v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
PHƯƠNG PHÁP BIÊN SOẠN GIÁO TRÌNH<br />
DỊCH NÓI TIẾNG TRUNG QUỐC<br />
TẠI HỌC VIỆN KHOA HỌC QUÂN SỰ<br />
TỐNG VĂN TRƯỜNG *<br />
*<br />
Học viện Khoa học Quân sự, ✉ tongtruong@hotmail.com<br />
Ngày nhận bài: 04/01/2018; ngày sửa chữa: 06/02/2018; ngày duyệt đăng: 28/02/2018<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Trước sự phát triển của lý luận dịch nói cũng như yêu cầu thực tiễn, việc biên soạn giáo trình dịch<br />
nói tiếng Trung Quốc không còn đơn thuần là dựa trên một mô hình giáo trình có sẵn, mà phải xác<br />
định rõ cơ sở lý luận, tìm tòi mô hình, từ đó đưa ra định hướng về phương pháp. Bài viết đi sâu<br />
phân tích lý luận về dịch nói, lấy thuyết Cảm ý và trường phái coi phiên dịch là quá trình động là<br />
nền tảng quan trọng, có tính khả thi cao trong việc chỉ đạo công tác biên soạn giáo trình dịch nói.<br />
Trên cơ sở lý luận đã được chắt lọc và phân tích, bài viết đưa ra các định hướng về phương pháp<br />
cho việc biên soạn giáo trình dịch nói tiếng Trung Quốc tại Học viện Khoa học Quân sự, bao gồm:<br />
xác định mục tiêu, yêu cầu của việc biên soạn; đưa ra các định hướng về cấu trúc giáo trình, về lựa<br />
chọn và tổ chức ngữ liệu... nhằm đảm bảo chất lượng và tính khoa học của giáo trình.<br />
Từ khóa: giáo trình dịch nói tiếng Trung Quốc, phương pháp biên soạn, định hướng<br />
<br />
<br />
<br />
1. MỞ ĐẦU và phương pháp đối chiếu ngôn ngữ làm đơn vị<br />
phân tích và phương pháp giảng giải. Tuy nhiên,<br />
Môn dịch nói là môn học được thiết kế cho không thể đồng nhất giữa năng lực ngôn ngữ và<br />
chuyên ngành cử nhân ngoại ngữ giai đoạn năm năng lực dịch nói, việc biên soạn giáo trình nếu chỉ<br />
thứ 3 và thứ 4. Theo một số nghiên cứu, “ở các chú trọng các vấn đề ngôn ngữ trong dịch nói mà<br />
khoa ngoại ngữ trong nhiều trường đại học tại Việt xem nhẹ các nội dung về kỹ năng dịch nói, thì giáo<br />
Nam, việc dạy dịch (nói và viết) thường chú trọng trình cũng trở nên không toàn diện.<br />
đối chiếu giữa hai ngôn ngữ, luyện kỹ năng nghe,<br />
nói, đọc, viết. Riêng với dịch nói, sinh viên thực Cùng với đó, ở một số giáo trình dịch nói, việc<br />
hành các mẫu câu trong các tình huống thuộc các biên soạn lại chỉ chú trọng vào rèn luyện kỹ năng<br />
lĩnh vực khác nhau...” (Hồ Đắc Túc, 2012, tr.197). dịch nói. Thực tế giảng dạy cho thấy, mô hình giáo<br />
Thực tế này xuất phát từ việc biên soạn giáo trình trình này cũng cần phải có thêm nội dung hướng<br />
dịch nói đã đặt trọng điểm vào việc nâng cao dẫn về kiến thức ngôn ngữ, trọng điểm của giáo<br />
năng lực ngoại ngữ cho người học, từ đó lấy câu trình dịch nói là bồi dưỡng kỹ năng nhưng cũng<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
70 Số 2 - 3/2018<br />
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v<br />
<br />
<br />
<br />
không được bỏ qua nhân tố bồi dưỡng năng lực – hay “thoát ly nguyên ngữ” (deverbalization), và<br />
ngôn ngữ. (3) “Tái diễn ý” (reformulation/re-expression).<br />
(赛莱丝科维奇, 1992, tr.8)<br />
Tại Học viện Khoa học Quân sự, môn dịch nói<br />
mới được đưa vào giảng dạy, việc biên soạn giáo Hiểu ý là bước đầu tiên trong tiến trình dịch<br />
trình, tài liệu liên quan đang được triển khai. Biên thuật. Thuyết Cảm ý coi dịch thuật là một hành vi<br />
soạn giáo trình tài liệu không chỉ đơn thuần là dựa truyền đạt: dịch là để truyền đạt thông điệp, hay<br />
trên một mô hình giáo trình cụ thể có sẵn, mà còn ý của người nói (hoặc văn bản). Ý của người nói<br />
phải làm rõ cơ sở lý luận cũng như định hướng được xây dựng và thoát thai từ ngôn từ, bối cảnh<br />
về phương pháp. Việc lựa chọn, xác định cơ sở lý và kiến thức nền.<br />
luận và định hướng về phương pháp không chỉ có<br />
vai trò quan trọng quyết định đến chất lượng, tính Ly từ là quan niệm hạt nhân thuyết Cảm ý, ly<br />
khoa học, hiện đại của giáo trình dịch nói sắp được từ có nghĩa là quên từ ngữ và cấu trúc ngôn ngữ<br />
biên soạn, mà còn là nhân tố bảo đảm hàm lượng nguồn, coi từ ngữ trong ngôn ngữ nguồn chỉ là<br />
nội dung quân sự phù hợp với đối tượng đào tạo cử phương tiện chuyển tải, từ phương tiện đó nhận ra<br />
nhân cấp phân đội. ý nghĩa chính. Nói cách khác, đây là giai đoạn giải<br />
mã: người dịch không chú tâm ghi nhớ từ ngữ do<br />
2. CÁC VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT LIÊN QUAN người nói ngôn ngữ nguồn sử dụng mà đi giải mã<br />
ý định của người nói. Người dịch lắng nghe người<br />
Lý luận về dịch nói được nghiên cứu trong nói, nắm chắc ý định của người nói rồi chuyển ý<br />
hơn 6 thập kỷ với nhiều lý thuyết khác nhau, có đó qua ngôn ngữ đích.<br />
