intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Phát huy vai trò của hợp tác quốc tế trong tự chủ đại học ở Việt Nam hiện nay

Chia sẻ: Phó Cửu Vân | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

14
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết "Phát huy vai trò của hợp tác quốc tế trong tự chủ đại học ở Việt Nam hiện nay" tập trung phân tích các nội dung chính: (1) Tự chủ đại học ở Việt Nam hiện nay; (2) Vai trò của hợp tác quốc tế trong tự chủ đại học; (3) Một số kinh nghiệm cần quan tâm phát huy vai trò hợp tác quốc tế trong tự chủ đại học hiện nay. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Phát huy vai trò của hợp tác quốc tế trong tự chủ đại học ở Việt Nam hiện nay

  1. PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA HỢP TÁC QUỐC TẾ TRONG TỰ CHỦ ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Đỗ Quang Huy1 Học viện An ninh nhân dân Abstract In the past time, university autonomy has shown important results such as the promotion in the rankings of educational institutions, the quality of educational accreditation, scientific publication etc the quality of trained human resources. Creation etc. One of the important contributors to these results is the strengthening of international cooperation. In order to further clarify the position and role of international cooperation in university autonomy in Vietnam, the article focuses on analyzing the main contents: (1) University autonomy in Vietnam today; (2) The role of international cooperation in university autonomy; (3) Some experiences that need attention to promote the role of international cooperation in university autonomy today. Keywords: Promoting, the role, university autonomy, international cooperation, Vietnam. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Thời gian qua, hệ thống đại học Việt Nam đã có một bước phát triển nhanh không chỉ về số lượng các trường được thành lập mà còn về sự đa dạng hóa các loại hình đào tạo, chương trình liên kết hợp tác, về mở rộng chuyên ngành đào tạo nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội. Bên cạnh tăng số lượng các trường đại học, vấn đề chất lượng đào tạo sinh viên (SV) là điều đáng qua tâm. Nhằm tăng cường chất lượng đào tạo, bắt kịp cùng xu thế của thế giới, các trường đại học ở Việt Nam đã tăng cường các hoạt động hợp tác quốc tế (HTQT). Theo chúng tôi, đây là một xu thế tất yếu của thời đại, trong một thế giới phẳng như hiện nay. HTQT tạo điều kiện thúc đẩy các hoạt động trao đổi học thuật, giúp nâng cao trình độ của giảng viên (GV); trao đổi SV, công nhận các chương trình đào tạo của nhau giúp SV có thể đồng thời tiếp cận chương trình giáo dục tiên tiến, bảo đảm khả năng đạt được những cơ hội việc làm tốt trong tương lai; khảo thí, kiểm định các chương trình giáo dục, đào tạo của các trường đại học để học tập cũng như phát hiện, điều chỉnh kịp thời những vấn đề trong giáo dục, đào tạo,... Vì vậy, HTQT đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong sự phát triển của các trường đại học, đặc biệt trong tình hình tăng cường tính tự chủ trong các trường đại học ở Việt Nam hiện nay. Vì vậy, chúng ta cần có những nghiên cứu, phân tích, luận giải kỹ lưỡng về xu thế HTQT trong tự chủ đại học (TCĐH) ở Việt Nam, đặc biệt là phân tích, khảo sát được thực trạng, từ đó đưa ra được những khuyến nghị để phát huy vai trò của HTQT trong TCĐH ở Việt Nam hiện nay. 2. NỘI DUNG 2.1. Tự chủ đại học ở Việt Nam hiện nay Trên thế giới, khái niệm TCĐH (University autonomy) nói đến các mối quan hệ đang thay đổi giữa nhà nước và các trường đại học (N.V. Varghese, Michaela Martin, Thomas Estermann). Xu hướng thay đổi cơ bản là phát huy truyền thống tự do học thuật 1 doquanghuy130192@gmail.com 466
