intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Phương pháp biên soạn giáo trình dịch nói tiếng Trung Quốc tại Học viện Khoa học Quân sự

Chia sẻ: ViKakashi2711 ViKakashi2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:9

90
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết đi sâu phân tích lý luận về dịch nói, lấy thuyết Cảm ý và trường phái coi phiên dịch là quá trình động là nền tảng quan trọng, có tính khả thi cao trong việc chỉ đạo công tác biên soạn giáo trình dịch nói. Trên cơ sở lý luận đã được chắt lọc và phân tích, bài viết đưa ra các định hướng về phương pháp cho việc biên soạn giáo trình dịch nói tiếng Trung Quốc tại Học viện Khoa học Quân sự, bao gồm: Xác định mục tiêu, yêu cầu của việc biên soạn, đưa ra các định hướng về cấu trúc giáo trình, về lựa chọn và tổ chức ngữ liệu... nhằm đảm bảo chất lượng và tính khoa học của giáo trình.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Phương pháp biên soạn giáo trình dịch nói tiếng Trung Quốc tại Học viện Khoa học Quân sự

v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> PHƯƠNG PHÁP BIÊN SOẠN GIÁO TRÌNH<br /> DỊCH NÓI TIẾNG TRUNG QUỐC<br /> TẠI HỌC VIỆN KHOA HỌC QUÂN SỰ<br /> TỐNG VĂN TRƯỜNG *<br /> *<br /> Học viện Khoa học Quân sự, ✉ tongtruong@hotmail.com<br /> Ngày nhận bài: 04/01/2018; ngày sửa chữa: 06/02/2018; ngày duyệt đăng: 28/02/2018<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Trước sự phát triển của lý luận dịch nói cũng như yêu cầu thực tiễn, việc biên soạn giáo trình dịch<br /> nói tiếng Trung Quốc không còn đơn thuần là dựa trên một mô hình giáo trình có sẵn, mà phải xác<br /> định rõ cơ sở lý luận, tìm tòi mô hình, từ đó đưa ra định hướng về phương pháp. Bài viết đi sâu<br /> phân tích lý luận về dịch nói, lấy thuyết Cảm ý và trường phái coi phiên dịch là quá trình động là<br /> nền tảng quan trọng, có tính khả thi cao trong việc chỉ đạo công tác biên soạn giáo trình dịch nói.<br /> Trên cơ sở lý luận đã được chắt lọc và phân tích, bài viết đưa ra các định hướng về phương pháp<br /> cho việc biên soạn giáo trình dịch nói tiếng Trung Quốc tại Học viện Khoa học Quân sự, bao gồm:<br /> xác định mục tiêu, yêu cầu của việc biên soạn; đưa ra các định hướng về cấu trúc giáo trình, về lựa<br /> chọn và tổ chức ngữ liệu... nhằm đảm bảo chất lượng và tính khoa học của giáo trình.<br /> Từ khóa: giáo trình dịch nói tiếng Trung Quốc, phương pháp biên soạn, định hướng<br /> <br /> <br /> <br /> 1. MỞ ĐẦU và phương pháp đối chiếu ngôn ngữ làm đơn vị<br /> phân tích và phương pháp giảng giải. Tuy nhiên,<br /> Môn dịch nói là môn học được thiết kế cho không thể đồng nhất giữa năng lực ngôn ngữ và<br /> chuyên ngành cử nhân ngoại ngữ giai đoạn năm năng lực dịch nói, việc biên soạn giáo trình nếu chỉ<br /> thứ 3 và thứ 4. Theo một số nghiên cứu, “ở các chú trọng các vấn đề ngôn ngữ trong dịch nói mà<br /> khoa ngoại ngữ trong nhiều trường đại học tại Việt xem nhẹ các nội dung về kỹ năng dịch nói, thì giáo<br /> Nam, việc dạy dịch (nói và viết) thường chú trọng trình cũng trở nên không toàn diện.<br /> đối chiếu giữa hai ngôn ngữ, luyện kỹ năng nghe,<br /> nói, đọc, viết. Riêng với dịch nói, sinh viên thực Cùng với đó, ở một số giáo trình dịch nói, việc<br /> hành các mẫu câu trong các tình huống thuộc các biên soạn lại chỉ chú trọng vào rèn luyện kỹ năng<br /> lĩnh vực khác nhau...” (Hồ Đắc Túc, 2012, tr.197). dịch nói. Thực tế giảng dạy cho thấy, mô hình giáo<br /> Thực tế này xuất phát từ việc biên soạn giáo trình trình này cũng cần phải có thêm nội dung hướng<br /> dịch nói đã đặt trọng điểm vào việc nâng cao dẫn về kiến thức ngôn ngữ, trọng điểm của giáo<br /> năng lực ngoại ngữ cho người học, từ đó lấy câu trình dịch nói là bồi dưỡng kỹ năng nhưng cũng<br /> <br /> <br /> KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br /> 70 Số 2 - 3/2018<br /> NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v<br /> <br /> <br /> <br /> không được bỏ qua nhân tố bồi dưỡng năng lực – hay “thoát ly nguyên ngữ” (deverbalization), và<br /> ngôn ngữ. (3) “Tái diễn ý” (reformulation/re-expression).