thể kể đến như thuyết Cảm ý, trường phái coi dịch<br />
nói là quá trình tri nhận, trường phái nghiên cứu Bước thứ ba trong quá trình dịch là tái cấu trúc<br />
hoạt động ngôn ngữ của hệ thần kinh, trường phái ý của ngôn ngữ nguồn bằng ngôn ngữ đích, sao<br />
nghiên cứu hoạt động tương tác trong hội thoại, cho cách dùng từ, biểu đạt, phù hợp và tự nhiên<br />
trường phái coi dịch nói là quá trình động... Tổng trong ngôn ngữ đích. Thuyết Cảm ý coi ngôn ngữ<br />
quan các lý thuyết và trường phái trên, chúng tôi là ký hiệu. Dịch không phải là chuyển ký hiệu này<br />
nhận thấy nội dung của thuyết Cảm ý và trường qua ký hiệu khác mà dịch là chuyển ý nghĩa của<br />
phái coi dịch nói là quá trình động có tính khả thi ký hiệu. Vì vậy trong quá trình dịch, người dịch tái<br />
cao trong việc chỉ đạo hoạt động dịch nói thực tiễn cấu trúc ý chứ không tái cấu trúc ngôn ngữ. Khi tái<br />
cũng như có ý nghĩa thiết thực trong vận dụng vào cấu trúc ý, người dịch quên hết cấu trúc của ngôn<br />
công tác giảng dạy và biên soạn giáo trình. ngữ nguồn, chỉ giữ lại ý và chuyển tải ý đó sao cho<br />
phù hợp với cách nói trong ngôn ngữ đích.<br />
2.1. Thuyết Cảm ý1<br />
Hồ Đắc Túc (2012) cho rằng, thuyết Cảm ý<br />
Seleskovitch là người đầu tiên đặt nền móng “rất hữu ích cho những người muốn thực tập<br />
cho sự ra đời của thuyết Cảm ý – một học thuyết phương pháp dịch ứng đoạn và dịch song hành”.<br />
được ứng dụng rộng rãi trong dịch ứng đoạn (dịch Áp dụng vào việc biên soạn giáo trình dịch nói, lý<br />
đuổi) và dịch song hành (dịch cabin). Nhiều học thuyết này có thể giải quyết được hai vấn đề lớn,<br />
giả cho rằng “việc đào tạo phiên dịch ở Bắc Mỹ và đó là xác định đơn vị dịch và phương pháp phân<br />
Châu Âu ngày nay sẽ khác đi nhiều nếu không có tích được sử dụng trong giáo trình dịch nói. Thuyết<br />
sự đóng góp cả về kinh nghiệm lẫn lý thuyết của Cảm ý cho rằng dịch là vấn đề chuyển ý chứ không<br />
Seleskovitch” (Hồ Đắc Túc, 2012, tr.203) chuyển chữ, cụ thể khi nghe, người nghe không<br />
nghe từng chữ mà nắm bắt từng nhóm thông tin do<br />
Thuyết Cảm ý ra đời vào thập niên 1970, được một số lượng từ cấu thành. Thuyết Cảm ý gọi các<br />
coi là phương pháp dịch thuật dựa theo trình tự ba cụm (chunk) thông tin này là đơn vị nghĩa (units of<br />
bước là: (1) “Hiểu ý” (comprehension), (2) “Ly từ” meaning). Mỗi đơn vị nghĩa không phải có một số<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
Số 12 - 3/2018 71<br />
v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI<br />
<br />
<br />
từ bằng nhau, mà hình thành từ kiến thức tổng thể tiếp xúc lại là ngôn ngữ sống động, là những sản<br />
của người nghe kết hợp với một số lượng từ nào phẩm, là những chủ thể và ngữ cảnh khác nhau”<br />
đó tạo nên nghĩa. Do vậy, đơn vị giảng giải, phân (吕俊, 2002, tr.49).<br />
tích trong giáo trình dịch nói nên là đơn vị nghĩa,<br />
không nên thuần túy là đơn vị câu hay đoạn. Đơn Ngoài ra đặc điểm tính động của hoạt động<br />
vị nghĩa ở đây chính là các ý của thông điệp, do dịch nói càng đòi hỏi phải xem xét đánh giá vấn<br />
đó, giáo trình dịch nói cần lấy nội dung này làm đề dịch nói từ góc độ động, nhận thức sâu hơn về<br />
trọng tâm, thiết kế để rèn luyện cho người học các bản chất của quá trình dịch nói, từ đó ứng dụng<br />
kỹ năng như bắt ý, phân tích ý, lập sơ đồ ý... Trong vào thực tế dịch nói cũng như vào lĩnh vực dạy học<br />
quá trình nghe hiểu, ngôn ngữ nguồn dần dần được và biên soạn giáo trình. Lưu Hòa Bình từng chỉ ra<br />
biến đổi thành các đơn vị ý, các đơn vị ý này được “nghiên cứu trạng thái động của dịch nói lại có thể<br />
tồn tại không cần dựa vào ngôn ngữ. Người dịch giúp chúng ta nhận thức được cả quá trình dịch<br />
thông qua thính giác nắm được các thông tin và ý nói, từ đó tìm ra lời giải cho sự thành công của<br />
nghĩa ương ứng, đồng thời với việc đưa các thông người dịch, đồng thời có thể vận dụng vào biên<br />
tin và ý nghĩa này ghi nhớ vào não thì cũng quên đi soạn giáo trình dạy học” (刘和平, 2003, tr.8).<br />
hình thức ngôn ngữ của ngôn ngữ nguồn đã được<br />
xử lý. Do đó, người dịch nói không có điều kiện và Lấy ý nghĩa của ngôn ngữ làm phương thức để<br />
cũng không có khả năng dựa vào hình thức ngôn nhận thức sâu hơn về quá trình dịch, Bell (2001)<br />
ngữ nguồn để tiến hành dịch từng từ, từng câu, trong khi phân tích các đặc điểm của hoạt động<br />
càng không thể có khả năng tiến hành so sánh hình dịch nói để xây dựng mô hình quá trình dịch nói,<br />
thức ngôn ngữ của ngôn ngữ nguồn với ngôn ngữ đã chỉ ra rằng, người dịch thực sự đóng vai trò là<br />
đích. Vì vậy, việc phân tích hình thức kết cấu giữa người giao tiếp; trong quá trình dịch nói, người<br />