  2. và giảm dần sự kiểm soát trực tiếp của các cơ quan công quyền đối với trường đại học. Từ góc độ này, TCĐH là quyền tự do của thể chế đại học trong việc ra quyết định và thực thi các quyết định đối với các hoạt động nội bộ của đại học mà không có sự kiểm soát hay can thiệp của nhà nước và bất kỳ sự ảnh hưởng nào nếu có của nhà nước cũng đều phải dựa trên cơ sở pháp luật. TCĐH là tự chủ thể chế đại học với nghĩa là tự chủ của trường đại học và tự chủ này được thể chế hóa bởi hệ thống các chính sách, pháp luật của nhà nước. Ở Việt Nam, khái niệm tự chủ mới xuất hiện và phát triển trong quá trình đổi mới quản lý nhà nước đối với cơ sở giáo dục đại học theo tinh thần xã hội hóa bảo đảm thống nhất, kỷ cương quản lý nhà nước vừa phân cấp quản lý, tăng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của trường đại học và thu hút sự tham gia của các bên liên quan. TCĐH ở Việt Nam là tự chủ theo quy định pháp luật, gắn với tự chịu trách nhiệm và được thể chế hóa từng phần trong từng lĩnh vực hoạt động của các cơ sở đại học. Nhằm thể chế hóa quan điểm về vấn đề TCĐH, Nghị quyết 14/2005/NQ-CP ngày 02/11/2005 của Chính phủ về đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam 2006 - 2020, xác định trên cơ sở đổi mới tư duy và cơ chế quản lý giáo dục đại học, kết hợp hợp lý và hiệu quả giữa việc phân định rõ chức năng, nhiệm vụ quản lý Nhà nước và việc đảm bảo quyền tự chủ, tăng cường trách nhiệm xã hội, tính minh bạch của các cơ sở giáo dục đại học. Phát huy tính tích cực và chủ động của các cơ sở giáo dục đại học trong công cuộc đổi mới mà nòng cốt là đội ngũ GV, cán bộ quản lý và sự hưởng ứng, tham gia tích cực của toàn xã hội. Thực hiện hạch toán thu - chi đối với cơ sở giáo dục đại học công lập, tạo điều kiện để các cơ sở giáo dục đại học có quyền tự chủ cao trong thu - chi theo nguyên tắc lấy các nguồn thu bù đủ các khoản chi hợp lý, có tích lũy cần thiết để phát triển cơ sở vật chất phục vụ đào tạo và nghiên cứu. Chuyển các cơ sở giáo dục đại học công lập sang hoạt động theo cơ chế tự chủ, có pháp nhân đầy đủ, có quyền quyết định và chịu trách nhiệm về đào tạo, nghiên cứu, tổ chức, nhân sự và tài chính. Xóa bỏ cơ chế bộ chủ quản, xây dựng cơ chế đại diện sở hữu nhà nước đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập. Bảo đảm vai trò kiểm tra, giám sát của cộng đồng; phát huy vai trò của các đoàn thể, tổ chức quần chúng, đặc biệt là các hội nghề nghiệp trong việc giám sát chất lượng giáo dục đại học. Luật Giáo dục đại học số 08/2012/QH13 ngày 18/6/2012 của Quốc hội đã quy định quyền tự chủ của các cơ sở giáo dục đại học, trong đó: (1) Cơ sở giáo dục đại học tự chủ trong các hoạt động chủ yếu thuộc các lĩnh vực tổ chức và nhân sự, tài chính và tài sản, đào tạo, khoa học và công nghệ, HTQT, bảo đảm chất lượng giáo dục đại học. Cơ sở giáo dục đại học thực hiện quyền tự chủ ở mức độ cao hơn phù hợp với năng lực, kết quả xếp hạng và kết quả kiểm định chất lượng giáo dục; (2) Cơ sở giáo dục đại học không còn đủ năng lực thực hiện quyền tự chủ hoặc vi phạm pháp luật trong quá trình thực hiện quyền tự chủ, tùy thuộc mức độ, bị xử lý theo quy định của pháp luật. Luật đã cho phép các cơ sở giáo dục thực hiện xã hội hóa giáo dục đại học; ưu tiên về đất đai, thuế, tín dụng, đào tạo cán bộ để khuyến khích các cơ sở giáo dục đại học tư thục và cơ sở giáo dục đại học có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động không vì lợi nhuận; ưu tiên cho phép thành lập cơ sở giáo dục đại học tư thục có vốn đầu tư lớn, bảo đảm các điều kiện thành lập theo quy định của pháp luật; cấm lợi dụng các hoạt động giáo dục đại học vì mục đích vụ lợi. Để cụ thể hóa các nội dung về quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của trường đại học trong khuôn khổ pháp lý được quy định, đồng thời để thúc đẩy hoạt động TCĐH tại Việt Nam, Nghị quyết số 77/NQ-CP, ngày 24/10/2014 của Chính phủ ban hành về 467
