intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Phép châm điều trị (Kỳ 3)

Chia sẻ: Thuoc Thuoc | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:5

97
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Cảm giác khi châm và hiệu quả trị liệu Khi châm kim vào da tới một độ sâu nhất định, bệnh nhân có thể có cảm giác đau nhẹ, hơi căng tức hoặc tê bì. Người xưa thường gọi là hiện tượng “đắc khí”. Cảm giác thay đổi tuỳ theo thể trạng bệnh nhân, vị trí huyệt, độ sâu cũng như hướng châm kim. Thông thường, những huyệt ở mặt gây ra cảm giác căng, còn những huyệt tại nơi dày cơ thì có thể gây cảm giac đau tức; chỉ trên những huyệt ở gan tay, gan...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Phép châm điều trị (Kỳ 3)

  1. Phép châm điều trị (Kỳ 3) 4. Cảm giác khi châm và hiệu quả trị liệu Khi châm kim vào da tới một độ sâu nhất định, bệnh nhân có thể có cảm giác đau nhẹ, hơi căng tức hoặc tê bì. Người xưa thường gọi là hiện tượng “đắc khí”. Cảm giác thay đổi tuỳ theo thể trạng bệnh nhân, vị trí huyệt, độ sâu cũng như hướng châm kim. Thông thường, những huyệt ở mặt gây ra cảm giác căng, còn những huyệt tại nơi dày cơ thì có thể gây cảm giac đau tức; chỉ trên những huyệt ở gan tay, gan chân, và các đầu ngón mới có cảm giác đau thực sự. Châm những huyệt ở chi, có thể gây nên cảm giác như điện giật, lan toả đi xa. Hiệu lực điều trị có quan hệ chặt chẽ với cảm giác khi châm. Thông thường, nếu cảm giác như vậy diễn ra nhanh chóng và điều khiển dễ dàng thìk ết quả xem như đạt yêu cầu, và ngược lại. (Điều này không áp dụng cho những huyệt mà, do vị trí của chúng, không có hiện tượng cảm ứng gì cả). Cảm giác khi châm
  2. tuỳ thuộc không những ở thể trạng bệnh nhân và tình trạng bệnh lý của họ, mà còn liên quan chặt chẽ với thao tác của thầy thuốc. Bệnh nhân có cảm giác thoải mái khi thầy thuốc thao tác một cách khéo léo và xác định chính xác huyệt vị. Để nâng cao hiệu quả điều trị, thầy thuốc cần quan sát kỹ những cảm giác này trên thực tiễn lâm sàng. Trên lâm sàng mức độ kích thích không những tuỳ thuộc vào thao tác mạnh hay yếu, mà chủ yếu còn tuỳ thuộc ở phản ứng của bệnh nhân khi châm kim. Vì thế, căn bản cần phân tích cụ thể những điều kiện riêng biệt. Thí dụ, có khi người thầy thuốc nghĩ rằng mình thao tác châm kim như thế đã là mạnh, song bệnh nhân lại chỉ cảm thấy nhẹ nhàng, trong khi đó một thao tác nhẹ nhàng thì lại có thể gây ra một phản ứng mạnh ở bệnh nhân. Cho nên, muốn xét xem kích thích mạnh hay yếu thì phản ứng của bệnh nhân cũng như thao tác của thầy thuốc cần được chú ý cả hai. 5. Hướng kim và độ sâu của kim 1- Hướng kim Khi kim đã xuyên vào da, nó tạo thành một góc với mặt da. Mức độ của góc phụ thuộc vào vị trí huyệt và bệnh trạng đang được điều trị. Phần chi tiết sẽ được nêu trong phần huyệt vị ở chương III song những nguyên tắc chung của hướng kim như sau:
  3. a- Châm thẳng: Nghĩa là, mũi kim xuyên qua da theo chiều thẳng đứng. Phương pháp này áp dụng cho những huyệt vị ở vùng cơ dày hoặc những nơi được chỉ định châm sâu, như ở tứ chi, bụng, vùng thắt lưng. b- Châm xiên: Mũi kim tạo thành một góc xấp xỉ 450 với mặt da. Chủ yếu dùng cho những vị trí huyệt ở vùng ngực và lưng có quan hệ với các phủ tạng, hoặc cho một số khu vực đặc biệt như huyệt Liệt khuyết chẳng hạn. c- Châm ngang: Kim châm nằm là là mặt da, tạo thành một góc khoảng 150. Phương pháp này thường dùng cho những huyệt ở mặt và đầu, có lớp cơ mỏng. Dùng phương pháp này để châm nông xuyên qua hai hoặc nhiều huyệt bằng một kim, hoặc châm những huyệt ở ngực và lưng càng thích hợp, vì lẽ không được châm sâu vào những huyệt này. 2- Độ sâu của kim Không có tiêu chuẩn tuyệt đối nào quy định độ sâu của kim. Thông thường, độ sâu phụ thuộc vào mức độ cảm giác thực tế của bệnh nhân. Sau đây là một số nguyên tắc chung. a- Các huyệt ở tứ chi: có thể châm sâu theo mức dày của cơ, thực tế còn có thể cdhâm xuyên cơ qua huyệt khác. Huyệt Nội quan có thể châm sâu từ 0,5 đến 1,5 tấc, huyệt Túc Tam lý có thể châm sâu 1 – 2 tấc.
  4. b- Vùng bụng và vùng thắt lưng – cùng: Nói chung, có thể cdhâm sâu 1 – 2 tấc ở những vùng này, vì các cơ khá dày. Tuy nhiên những huyệt ở bụng trên thì không được châm quá sâu. c- Vùng ngực và lưng: Cơ ở những vùng này không mỏng và có các nội tạng quan trọng như tim, phổi, gan, lách có liên quan chặt chẽ với nhau. Vì thế nên châm mông, nhất là nên châm xiên hoặc châm ngang kim. Những huyệt nằm dọc cột sống thì có thể châm thẳng hay châm xiên ở đường giữa, sâu độ 1 – 1,5 tấc. d- Vùng đầu và mặt: Các huyệt nằm ở vùng này cần châm nông, châm xiển hoặc châm ngang kim, vì cơ thường mỏng. Để tránh các tai biến có thể xảy ra, cần hết sức chú ý đến độ sâu khi châm những huyệt ở vùng mắt và những huyệt ở sau gáy như Phong phủ. Á môn, Thiên trụ, vì chúng ở vào nơi hiểm yếu. Những nguyên tắc trên nói chung được áp dụng cho người lớn. Đối với trẻ em, độ sâu của kim sẽ giảm bớt. Mặt khác, độ sâu của kim và thể trạng bệnh nhân cũng có mối quan hệ mật thiết. Chẳng hạn, châm huyệt Trung quản, có thể gây được kích thích mạnh khi kim sâu 0,5 tấc ở một bệnh nhân gầy. Mặt khác, ở người béo, châm sâu khoảng 2 tấc mới có thể có cảm giác. Trên lâm sàng, cần phải phân tích tỉ mỉ đối với từng bệnh nhân. Nguyên tắc chung là phải điều khiển chính xác độ sâu khi châm vào những huyệt liên quan đến các phủ tạng quan trọng và các mạch máu lớn. Thầy thuốc cần nắm vững vị trí của những huyệt liên quan với giải phẫu định khu. Cần theo dõi
  5. chặt chẽ bệnh nhân để phát hiện những phản ứng, đồng thời phải thao tác khéo léo, nhằm đạt được kết quả trị liệu mỹ mãn và phòng ngừa biến cố.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2