hai ngôn ngữ theo phương thức ngôn ngữ học đối dịch thực tế là đang thực hiện các hành vi giao<br />
chiếu để hướng dẫn người học tiến hành dịch là tiếp. Bell miêu tả các bước tiến hành hành vi giao<br />
không phù hợp với giáo trình dịch nói. tiếp xuyên ngôn ngữ này như sau: (1) Người dịch<br />
tiếp nhận các tín hiệu thông tin 1; (2) phân tích<br />
2.2. Trường phái coi phiên dịch là quá nhận biết các mã 1; (3) giải mã tín hiệu 1, (4) tìm<br />
trình động kiếm thông tin, (5) lí giải thông tin, (6) người dịch<br />
lựa chọn mã 2, (7) thông qua mã 2 để biên tập lại<br />
Đã từ lâu, dưới ảnh hưởng của ngôn ngữ học thông tin, (8) lựa chọn kênh thông tin, (9) truyền<br />
cấu trúc, các ý tưởng được nêu ra khi xây dựng nền tải tín hiệu thông tin 22.<br />
tảng lý luận cho khoa học dịch thuật, từ Nida của<br />
Mỹ hay Wells của Đức, đa số các học giả đều coi Xuất phát từ quan điểm cho rằng, tính động<br />
nguyên văn và bản dịch là hai đối tượng nghiên cứu của dịch nói thể hiện trong hoạt động tư duy của<br />
chủ yếu. Đây là những nghiên cứu về dịch nhìn từ người dịch, Lưu Hòa Bình (2003) cho rằng, việc<br />
góc độ tĩnh, vấn đề quan tâm nhiều hơn vẫn là chất chuyển hóa từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác<br />
lượng sản phẩm dịch, “trọng điểm nghiên cứu tập không phải là một hoạt động máy móc, mà là một<br />
trung vào tiêu chuẩn dịch, đặc trưng ngôn ngữ và quá trình thao tác trí tuệ diễn ra liên tục. Từ nghe<br />
sự chuyển đổi về mặt ngôn ngữ” (王瑞昀, 2004, hoặc nhìn đến hiểu một cách chuẩn xác, từ việc bắt<br />
tr.68). Tuy nhiên, dịch có hai tầng nghĩa, một là ý ý và ghi nhớ ý của não bộ sau khi hiểu thông tin<br />
nghĩa tĩnh, tức là kết quả dịch; hai là ý nghĩa động, đến dùng một ngôn ngữ khác biểu đạt lại nội dung<br />
tức là quá trình dịch. Trường phái coi trọng trạng đã hiểu được, đòi hỏi người dịch phải có sự phân<br />
thái động của dịch cho rằng: “Ngôn ngữ dựa theo tích tư duy một cách toàn diện. Trong tác phẩm<br />
chủ nghĩa cấu trúc là hệ thống tĩnh và khép kín, là “Kỹ xảo dịch nói – Phương pháp dạy học khoa<br />
quy luật của những ký hiệu máy móc, còn trong học tư duy và suy luận dịch nói”, Lưu Hòa Bình<br />
dịch thực tế thì những thứ mà mọi người xử lí và đã chỉ rõ mối quan hệ giữa tư duy với quá trình<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
72 Số 2 - 3/2018<br />
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v<br />
<br />
<br />
<br />
dịch nói, cho rằng bản thân quá trình dịch nói là tiêu đầu tiên của việc biên soạn giáo trình dịch nói<br />
quá trình tư duy, trong đó suy luận lôgic chi phối tiếng Trung Quốc cần xác định là cung cấp kiến<br />
toàn bộ quá trình lý giải và biểu đạt, đồng thời thiết thức về kỹ năng dịch nói Trung - Việt, Việt - Trung,<br />
kế các dạng bài tập rèn suy luận logic và phát huy bao gồm các kỹ năng như nghe hiểu, bắt ý và kết<br />
tính năng của não bộ trong các hoạt động thu nhận, cấu lại ý, ghi nhớ, ghi chép, chuyển đổi ngôn ngữ,<br />
phân tích, tổng hợp, phản ứng... biểu đạt...; đồng thời cung cấp phương pháp để<br />
người học rèn luyện các kỹ năng trên. Mục tiêu<br />
Từ những phân tích về thứ tự hành vi giao tiếp thứ hai của việc biên soạn là cung cấp cho người<br />
trong hoạt động dịch nói của Bell và mối quan hệ học môi trường dịch khá sát với thực tiễn cả về<br />
giữa tư duy với quy trình dịch nói của Lưu Hòa nội dung lẫn hình thức, làm cơ sở cho người học<br />
Bình, có thể thấy rõ đặc trưng mang tính quá trình biết cách vận dụng tổng hợp các kỹ năng và biết<br />
của hoạt động dịch nói. Đây không phải là sự hoán cách xử lý các tình huống dịch trong thực tiễn, từ<br />
đổi ngôn ngữ đơn thuần, ngược lại hành vi dịch của đó hình thành nên ý thức về công tác dịch nói cho<br />
người dịch sẽ thay đổi cùng với sự thay đổi của mỗi người học như biết cách tập trung chú ý, khởi động<br />
trình tự, mỗi đối tượng trong suốt quá trình dịch. công năng tri nhận của đại não, thoát ly lớp vỏ<br />
Nếu lý giải từ góc độ quá trình thì dịch nói trên ngôn ngữ nguồn, nắm ý đồ người nói, rèn yếu tố<br />
thực tế là quá trình động thay đổi theo sự thay đổi tâm lý, xử lý tình huống...<br />
đồng thời của một hay nhiều biến lượng trong quá<br />
trình dịch nói, và sâu hơn đó là các hoạt động của Mục tiêu chính của giáo trình dịch nói không<br />
tư duy. Đây cũng chính là cơ sở cho việc phân chia phải là nâng cao khả năng ngoại ngữ của người<br />
và rèn luyện các kỹ năng riêng lẻ cũng như kỹ năng học; tuy nhiên, đặt trong bình diện là một giáo<br />
tổng hợp hoạt động dịch nói trong biên soạn giáo trình dạy ngoại ngữ thì việc biên soạn giáo trình<br />