  3. Thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập giai đoạn 2014 - 2017 quy định rõ quyền tự chủ: (i) Tự chủ về đào tạo và nghiên cứu khoa học; (ii) Tự chủ về tổ chức bộ máy, nhân sự; (iii) Tự chủ về tài chính. Nghị định số 16/2015/NĐ-CP, ngày 14/2/2015 của Chính phủ về cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập, quy định tại Điều 4: “Khuyến khích và tạo điều kiện cho tất cả các trường đại học công lập có đủ điều kiện, cam kết tự đảm bảo kinh phí hoạt động chi thường xuyên và chi đầu tư được thực hiện tự chủ, tự chịu trách nhiệm toàn diện về nhiệm vụ đào tạo, nghiên cứu khoa học, tổ chức bộ máy, nhân sự và tài chính”. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng khẳng định tăng cường quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục và đào tạo. Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả của các đơn vị sự nghiệp công lập (Nghị quyết 19-NQ/TW ngày 25/10/2017) yêu cầu đẩy mạnh việc thực hiện cơ chế tự chủ các trường đại học. Thực hiện chuyển đổi hoạt động của các trường đại học công lập đủ điều kiện sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm, hoạch toán như doanh nghiệp. Áp dụng mô hình quản trị đối với các trường đại học công lập tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư như mô hình quản trị doanh nghiệp. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả cơ chế hội đồng trường trong các trường đại học theo hướng Hội đồng trường là cơ quan thực quyền cao nhất của trường đại học; bí thư đảng ủy kiêm chủ tịch hội đồng trường. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học (Luật số 34/2018/QH14 của Quốc hội khóa XIV) quy định quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình của cơ sở giáo dục đại học, trong đó khẳng định, cơ sở giáo dục đại học thực hiện quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình theo quy định của pháp luật. Đồng thời chỉ rõ các điều kiện thực hiện quyền tự chủ của cơ sở giáo dục đại học, như đã thành lập hội đồng trường, hội đồng đại học; đã được công nhận đạt chuẩn chất lượng cơ sở giáo dục đại học bởi tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục hợp pháp; đã ban hành và tổ chức thực hiện quy chế tổ chức và hoạt động; quy chế tài chính; quy chế, quy trình, quy định quản lý nội bộ khác và có chính sách bảo đảm chất lượng đáp ứng tiêu chuẩn do Nhà nước quy định, v.v.. Tại Nghị định số 99/2019/NĐ-CP, ngày 30/12/2019 của Chính phủ về quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều Luật số 34/2018/QH14, quy định về quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình của trường đại học, bao gồm: quyền tự chủ về học thuật và hoạt động chuyên môn; quyền tự chủ về tổ chức bộ máy và nhân sự; quyền tự chủ về tài chính và tài sản và quy định về trách nhiệm giải trình. Và gần đây nhất, trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đưa ra định hướng, đó là: “Đa dạng hóa các loại hình đào tạo, hoàn thiện chính sách phát triển các cơ sở đào tạo ngoài công lập, thực hiện cơ chế tự chủ đối với đào tạo bậc đại học phù hợp với xu thế chung của thế giới, chuyển đổi trường đại học công lập kém hiệu quả sang mô hình hợp tác công - tư” [3, tr.233]; “Tăng cường công tác kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục; xếp hạng các trường đại