hương ước, lệ làng mới hiện nay. dân cư xanh - sạch - đẹp - an toàn; khu dân cư an Tăng cường vai trò các tổ chức đoàn thể nhân dân, toàn an ninh trật tự; đoạn đường văn hóa,… lồng chủ động xây dựng và phát triển các tổ chức nhân ghép vào các tiêu chí công nhận làng, xã văn hóa. dân tự quản. 5. KẾT LUẬN - Thứ ba, nâng cao dân trí cho người nông dân, về cơ bản nâng cao dân trí là nâng cao trình độ học Những giá trị của văn hóa truyền thống, nhất là vấn. Nâng cao trình độ học vấn, phải kết hợp “dạy văn hóa làng xã là không thể phủ nhận. Trong quá chữ” với “dạy nghề”, dạy văn hóa không tách rời trình xây dựng nông thôn mới ở nước ta hiện nay, với định hướng nghề nghiệp, đẩy mạnh công tác những giá trị đó cần tiếp tục được giữ gìn, phát huy “khuyến nông” đưa khoa học kỹ thuật về nông thôn, gắn với thực tiễn của từng địa phương, vì thế cần gắn kết “4 nhà - nhà nông, Nhà nước, nhà khoa kết hợp từng bước nâng cao đời sống vật chất với học, nhà doanh nghiệp” để giúp đỡ nông dân làm đời sống tinh thần, nâng cao ý thức và năng lực ăn có hiệu quả. Đồng thời Nhà nước cần có chính thực hành pháp luật cho nông dân. Kết hợp xây sách hỗ trợ dạy nghề tạo việc làm mới cho nông dựng và kiện toàn hệ thống chính trị ở nông thôn dân, vì hiện nay nhiều địa phương khi đẩy mạnh vững mạnh với việc phát huy vai trò tổ chức nhân công nghiệp hóa, đất nông nghiệp bị thu hồi người dân tự quản, kế thừa và phát huy những yếu tố tích dân không có ruộng sản xuất, lại chưa qua đào tạo cực của di sản truyền thống và cải biến nó cho phù nên sức ép về việc làm ở nông thôn rất lớn. Nếu hợp với cuộc sống hôm nay; đó là những giải pháp không giải quyết tốt vấn đề này sẽ gây ra tình trạng đồng bộ tích cực nhằm xây dựng nông thôn mới ô nhiễm môi trường xã hội. văn minh, giàu đẹp. Tạp chí Nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190, Số 2 (69) 2020 127
  9. NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TÀI LIỆU THAM KHẢO [6]. Bùi Xuân Đính (1998), Hương ước quản lý làng xã, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. [1]. Phan Kế Bính (1990), Việt Nam phong tục, NXB TP. Hồ Chí Minh. [7]. Bùi Xuân Đính (1985), Lệ làng phép nước, NXB Pháp lý, Hà Nội. [2]. Phan Đại Doãn (1995), Mấy nét về quá trình hình thành và phát triển Hương ước Việt Nam, [8]. Trần Văn Giàu (1980), Giá trị tinh thần truyền Một số chuyên đề nghiên cứu về đề tài nghiên thống dân tộc Việt nam, NXB Khoa học xã hội, cứu khoa học pháp lý, Viện Nghiên cứu khoa Hà Nội. học pháp lý. [9]. Viện Sử học (1995), Quốc triều hình luật, NXB [3]. Phan Đại Doãn (1995), Mấy suy nghĩ về Hương Chính trị quốc gia - sự thật, Hà Nội. ước trong quản lý nông thôn, Hội thảo: Vai trò [10]. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 5, NXB của Hương ước trong việc xây dựng nông thôn Chính trị quốc gia, Hà Nội. mới và quản lý nhà nước đối với việc xây dựng [11]. Văn Tạo (1993), Chúng ta kế thừa di sản nào, và thực hiện Hương ước, Bộ Tư pháp - UBND NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. tỉnh Hải Dương. [12]. Trung Tâm từ điển học (2011), Từ điển tiếng [4]. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại Việt, NXB Đà Nẵng. hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, NXB Chính [13]. http://mattran.org.vn/tin-tuc/tong-ket-10-nam- trị quốc gia - sự thật, Hà Nội. chuong-trinh-muc-tieu-quoc-gia-xay-dung- [5]. Bùi Xuân Đính (1999), 101 truyện pháp luật đời nong-thon-moi-29416.html xưa, NXB Thanh niên. THÔNG TIN VỀ TÁC GIẢ Trần Hoàng Yến - Tóm tắt quá trình đào tạo, nghiên cứu (thời điểm tốt nghiệp và chương trình đào tạo, nghiên cứu): + Năm 2004: Tốt nghiệp Đại học Khoa Ngôn ngữ Anh, Trường Đại học Hà Nội. + Năm 2011: Tốt nghiệp Thạc sĩ chuyên ngành Lý luận và phương pháp dạy học Ngoại Ngữ, Trường Đại học Ngoại Ngữ, Đại học Quốc gia Hà Nội. - Tóm tắt công việc hiện tại: Giảng viên khoa DLNN, Trường Đại học Sao Đỏ. - Lĩnh vực quan tâm: Ngôn ngữ, và phương pháp giảng dạy ngoại ngữ. - Email: yendhsd@gmail.com. - Điện thoại: 0986596586. 128 Tạp chí Nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190, Số 2 (69) 2020
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2