trình dịch nói, khắc phục tình trạng coi trọng rèn dịch nói cũng cần nhằm đến mục tiêu cung cấp các<br />
luyện ngôn ngữ, xem nhẹ rèn luyện tư duy lôgic, kiến thức về ngôn ngữ có liên quan, giúp người<br />
hoặc đưa ra kỹ năng, kỹ xảo dịch nói vào giáo học nâng cao khả năng biểu đạt ngôn ngữ, đương<br />
trình nhưng chỉ dừng lại ở giai đoạn kinh nghiệm. nhiên, các kiến thức ngôn ngữ này không phải là<br />
trọng tâm của việc biên soạn. Cần phải nhấn mạnh<br />
3. PHƯƠNG PHÁP BIÊN SOẠN GIÁO<br />
là các kiến thức ngôn ngữ ở đây không chỉ đơn<br />
TRÌNH DỊCH NÓI TIẾNG TRUNG QUỐC<br />
thuần là cung cấp từ mới, rèn luyện kỹ năng nghe<br />
TẠI HỌC VIỆN KHOA HỌC QUÂN SỰ<br />
và kỹ năng nói mà cao hơn đó là tư duy song ngữ<br />
3.1. Mục tiêu, yêu cầu của việc biên soạn phục vụ trực tiếp cho quá trình dịch nói.<br />
giáo trình dịch nói tiếng Trung Quốc<br />
Mục tiêu biên soạn này cần được gắn với đối<br />
3.1.1. Mục tiêu của việc biên soạn giáo trình tượng đào tạo là học viên quân sự với yêu cầu của<br />
dịch nói tiếng Trung Quốc công việc sau này là phục vụ trong quân đội. Do<br />
đó mục tiêu biên soạn cần hướng tới các nội dung<br />
Hiện nay theo khảo sát trên thị trường sách đối ngoại quốc phòng, đàm phán quân sự, các bài<br />
Việt Nam, chưa hề có giáo trình, tài liệu liên quan phát biểu trong lĩnh vực quốc phòng... giúp người<br />
đến dịch nói tiếng Trung Quốc được xuất bản, việc học nắm bắt được các kỹ năng dịch nói trong lĩnh<br />
giảng dạy môn Thực hành dịch nói tiếng Trung vực quân sự. Ngoài ra, nhiệm vụ và yêu cầu của<br />
Quốc tại các trường đại học chủ yếu được thực quân đội không chỉ dừng lại ở việc nắm bắt các<br />
hiện qua tập bài giảng của giáo viên. Môn dịch nói thông tin quân sự mà còn phải bao quát hầu hết các<br />
là môn thực hành, việc dạy học trên lớp chủ yếu ngành nghề trong xã hội. Các nội dung mà người<br />
thông qua các đoạn băng hình cho sẵn, các kỹ năng dịch phải tiếp xúc rất đa dạng, phong phú, trong<br />
dịch nói được phân tích kết hợp trong quá trình đó kinh tế, chính trị, quân sự, khoa học kỹ thuật<br />
dịch, do đó thiếu tính hệ thống và bài bản. Mục là những vấn đề quan trọng trong xã hội hiện đại.<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
Số 12 - 3/2018 73<br />
v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI<br />
<br />
<br />
Việc tổng hợp một cách hợp lý các nội dung này thực hành tổng hợp cần đưa vào các nội dung sát<br />
và đưa vào giáo trình cũng phải được đặt ra đối với thực tiễn như hợp tác quốc phòng, đối ngoại quốc<br />
công tác biên soạn. phòng với các hình thức như đàm phán, hội thảo,<br />
phát biểu...<br />
3.1.2. Yêu cầu của việc biên soạn giáo trình<br />
dịch nói tiếng Trung Quốc Thứ ba, các bài cụ thể cần được thiết kế dưới<br />
dạng các hoạt động khác nhau, nhằm giúp người<br />
Việc biên soạn giáo trình dịch nói tiếng Trung học lĩnh hội dần các kỹ năng thông qua cách giải<br />
Quốc cần đáp ứng các yêu cầu cơ bản như sau: quyết các tình huống, tạo cho người học có nhiều<br />
cơ hội được trải nghiệm, chủ động, sáng tạo. Nội<br />
Trước hết, giáo trình phải cụ thể hóa nội dung<br />
dung các bài ngoài hình thức dịch đuổi và dịch<br />
kiến thức, kỹ năng và thái độ được quy định<br />
cabin theo băng hình các bài diễn thuyết, bài phát<br />
trong chương trình đào tạo đối với môn học Dịch<br />
biểu..., cũng cần chú trọng đến đặc điểm giao tiếp<br />
nói tiếng Trung Quốc, đáp ứng yêu cầu đổi mới<br />
của dịch nói, trong đó nên phát huy vai trò sáng<br />
phương pháp giáo dục đại học và việc kiểm tra,<br />
tạo của người học, người học đóng vai trò là người<br />
đánh giá chất lượng đào tạo. Nội dung giáo trình<br />
nắm kịch bản, là người “diễn” các vai người nói, là<br />
phải phù hợp với mục tiêu, chương trình đào tạo,<br />
đảm bảo chuẩn kiến thức, kỹ năng và chuẩn đầu ra người dịch... góp phần tạo không khí sôi nổi, hứng<br />
đã ban hành. Cụ thể tại Học viện Khoa học Quân thú cho người học, tạo điều kiện để người học lĩnh<br />
sự, chương trình môn dịch nói tiếng Trung Quốc hội và nắm bắt kỹ năng. Việc biên soạn giáo trình<br />
được bố trí với thời lượng 75 tiết. Mục tiêu yêu cần tính đến việc tạo tình huống và không gian cho<br />
cầu của môn học là rèn luyện cho người học các người học, góp phần kéo gần khoảng cách giữa<br />
kỹ năng cần thiết trong dịch nói, giúp người học “dịch học đường” và dịch nói trong thực tiễn.<br />
nắm được quy trình dịch nói, đồng thời thông qua<br />
Thứ tư, hệ thống các bài thực hành và bài tập<br />
thực hành dịch nói, giúp người học làm quen với<br />
có tính thực tiễn cao, gần gũi với thực tiễn, phát<br />
môi trường gần giống với thực tế, bước đầu làm<br />