học. Quy hoạch mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học; phát triển cơ sở giáo dục đại học chất lượng cao theo chuẩn khu vực và thế giới, ưu tiên nguồn lực phát triển các trường công nghệ” [4, tr.129]. Như vậy, TCĐH đã được Đảng, Nhà nước quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, thể chế hóa thành quy định, hướng dẫn khá đầy đủ. Nhận thức về TCĐH ngày càng rõ ràng, có nhiều chuyển biến tích cực. Hệ thống văn bản của Đảng và Nhà nước đã tạo hành lang pháp lý cho các trường đại học thực hiện quyền tự chủ, bảo đảm hoạt động theo cơ chế thị trường 468
  4. dưới sự quản lý của Nhà nước. Việc thực hiện tự chủ và trách nhiệm giải trình của các trường đại học công lập bước đầu có kết quả nhất định, giúp giảm bớt các thủ tục hành chính, tăng tính chủ động, linh hoạt trong tổ chức thực hiện các hoạt động. Mô hình thí điểm tự chủ bước đầu được đánh giá tích cực ở một số cơ sở giáo dục đại học, đạt được những thành tựu nhất định và được xã hội công nhận, góp phần đưa giáo dục đại học Việt Nam từng bước hội nhập tốt hơn với giáo dục đại học trên thế giới. 2.2. Vai trò của HTQT trong TCĐH Năm 2014, thực hiện Đề án thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động cho các trường đại học công lập giai đoạn 2014 - 2017, đầu tiên áp dụng với 04 trường đại học trong cả nước, gồm: Đại học Kinh tế Quốc dân, Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Ngoại thương và Đại học Hà Nội cho thấy, các trường trở nên năng động hơn, nỗ lực hơn; không ngừng cải tiến, nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học và HTQT; nguồn tài chính được cải thiện, qua đó giảm được gánh nặng cho ngân sách nhà nước,... Tiếp theo, 23 trường đại học công lập thực hiện tự chủ trên nhiều mặt: nguồn nhân lực, tuyển sinh, đào tạo, tài chính, HTQT,... Đến nay, thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước và Luật Giáo dục đại học (Luật số 08/2012/QH13), Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học (Luật số 34/2018/QH14) của Quốc hội, Nghị định số 99/NĐ-CP thực hiện quy định tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học và cả nước có 154/170 cơ sở giáo dục đại học công lập đã thành lập Hội đồng trường và đi vào hoạt động (đạt tỷ lệ 90,6%); trong đó, có 36/36 cơ sở giáo dục đại học công lập trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo đã thành lập Hội đồng trường [1]. Nhìn chung, các trường đại học tự chủ có một đặc trưng cơ bản, ngoài những yếu tố mang tính chất đặc thù của các trường đại học tự chủ theo quy định của pháp luật, các trường đại học tự chủ có hoạt động HTQT rất sâu rộng. Vậy, tại sao các trường đại học lại chú trọng đến HTQT trên tất cả các mặt từ nghiên cứu học thuật, trao đổi SV đến trao đổi kinh nghiệm quản lý và phát triển trường đại học? Theo chúng tôi, do mấy điểm sau: Thứ nhất, thông qua HTQT để huy động nguồn lực tài chính, phục vụ chiến lược, sứ mệnh của trường đại học. Việc xây dựng những trường đại học đỉnh cao ở các nước đang phát triển trong mấy thập niên qua chủ yếu dựa vào nguồn lực tài chính của bản thân các nước hoặc dựa vào vốn vay. Việt Nam cũng không là ngoại lệ. Hiện nay, với mục tiêu xây dựng 04 trường đại học đạt chuẩn quốc tế, chúng ta phải sử dụng nguồn vốn 400 triệu USD từ các khoản cho vay của Ngân hàng Phát triển Á Châu ADB. Tuy hợp tác giữa các quốc gia về trao đổi văn hóa giáo dục có ý nghĩa rất quan trọng, song có lẽ không nên mong đợi sự “cho không” nào cả nếu muốn bảo vệ tính chính trực của nền học thuật quốc gia nhằm phục vụ lợi ích lâu dài của đất nước. Tuy nhiên, cần có một cái nhìn “động” về vấn đề nguồn lực tài chính. Tuy nguồn vốn ban đầu nhằm xây dựng cơ sở vật chất và tạo lập bộ máy nhân sự là rất quan trọng, nhưng quan trọng hơn nữa là khả năng tạo ra nguồn lực tài chính bảo đảm cho các hoạt động của nhà trường trong trung hạn và dài hạn. Đại học nghiên cứu là thứ rất đắt đỏ và cần được sự hỗ trợ mạnh mẽ của nhà nước nhưng nó cũng được mong đợi là sẽ kiến tạo ra những tri thức khoa học và công nghệ mang lại nguồn tài chính cho nhà trường và cải thiện năng lực cạnh tranh của quốc gia. Đây là nơi HTQT bắt đầu có vai trò quan trọng. Chính HTQT sẽ nâng cao năng lực đào tạo và nghiên cứu của nhà trường, và năng lực ấy 469
  5. sẽ mang lại một nguồn tài chính to lớn thông qua các hoạt động đào tạo, nghiên cứu và chuyển giao công nghệ. Thêm nữa, trong công thức thành công của một trường đại học, gồm ba nhân tố: Nguồn lực con người, Nguồn lực tài chính, Cơ chế quản trị thì các tham tố này không độc lập mà có tương tác lẫn nhau, tức có thể bù đắp hoặc triệt tiêu lẫn nhau. Con số tuyệt đối về nguồn lực tài chính có thể không đổi nhưng hiệu quả của việc sử dụng nguồn lực tài chính này thì phụ thuộc rất nhiều vào phẩm chất của con người và tính chính đáng (legitimacy) của cơ chế quản trị. Theo nghĩa ấy, thì các quan hệ HTQT nếu tác động tích cực lên nguồn lực con người và cơ chế quản trị thì cũng sẽ tạo ra hiệu quả tích cực của việc sử dụng nguồn lực tài chính. Thứ hai, thông qua HTQT để phát huy và tận dụng tối đa nguồn lực con người, thông qua đó quảng bá, nâng cao vị thế của trường. HTQT có một vai trò rất quan trọng trong việc cung ứng nguồn lực con người cho các trường đại học đỉnh cao này trong bước đầu thành lập. Thông qua HTQT, với một nguồn lực huy động được, chúng ta có thể tận dụng được nguồn chất xám từ các nước tiên tiến trên thế giới. Thông qua các hoạt động này, nhiều trường đại học lớn đã có được đội ngũ GV có thể đảm đương giảng dạy các chương trình quốc tế, thực hiện được trao đổi GV với nhiều trường đại học ở các khu vực khác nhau trên thế giới. Ðồng thời, các trường đại học trong nước cũng có một đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục - đào tạo có thể xây dựng và điều hành các chương trình quốc tế. Nhiều chương trình đào tạo của một số trường đại học đã được các trường có uy tín của châu Âu, Hoa Kỳ, Australia công nhận tương đương và cho phép thực hiện chuyển đổi kết quả học tập. Nhiều trường đại học Việt Nam đã tham gia các liên kết, liên minh giáo dục quốc tế, một số trường đã được các tổ chức giáo dục nước ngoài có uy tín đánh giá và công nhận là thành viên chính thức. Chúng ta có thể thấy điển hình như Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, khi trường là thành viên chính thức của Hiệp hội các trường đào tạo kinh doanh AACSB (Hoa Kỳ), đã giúp Trường Đại học Kinh tế Quốc dân có cơ hội hợp tác với các đại học uy tín trên thế giới; cũng như thường xuyên trao đổi, tiếp cận được các thông tin về cách thức hoạt động của các trường này trên một cộng đồng mở. Đồng thời, với sự hợp tác đó, cũng bảo đảm bằng đại học về kinh doanh được cấp bởi trường sẽ được công nhận rộng rãi bởi cộng đồng các đại học danh tiếng của thế giới có ngành này. Cùng với đó, bảo đảm khả năng được tuyển dụng, khả năng cạnh tranh mạnh để phát triển nghề nghiệp và tương lai trên phạm vi toàn thế giới cho người học. Ngoài việc tranh thủ được tri thức quốc tế, thông qua việc HTQT, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân đã được cộng đồng giáo dục trên thế giới công nhân, điển hình như trường được đánh giá cao trong bảng xếp hạng đại học quốc tế, mục tiêu hướng tới được các tổ chức uy tín xếp hạng như Times Higher Education, tổ chức xếp hạng QS (Quacquarelli Symonds). Với