huy được tối đa cơ sở vật chất kỹ thuật, đồng thời<br />
quen với các hình thức dịch nói như dịch xã giao<br />
vừa sức với người học. Nguyên tắc đầu tiên của<br />
thông thường, dịch đàm phán hợp tác, dịch hội<br />
việc xây dựng hệ thống bài tập thể hiện ở việc tăng<br />
đàm ngoại giao, dịch bài phát biểu… trong đó chú<br />
dần độ khó. Độ khó tăng dần theo 3 hướng: các<br />
trọng các nội dung liên quan đến lĩnh vực quân sự.<br />
thao tác và hành động phức tạp dần; điều kiện thực<br />
Về phương pháp giảng dạy đang có sự đổi mới từ<br />
phương pháp coi trọng kết quả (sản phẩm dịch) hiện các thao tác và hành động phức tạp dần (tăng<br />
sang phương pháp coi trọng quá trình, trong đó dần tốc độ, trong cùng một thời gian phối hợp<br />
đang áp dụng mô hình phát huy năng lực tự chủ nhiều thao tác và hành động); tài liệu ngôn ngữ<br />
trong học tập của người học. phức tạp dần (lượng từ và cấu trúc ngữ pháp, cấu<br />
trúc ý phức tạp dần). Việc tăng độ khó phải diễn ra<br />
Thứ hai, kiến thức trong giáo trình được trình dần dần, không có bước nhảy vọt đột biến. Nguyên<br />
bày khoa học, logic, đảm bảo cân đối giữa lý luận tắc thứ hai là cần phân chia hệ thống bài tập thành<br />
và thực hành, phù hợp với thực tiễn và cập nhật hai nhóm lớn: bài tập chuẩn bị và bài tập luyện.<br />
những tri thức mới nhất về dịch nói. Nội dung của Các bài tập này đều nhằm phát triển những tố chất<br />
giáo trình chia thành 2 phần chính, bao gồm phần cần thiết để lĩnh hội những kỹ năng, kỹ xảo của<br />
lý thuyết, rèn luyện kỹ năng riêng lẻ và phần thực dịch nói, rèn giũa những kỹ năng, kỹ xảo cụ thể<br />
hành rèn kỹ năng dịch nói tổng hợp. Phần lý thuyết của dịch nói và cuối cùng là hình thành những kỹ<br />
nên thiết kế với khoảng 40% dung lượng của giáo năng phối hợp các thao tác và hành động riêng lẻ<br />
trình và không đi sâu mô tả các kỹ năng dịch nói thành một quá trình hoạt động thống nhất. Nguyên<br />
dưới góc độ bản thể luận mà chủ yếu giới thiệu kỹ tắc thứ ba nhằm xây dựng hệ thống bài tập có liên<br />
năng và phương pháp tập thành kỹ năng đó. Phần quan đến việc lựa chọn thời gian xử lý từng bài tập<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
74 Số 2 - 3/2018<br />
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v<br />
<br />
<br />
<br />
và việc phát huy với cơ sở vật chất như màn hình vấn đề thuộc bình diện ngôn ngữ. Trên thực tế, tất<br />
chiếu, phòng hội đàm, phòng dịch cabin... cả những bài tập chuẩn bị và bài tập luyện đầu tiên<br />
đều có thể được biên soạn trên cơ sở 5-6 bài phát<br />
Ngoài những yêu cầu trên thì giáo trình dịch biểu của diễn giả, mỗi bài kéo dài từ 5 đến 10 phút.<br />
nói tiếng Trung Quốc cũng cần đảm bảo các yêu Trong ngữ liệu sử dụng ở giai đoạn hai của giai<br />
cầu của giáo trình ngoại ngữ thông thường như nội đoạn luyện tập thực hành dịch nói, cần có nhiều<br />
dung được trích dẫn có nguồn gốc và chú thích rõ chủ đề đa dạng hơn và lớp từ phong phú hơn.<br />
ràng, đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về quyền tác giả<br />
theo quy định hiện hành; hình thức và cấu trúc của - Xác định qui mô giáo trình: Giáo trình thực<br />
giáo trình đảm bảo tính đồng bộ và tuân thủ các hành dịch nói tiếng Trung Quốc được biên soạn<br />
quy định cụ thể của các cấp có liên quan. theo chương trình học phần. Xét theo độ dài tăng<br />
dần của các bài và để tiện cho việc triển khai giảng<br />
3.2. Định hướng phương án kết cấu giáo trình dạy và thi kiểm tra cũng như việc in ấn, mượn tài<br />
liệu học tập của học viên, giáo trình nên chia thành<br />
Xác định phương án kết cấu giáo trình là một<br />
2 cuốn, cuốn dành cho học viên và cuốn dành cho<br />
trong những bước không thể thiếu của công tác<br />
giảng viên, trong đó cuốn của giảng viên có trích<br />
thiết kế giáo trình. Tất cả các yếu tố đã được xác<br />
định như mục tiêu biên soạn, nguyên tắc biên soạn, dẫn nguyên văn các tư liệu dịch nói được thực hiện<br />
ý tưởng biên soạn đều được thể hiện ở kết cấu giáo trên lớp và yêu cầu về đáp án.<br />
trình. Việc xác định phương án kết cấu giáo trình<br />
- Phương thức kết cấu của giáo trình: Giáo<br />
dịch nói tiếng Trung Quốc bao gồm một số công<br />
trình thực hành dịch nói được thiết kế kết hợp giữa<br />
việc cụ thể sau:<br />
lý thuyết với thực hành, giữa rèn kỹ năng độc lập<br />
- Định vị giáo trình: Giáo trình dịch nói tiếng với rèn kỹ năng tổng hợp. Xuất phát từ hai loại<br />
Trung Quốc là giáo trình phục vụ cho công tác hình cơ bản của dịch nói là dịch đuổi và dịch cabin<br />
giảng dạy môn Dịch nói tiếng Trung Quốc, nằm nên nội dung giáo trình sẽ phải đề cập đến cả hai<br />