sứ mệnh đi tiên phong trong đổi mới, phát triển và phổ biến tri thức về kinh tế, quản lý và quản trị kinh doanh; thu hút và đào tạo nhân tài; cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao, phụng sự sự nghiệp phát triển bền vững của đất nước, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân đã được ghi nhận trên Bảng xếp hạng đại học THE Impact Rankings của tổ chức uy tín Times Higher Education năm 2022. Trường Đại học Kinh tế Quốc dân là 1 trong 7 trường đại học của Việt Nam tham gia bảng xếp hạng này. Đây cũng là năm đầu tiên Trường Đại học Kinh tế Quốc dân tham dự xếp hạng và đã đạt kết quả thứ hạng 601 - 800 trên tổng thể lộ trình thực hiện các Mục tiêu phát triển bền vững của Liên Hợp Quốc (SDGs) so sánh cùng 1406 các cơ sở giáo dục đại học khác trên toàn cầu. 470
  6. Thứ ba, thông qua tự chủ về đại học, giúp các trường hoàn thiện về cơ chế quản trị đại học, phù hợp với bối cảnh hiện nay. Trong ba nhân tố quyết định thành công của một trường đại học, thì cơ chế quản trị là nhân tố cốt yếu nhất và khó khăn nhất đối với Việt Nam. Cốt yếu nhất vì nó đóng vai trò liên kết nguồn lực con người và nguồn lực tài chính, nó có thể nhân lên hoặc triệt tiêu sức mạnh của cả nguồn lực con người lẫn nguồn lực tài chính. Khó khăn nhất vì nó liên quan đến nền tảng văn hóa, hệ thống chính trị, sự chi phối của các nhóm lợi ích. Vì vậy, hơn bất cứ nơi nào khác, đây là chỗ cần quyết tâm của chính phủ, bởi nếu không thay đổi nhân tố trọng yếu này thì mọi nỗ lực khác đều sẽ không dẫn đến kết quả mong đợi. Đối với các trường đang hiện hữu, HTQT không trực tiếp tác động lên cơ chế quản trị của các trường, nhưng thông qua trao đổi học giả, giao lưu văn hóa, hợp tác nghiên cứu, có thể tăng cường nhận thức của giới quản lý đại học và GV, tạo ra nhu cầu và điều kiện cho những cải cách có thể thực hiện. Đối với những trường được thành lập mới, HTQT với những trường đại học nước ngoài đã có uy tín và kinh nghiệm lâu đời có thể giúp xây dựng ngay từ đầu một thiết chế vận hành với cơ chế quản trị, chương trình đào tạo và hệ thống nhân sự nhằm bảo đảm chất lượng và duy trì năng lực cạnh tranh, như đã được thực hiện trong trường hợp Đại học Quốc tế Bremen (Đức): nhà nước Đức đầu tư 300 triệu USD với sự hợp tác toàn diện mọi mặt của Đại học Rice (Hoa Kỳ) trong giai đoạn thành lập để xây dựng Đại học Quốc tế Bremen và chỉ sau 5 năm thành lập (năm 2008), trường này đã có tên trên danh sách 500 trường hàng đầu thế giới của cả hai bảng xếp hạng SJTU (xếp hạng 401 - 500) và THES (xếp hạng 375). Một ví dụ thành công tương tự trong việc hợp tác xây dựng thiết chế vận hành ngay từ đầu là sự hợp tác của Massachussettes Institute of Technology (MIT- Hoa Kỳ) và Viện Khoa học Công nghệ Kanpur của Ấn Độ. Sự hợp tác của MIT trong trường hợp này là do kêu gọi của Tổng thống Kenedy nhằm đáp ứng đề nghị hỗ trợ đào tạo kỹ thuật của Thủ tướng Ấn Nehru năm 1959. Viện Khoa học Công nghệ Kanpur sau này trở thành một trong những trường uy tín nhất của Ấn Độ. Thành công này có được trước hết là nhờ quyết tâm rất cao của nhà nước Ấn, thể hiện qua việc ủng hộ sự chủ động của nhà trường bằng cách đem lại cho họ một phạm vi quyền hạn rất rộng so với những quy định và chính sách đương thời. Hai là nhờ sự hợp tác đã đi đúng hướng: thay vì đem nguyên cả mô hình quản trị và bộ máy nhân sự Hoa Kỳ đặt lên mảnh đất Ấn Độ, chương trình hợp tác này đã đặt trọng tâm vào việc xây dựng năng lực nội tại cho trường đối tác. Họ cùng làm việc một cách gắn bó trong quá trình xây dựng chương trình và tuyển dụng nhân sự. Hai bên đều hiểu rằng đây phải là một trường đại học Ấn Độ chứ không phải một chi nhánh của các trường nước ngoài tại Ấn. Như người sáng lập Viện Khoa học Công nghệ Kanpur đã nói: “Điều phân biệt một trường hàng đầu với những trường khác chính là cái môi trường làm việc của nó. Có những thứ không thể mang vào từ bên ngoài mà phải được xây dựng và duy trì bằng chính nỗ lực và sự tự ý thức của nhà trường” [5, tr.3]. 2.3. Một số vấn đề cần rút ra trong phát huy vai trò của HTQT trong TCĐH hiện nay Mặc dù bên cạnh những mặt thành tựu đã đạt được trong phát huy vai trò của HTQT trong TCĐH, hoạt động này cũng đặt ra một số thách thức, cụ thể: Một là, cơ chế, chính sách, pháp luật của Nhà nước còn chưa thật sự chặt chẽ, nhất quán, đôi lúc còn trên giấy tờ trong việc tự chủ nói chung và thừa nhận các chương trình 471
  7. HTQT, đặc biệt là công nhận các chương trình liên kết, thừa nhận chất lượng giáo dục của các trường đại học ở Việt Nam với các trường đại học trên thế giới. Hai là, nhận thức của xã hội, của các cơ quan, cơ sở giáo dục đại học đối với TCĐH nói chung và HTQT trong TCĐH nói riêng; nhận thức đối với vai trò, chức năng của hội đồng trường nhìn chung còn hạn chế, dẫn tới việc ban hành các định chế chồng chéo, mâu thuẫn và khó thực hiện, có sự nhầm lẫn giữa TCĐH với tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập, chính điều này gây nên những trở ngại nhất định trong HTQT. Ba là, hạ tầng cơ sở để sử dụng công nghệ cao, điển hình như hệ thống mạng viễn thông, công nghệ thông tin, cơ sở vật chất, v.v. còn chưa thật sự đáp ứng được yêu cầu ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật hiện đại, phục vụ HTQT. Bốn là, với vấn đề tự chủ toàn diện của các trường đại học, đặc biệt đối với các chương trình đào tạo tiên tiến thì mức học phí tương đối cao. Vì vậy, đối với những học sinh có hoàn cảnh khó khăn, vùng nông thôn rất khó có khả năng tiếp cận những chương trình tiên tiến đó; gây bất bình đẳng trong khả năng tiếp cận tri thức. Năm là, trình độ, kỹ năng quản trị, điều phối hoạt động HTQT của đội ngũ cán bộ trong một số trường đại học còn có những hạn chế nhất định. Nhằm phát huy hơn nữa vai trò của HTQT trong TCĐH, theo chúng tôi đưa ra một số khuyến nghị, cụ thể như sau: Thứ nhất, Nhà nước cần tạo ra cơ chế, hành lang pháp lý tạo điều kiện tối đa, tăng quyền tự chủ cho các trường đại học. Tuy nhiên, tự chủ của các trường đại học không có nghĩa là Nhà nước để các trường đại học tự do hoạt động. Nhà nước cần đưa ra các mục tiêu tổng thể chung trong phát triển đất nước để các trường đại học theo đó xây dựng tôn chỉ hành động, sứ mệnh giáo dục. Với vai trò đặc biệt của mình, Nhà nước cần sử dụng vị thế của mình trong ngoại giao với các nước tiên tiến trên thế giới để kêu gọi, thu hút đầu tư, chuyển giao công nghệ trên lĩnh vực giáo dục. Lúc đó, Nhà nước đóng vai trò như một cầu nối quan trọng các trường đại học trong nước với các quốc gia, tổ chức quốc tế trong giao lưu, trao đổi học thuật. Thứ hai, các trường đại học cần tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ trong hoạt động giáo dục, đào tạo. Đặc biệt, các trường đại học cần ứng dụng mạnh mẽ công nghệ hiện đại trong quản lý, giảng dạy và học tập bằng việc đầu tư các thiết bị, hệ thống thông tin quản lý, hệ thống đào tạo trực tuyến, hệ thống giảng đường hiện đại, xây dựng thư viện điện tử,... Cần thể hiện vai trò tiên phong của mình trong việc thực hiện sứ mệnh nghiên cứu, chuyển giao khoa học công nghệ. Để thực hiện sứ mệnh đó, các trường đại học cần đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu khoa học và ứng dụng kết quả nghiên cứu đó trong hoạt động dạy - học và quản lý đào tạo, tăng cường trao đổi học thuật, chia sẻ kinh nghiệm, hình thành