trong hệ thống giáo trình Thực hành dịch tiếng loại hình này, tuy nhiên hai loại hình này có chung<br />
Trung Quốc. Trước khi vào học học phần dịch nói, một số kỹ năng, các kỹ năng này được trình bày<br />
học viên đã học các học phần tương ứng với các ở phần dịch đuổi, nội dung phần dịch cabin chỉ<br />
giáo trình Thực hành dịch tổng hợp 1, 2, 3, 4 và giới thiệu các kỹ năng riêng biệt của loại hình dịch<br />
một phần giáo trình Thực hành dịch tiếng Trung nói này. Giáo trình ngoài phần nhập môn, nên chia<br />
Quốc quân sự. Nói cách khác, giáo trình dịch nói thành hai phần: phần giới thiệu lý thuyết và rèn kỹ<br />
tiếng Trung Quốc cần kế thừa và tiếp tục các giáo năng độc lập; phần thực hành tổng hợp.<br />
trình thực hành dịch tổng hợp và thực hành dịch<br />
tiếng Trung Quốc quân sự, đảm bảo các nội dung - Xác định kết cấu từng bài: Ở phần lý thuyết<br />
có lôgic hệ thống và không bị trùng lặp. và rèn các kỹ năng độc lập, mỗi bài được chia<br />
thành 3 phần cơ bản: giới thiệu lý thuyết, bài thực<br />
- Xác định dung lượng của giáo trình: Dung hành rèn kỹ năng trên lớp và phần bài tập. Ở phần<br />
lượng của giáo trình được thể hiện ở số trang, số thực hành tổng hợp, mỗi bài được chia thành 3<br />
bài, độ dài các đoạn video... Đối với giáo trình thực phần: phần chuẩn bị, bài khóa để luyện tập trên<br />
hành dịch, tùy theo nội dung chủ đề và thể loại văn lớp và phần bài tập. Phần chuẩn bị cung cấp nội<br />
bản đơn giản hay phức tạp để xác định dung lượng dung liên quan đến bối cảnh hoặc có liên quan về<br />
của một bài. Thông thường ở những bài đầu, các ngôn ngữ đến bài khóa chính giúp người đọc có<br />
văn bản và băng hình được lựa chọn nên có độ khó sự chuẩn bị về kiến thức nền và ngôn ngữ phục vụ<br />
ngôn ngữ vừa phải để hướng người học tập trung cho công việc dịch bài khóa chính. Bài khóa chính<br />
nỗ lực chính vào việc hình thành những phẩm không trùng lặp với phần chuẩn bị được lựa chọn<br />
chất, tâm lý cần thiết và tạm thời quên đi những để người học thực hành trên lớp.<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
Số 12 - 3/2018 75<br />
v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI<br />
<br />
<br />
3.3. Định hướng phương án lựa chọn và tổ đặc biệt là chất lượng âm thanh. Yêu cầu âm thanh<br />
chức ngữ liệu phải rõ ràng, đảm bảo người nghe phải nghe được.<br />
Tùy theo yêu cầu của từng nội dung rèn luyện mà<br />
3.3.1. Nguyên tắc lựa chọn ngữ liệu người biên soạn phải biên tập lại các file âm thanh<br />
và hình ảnh này như điều chỉnh tốc độ nói, cho<br />
Ngữ liệu được lựa chọn đưa vào giáo trình phải<br />
thêm tạp âm… Trong dịch đuổi, với nội dung dịch<br />
có tính chính xác cao, có nguồn gốc rõ ràng, chính<br />
diễn thuyết, người nói thường nói liền trong một<br />
thống. Đặc biệt về nội dung, ngữ liệu chủ yếu đề<br />
khoảng thời gian khá dài, người biên tập phải tách<br />
cập đến vấn đề quân sự nhưng không được liên<br />
ra thành các đoạn nhỏ và có khoảng thời gian dừng<br />
quan đến các bí mật quân sự, bí mật quốc gia, hoặc<br />
để cho người học tập dịch. Việc biên tập thành các<br />
các ngữ liệu có quan điểm trái với đường lối chủ đoạn nhỏ này phải dựa trên cơ sở mạch ý hoặc<br />
trương của Đảng và nhà nước, đặc biệt các chủ lôgic của người nói, cần tách thành những đoạn<br />
trương về đối ngoại quân sự, không liên quan đến nhỏ có ý trọn vẹn, phù hợp với tư duy của người<br />
các vấn đề nhạy cảm chính trị, quân sự... nói, đồng thời phải phù hợp với khả năng nghe, ghi<br />
nhớ, chuyển đổi ngôn ngữ của đối tượng người học.<br />
Ngữ liệu dùng để rèn luyện cho kỹ năng dịch<br />
nói riêng lẻ thì phải có tính điển hình và tính minh Ngữ liệu nên mang tính thời sự, nên là các nội<br />
họa cao cho kỹ năng đó. Ví dụ, khi lựa chọn ngữ dung có liên quan đến các vấn đề “nóng” đang diễn<br />
liệu minh họa cho kỹ năng ghi nhớ bằng hình ảnh ra, có lợi cho việc thu nhận và phân tích thông tin<br />
thì nên chọn ngữ liệu giàu hình ảnh, khi lựa chọn của người học, đặc biệt là với việc khởi động công<br />
ngữ liệu minh họa cho kỹ năng nghe bắt ý người năng tri nhận và sử dụng kiến thức ngoài ngôn ngữ<br />
nói thì nên sử dụng ngữ liệu có lôgic và tầng bậc ý để lý giải thông tin. Tính thời sự ở đây không hẳn<br />
nghĩa chặt chẽ... là thời gian đưa ra thông tin mà chủ yếu chỉ đây là<br />
vấn đề nóng thu hút nhiều sự quan tâm, người học<br />
Ngữ liệu có độ khó vừa sức với đối tượng<br />
ít nhiều cũng đã có những hiểu biết nhất định làm<br />
người học. Để làm được điều này thì đầu tiên phải<br />
bối cảnh cho việc dịch thông tin.<br />
phân tích kỹ trình độ và nhu cầu của người học.<br />