mạng lưới nghiên cứu khoa học giữa các trường đại học trong và ngoài nước. Thứ ba, tập trung xây dựng đội ngũ quản lý và GV có trình độ cao về chuyên môn nghiệp vụ, có khả năng sử dụng thành thạo ngoại ngữ. Để đào tạo ra nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế trong tình hình hiện nay, đòi hỏi đội ngũ quản lý và GV phải có kiến thức chuyên môn sâu rộng, biết ứng dụng công nghệ hiện đại trong công tác quản lý, giảng dạy, có khả năng thích ứng trước sự thay đổi về chương trình, mô hình đào tạo và nhu cầu học tập của người học trong giai đoạn hội nhập và HTQT. 472
  8. Thứ tư, trong quá trình hội nhập và HTQT, các trường đại học tránh tình trạng dàn trải mà cần đánh giá về mục tiêu, sứ mệnh giáo dục, điểm nhấn của trường để từ đó chú trọng đến các trường đại học có uy tín trong khu vực và thế giới để tiếp cận với những phương pháp dạy - học, cách thức quản lý, thành tựu khoa học giáo dục tiên tiến, hiện đại của thế giới, từ đó nâng cao hiệu quả của giáo dục đại học ở Việt Nam. Thứ năm, các trường đại học cần xây dựng chương trình và có một khoản phúc lợi nhất định của trường để tạo điều kiện, giúp đỡ SV tại vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn,.., có khả năng học tập, tiếp thu tri thời đại, vươn ra thế giới, thay đổi cuộc sống của chính mình. 3. KẾT LUẬN Xây dựng trường đại học tự chủ ở Việt Nam, theo những chuẩn mực quốc tế để tiến đến có những trường đại học đẳng cấp quốc tế trong tương lai là một chủ trương lớn của nhà nước. HTQT có một vai trò trọng yếu trong tiến trình này. Tích cực tham gia HTQT nhằm tiếp thu những thành tựu của giáo dục thế giới nhưng bản thân các trường đại học trong quá trình tự chủ của mình cần phải tự nâng cao năng lực nghiên cứu và đào tạo cũng như xây dựng một thiết chế vận hành hợp lý cho một trường đại học theo chuẩn mực quốc tế trong bối cảnh hiện nay. Mặc dù đưa ra vấn đề TCĐH, nhưng Nhà nước vẫn cần phải đóng vai trò quan trọng trong định hướng, lấy vai trò đặc biệt của chủ thể Nhà nước nhằm tạo điều kiện, giúp đỡ các trường đại học trong liên kết với các chủ thể nhà nước khác, với giới quản lý đại học và giới học giả nước ngoài. Chắc chắn, trong thời gian tới, vấn đề TCĐH ở Việt Nam sẽ tiếp tục được khảo sát, đánh giá, rút kinh nghiệm, tuy nhiên đây là chủ trương đúng đắn, phù hợp với thực tiễn. Trong đó, quan hệ quốc tế là một nhiệm vụ tất yếu của tiến trình tự chủ hóa đại học ở Việt Nam. ________________ Tài liệu tham khảo [1] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2023), Báo cáo tổng kết công tác năm 2022 và triển khai nhiệm vụ năm 2023, Hà Nội. [2] Vũ Tiến Dũng (2022), Tự chủ đại học ở Việt Nam hiện nay: Thực trạng và giải pháp. Nguồn: http://tapchimattran.vn, ngày 26/4/2022. [3] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (tập I), NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội. [4] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (tập II), NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội. [5] E.C. Subbarao (2008), An Eye for Excellence: Fifty innovative years of IIT Kanpur, Harper Collins, New Dehli. [6] Quốc hội (2018), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học, Luật số 34/2018/QH14 ngày 19/11/2018. [7] Lê Chiến Thắng (2021), Tăng cường hợp tác quốc tế trong phát triển đại học thời kỳ mới, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội, số 43, tr. 81-84. [8] Lê Đức Thọ (2022), Quá trình tự chủ đại học về nhân lực của một số quốc gia trên thế giới và những gợi ý cho giáo dục đại học Việt Nam, Tạp chí Khoa học Trường Đại học Bà Rịa - Vũng Tàu, số 03, tr. 49-55. 473
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2