Không lựa chọn ngữ liệu ở lĩnh vực quá chuyên Ngữ liệu cần thể hiện tính hoàn chỉnh của nội<br />
sâu có nhiều thuật ngữ chuyên ngành, hoặc lĩnh dung phát ngôn. Đa số các ngữ liệu sẽ được biên<br />
vực quá mới mẻ với người học. Một biện pháp soạn lại tạo độ ngừng cho người dịch, việc ngừng<br />
nữa để xác định độ khó cho phù hợp và thông qua ngắt không được tạo ra trở ngại cho việc lý giải.<br />
việc làm đáp án. Trong quá trình làm đáp án, người Do đó nên lựa chọn các ngữ liệu có nội dung mạch<br />
biên soạn có thể phát hiện ra những điểm khó, lạc, các tầng bậc ý nghĩa có cấu trúc rõ ràng, các<br />
thách thức cao với người học. Đối với các điểm đơn vị diễn ngôn trọn vẹn.<br />
khó ngôn ngữ mang tính thách thức với người học<br />
trong nguyên văn cần được xuất hiện trong các Ngữ liệu cần phục vụ trực tiếp cho công việc<br />
phần mang tính phụ trợ để người học có thể chuẩn của người học sau khi tốt nghiệp. Học viên Học<br />
bị trước. Đối với các điểm khó về tư duy song ngữ, viện Khoa học Quân sự sau khi ra trường, nếu có<br />
tư duy chuyển đổi cần trở thành các điểm trọng làm công việc liên quan đến dịch nói thì chủ yếu<br />
tâm giảng giải trên lớp. là dịch nói cho hoạt động đối ngoại, thăm viếng<br />
quốc phòng, các hoạt động tuần tra chung, giao<br />
Ngữ liệu dùng cho dịch nói đa số là các file lưu biên phòng, các buổi hội thảo, hội đàm, bồi<br />
hình ảnh và âm thanh. Một yêu cầu đặt ra cho việc dưỡng nghiệp vụ… Do đó cần ưu tiên lựa chọn<br />
lựa chọn là chất lượng của âm thanh và hình ảnh, ngữ liệu về các nội dung này.<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
76 Số 2 - 3/2018<br />
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v<br />
<br />
<br />
<br />
3.3.2. Nguyên tắc tổ chức ngữ liệu 2009). Như vậy, có ba điểm cần lưu ý trong khái<br />
niệm về giao tiếp: thứ nhất, đó là sự trao đổi hai<br />
Có thể phân ngữ liệu thành bốn hình thức chính chiều; thứ hai, có ít nhất hai đối tượng tham gia<br />
là ngữ liệu phục vụ cho việc minh họa các kỹ năng, vào quá trình giao tiếp; thứ ba, thông tin phải<br />
ngữ liệu phục vụ cho thiết kế bài tập, ngữ liệu phục được hai bên hiểu rõ. Nếu thiếu một trong ba<br />
vụ cho việc cung cấp bối cảnh và kiến thức ngôn yếu tố này thì việc giao tiếp chưa hoàn chỉnh.<br />
ngữ liên quan đến bài dịch chính, ngữ liệu phục vụ<br />
cho việc biên soạn bài dịch chính. Để người học trên vai trò người dịch có thể chủ<br />
động điều hành giao tiếp với tư cách là nhân vật<br />
Ngữ liệu còn có thể phân thành ngữ liệu dưới trung gian, ngữ liệu đưa ra cần có đầy đủ các yếu<br />
dạng băng hình, ngữ liệu dạng viết và ngữ liệu tố người nói, người nghe và quá trình truyền đạt<br />
“sống”. Ngữ liệu dưới dạng băng hình cần được tổ thông tin. Ngữ liệu này có thể là một bài phát biểu<br />
chức trước các ngữ liệu dạng viết, ngữ liệu dạng hay một kịch bản đàm phán được thể hiện ngay<br />
viết cần đưa vào giai đoạn cuối cùng. Lý do là vì trên lớp. Ngữ liệu này có thể giao cho người học<br />
các kỹ năng nghe, hiểu và biểu đạt là kỹ năng cơ sưu tầm và chuẩn bị trước trong vai trò người phát<br />
bản nhất của dịch nói, người học khi bắt đầu vào ngôn, cũng có thể giao cho người học viết kịch<br />
học dịch nói, khi còn chưa nhận thức được đầy bản. Trong giáo trình, dạng ngữ liệu này sẽ được<br />
đủ quy trình dịch nói cũng như các bước nghe lấy trình bày dưới các nội dung mang tính chất hướng<br />
thông tin, phân tích để hiểu thông tin, biểu đạt lại dẫn về chủ đề và các nội dung liên quan, như kịch<br />
thông tin sang ngôn ngữ đích mà đã tiếp xúc với bản buổi đàm phán về hợp tác giáo dục giữa một<br />
hình thức dịch nói văn bản sẽ hình thành nên thói trường đại học của Việt Nam và một trường đại học<br />
quen ỷ lại vào văn bản, dẫn đến kiểu dịch từng câu của Trung Quốc thì đầu tiên phải là các nội dung<br />
từng chữ hoàn toàn khác với bản chất của dịch nói. chào mời, giới thiệu đại biểu, tiếp đến là các nội<br />
Ngữ liệu dạng viết lại được chia thành hai dạng, dung giới thiệu về trường, đặc biệt là các thế mạnh<br />
dạng thứ nhất là công cụ phụ trợ, người dịch vẫn của từng trường, tiếp đến đi tới bàn bạc về một vài<br />
phải theo sát lời nói của người nói, bởi rất có thể lĩnh vực có thể hợp tác, bàn bạc về phương án hợp<br />
người nói sẽ đi sâu phân tích một ý nào đó, thậm tác và cuối cùng là thống nhất để đi đến ký kết văn<br />
chí bỏ qua một vài chỗ nào đó, hoặc nói không theo bản hợp tác... Trên thực tế rất khó có thể tìm được<br />
bài đã được chuẩn bị. Còn một hình thức nữa đó một kịch bản đã viết bằng hai thứ tiếng nên việc<br />
là nói lại văn bản, tức không có người nói, người chỉ đạo cho người học tự viết là khâu vô cùng quan<br />
dịch dịch trực tiếp các nội dung đọc được từ văn trọng. Việc sử dụng ngữ liệu “sống” này có vai trò<br />
bản. Ngữ liệu phục vụ cho hình thức dịch này cũng rất lớn trong việc kéo gần hoạt động “kiểu dịch<br />
được tổ chức vào dạng ngữ liệu dịch dạng viết. học đường” với hoạt động dịch trong thực tiễn, do<br />
Ngữ liệu băng hình là chủ yếu song cũng không đó nên đưa vào các bài rèn luyện tổng hợp.<br />
nên chiếm toàn bộ dung lượng giáo trình, chỉ nên<br />
để ở mức khoảng 60%, ngữ liệu dạng viết khoảng 4. KẾT LUẬN<br />
20%, số còn lại là ngữ liệu “sống” khoảng 20%.<br />
Cơ sở lý luận cho việc biên soạn giáo trình<br />
Ngữ liệu “sống” còn được gọi là ngữ liệu mở, dịch nói tiếng Trung Quốc được xây dựng trên 3<br />
là phần ngữ liệu đảm bảo cho tính chất giao tiếp nền tảng: lý luận về dịch nói, lý luận giảng dạy<br />
của dịch nói được thể hiện rõ nhất. Bản chất của dịch nói và lý luận biên soạn giáo trình ngoại ngữ.<br />
dịch nói là hoạt động giao tiếp, mà “giao tiếp là Bài viết đi sâu nghiên cứu lý luận về dịch nói, lấy<br />
sự truyền đạt điều muốn nói từ người này sang thuyết Cảm ý và trường phái coi phiên dịch là quá<br />
người khác để đối tượng có thể hiểu những thông trình động là nền tảng quan trọng, có tính khả thi<br />
điệp được truyền đi, nó không chỉ đơn thuần là cao trong việc chỉ đạo công tác biên soạn giáo<br />
việc truyền thụ ý muốn nói mà còn bao hàm cả trình dịch nói. Trên cơ sở lý luận đã được chắt lọc<br />
việc hiểu được những ý đó nữa” (Bùi Anh Tuấn, và phân tích, bài viết đã đưa ra các định hướng<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
Số 12 - 3/2018 77<br />
v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI<br />
<br />
<br />
cho việc biên soạn giáo trình dịch nói tiếng Trung dịch Trung - Việt đối ngoại, Học viện Ngoại giao,<br />
Quốc tại Học viện Khoa học Quân sự, bao gồm: Hà Nội.<br />
xác định mục tiêu, yêu cầu của việc biên soạn; đưa<br />
ra các định hướng về cấu trúc giáo trình, về lựa 2. Nguyễn Quốc Hùng (2007), Hướng dẫn kỹ<br />
chọn và tổ chức ngữ liệu... Việc xác định phương năng phiên dịch Anh – Việt & Việt – Anh, NXB<br />
pháp biên soạn hợp lý không chỉ có vai trò quan Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh.<br />
trọng quyết định đến chất lượng của giáo trình,<br />
phù hợp với đối tượng dạy học, mà còn góp phần 3. Hồ Đắc Túc (2012), Dịch thuật và tự do,<br />
bảo đảm tính khoa học, hiện đại và bắt kịp xu thế NXB Hồng Đức, Hà Nội.<br />
phát triển của giáo trình./.<br />
4. Bùi Anh Tuấn (2009), Hành vi tổ chức, NXB<br />
Ghi chú: Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.<br />
1. Thuyết Cảm ý (Theory of Sense) còn được 5. 刘和平(2003),口译技巧—思维科学<br />
gọi là thuyết Dịch thuật diễn giải (Interpretive 与口译推理教学法,中国对外翻译出版公司,<br />
Theory of Translation, hay La theorie interpretative 北京。<br />
de la traduction, nguyên văn trong Pháp ngữ, 释意<br />
理论 trong tiếng Trung Quốc) 6.吕俊(2002),翻译学应该从解构主义<br />
那里学些什么,外国语,第5期。<br />
2. Bell, R. T (1991), Translation and translating<br />
theory and practice, London and New York:<br />
7.赛 莱 丝 科 维 奇 著 , 黄 为 沂 , 钱 慧 杰 译<br />
Longman. Dẫn theo 吴爱俊(2011),从过程<br />
(1992),口译技艺:即席口译与同声传译经<br />
化视角探索口译教材新编写模式,北京第二外<br />
国语学院。 验谈,上海翻译出版公司,上海。<br />
<br />
Tài liệu tham khảo: 8. 王瑞昀(2004),口译的认知与口译教<br />
材的编写—跨学科口译理论在《英语口译教<br />
1. Phan Vũ Tuấn Anh (2013), Giáo trình Phiên 程》编写中的应用,中国翻译,第7期。<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
METHODS FOR COMPILING CHINESE INTERPRETING TEXTBOOKS<br />
AT MILITARY SCIENCE ACADEMY<br />
TONG VAN TRUONG<br />
Abstract: Developments in interpreting theories and requirements of reality have proved that<br />
the work of compiling Chinese interpreting textbooks cannot any longer result from existing<br />
models but should be based on convincing theories, new models and directing methods. For that<br />
reason, this article focuses on analyzing interpreting theories and claims that the Theory of Sense<br />
and the school considering interpreting as an active process are important basis for compiling<br />
interpreting textbooks. The article then suggests method directions for compiling Chinese<br />
interpreting textbooks at Military Science Academy including: defining aims and requirements of<br />
the compilation; specifying strutures of textbooks; collecting and collocating linguistic data… to<br />
make sure that completed textbooks are well scientific and qualified.<br />
Keywords: Chinese interpreting textbooks, compiling method(s), direct<br />
Received: 04/01/2018; Revised: 06/02/2018; Accepted for publication: 28/02/2018<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
78 Số 2 - 3/2018<br />