<br /> (赛莱丝科维奇, 1992, tr.8)<br /> Tại Học viện Khoa học Quân sự, môn dịch nói<br /> mới được đưa vào giảng dạy, việc biên soạn giáo Hiểu ý là bước đầu tiên trong tiến trình dịch<br /> trình, tài liệu liên quan đang được triển khai. Biên thuật. Thuyết Cảm ý coi dịch thuật là một hành vi<br /> soạn giáo trình tài liệu không chỉ đơn thuần là dựa truyền đạt: dịch là để truyền đạt thông điệp, hay<br /> trên một mô hình giáo trình cụ thể có sẵn, mà còn ý của người nói (hoặc văn bản). Ý của người nói<br /> phải làm rõ cơ sở lý luận cũng như định hướng được xây dựng và thoát thai từ ngôn từ, bối cảnh<br /> về phương pháp. Việc lựa chọn, xác định cơ sở lý và kiến thức nền.<br /> luận và định hướng về phương pháp không chỉ có<br /> vai trò quan trọng quyết định đến chất lượng, tính Ly từ là quan niệm hạt nhân thuyết Cảm ý, ly<br /> khoa học, hiện đại của giáo trình dịch nói sắp được từ có nghĩa là quên từ ngữ và cấu trúc ngôn ngữ<br /> biên soạn, mà còn là nhân tố bảo đảm hàm lượng nguồn, coi từ ngữ trong ngôn ngữ nguồn chỉ là<br /> nội dung quân sự phù hợp với đối tượng đào tạo cử phương tiện chuyển tải, từ phương tiện đó nhận ra<br /> nhân cấp phân đội. ý nghĩa chính. Nói cách khác, đây là giai đoạn giải<br /> mã: người dịch không chú tâm ghi nhớ từ ngữ do<br /> 2. CÁC VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT LIÊN QUAN người nói ngôn ngữ nguồn sử dụng mà đi giải mã<br /> ý định của người nói. Người dịch lắng nghe người<br /> Lý luận về dịch nói được nghiên cứu trong nói, nắm chắc ý định của người nói rồi chuyển ý<br /> hơn 6 thập kỷ với nhiều lý thuyết khác nhau, có đó qua ngôn ngữ đích.<br /> thể kể đến như thuyết Cảm ý, trường phái coi dịch<br /> nói là quá trình tri nhận, trường phái nghiên cứu Bước thứ ba trong quá trình dịch là tái cấu trúc<br /> hoạt động ngôn ngữ của hệ thần kinh, trường phái ý của ngôn ngữ nguồn bằng ngôn ngữ đích, sao<br /> nghiên cứu hoạt động tương tác trong hội thoại, cho cách dùng từ, biểu đạt, phù hợp và tự nhiên<br /> trường phái coi dịch nói là quá trình động... Tổng trong ngôn ngữ đích. Thuyết Cảm ý coi ngôn ngữ<br /> quan các lý thuyết và trường phái trên, chúng tôi là ký hiệu. Dịch không phải là chuyển ký hiệu này<br /> nhận thấy nội dung của thuyết Cảm ý và trường qua ký hiệu khác mà dịch là chuyển ý nghĩa của<br /> phái coi dịch nói là quá trình động có tính khả thi ký hiệu. Vì vậy trong quá trình dịch, người dịch tái<br /> cao trong việc chỉ đạo hoạt động dịch nói thực tiễn cấu trúc ý chứ không tái cấu trúc ngôn ngữ. Khi tái<br /> cũng như có ý nghĩa thiết thực trong vận dụng vào cấu trúc ý, người dịch quên hết cấu trúc của ngôn<br /> công tác giảng dạy và biên soạn giáo trình. ngữ nguồn, chỉ giữ lại ý và chuyển tải ý đó sao cho<br /> phù hợp với cách nói trong ngôn ngữ đích.<br /> 2.1. Thuyết Cảm ý1<br /> Hồ Đắc Túc (2012) cho rằng, thuyết Cảm ý<br /> Seleskovitch là người đầu tiên đặt nền móng “rất hữu ích cho những người muốn thực tập<br /> cho sự ra đời của thuyết Cảm ý – một học thuyết phương pháp dịch ứng đoạn và dịch song hành”.<br /> được ứng dụng rộng rãi trong dịch ứng đoạn (dịch Áp dụng vào việc biên soạn giáo trình dịch nói, lý<br /> đuổi) và dịch song hành (dịch cabin). Nhiều học thuyết này có thể giải quyết được hai vấn đề lớn,<br /> giả cho rằng “việc đào tạo phiên dịch ở Bắc Mỹ và đó là xác định đơn vị dịch và phương pháp phân<br /> Châu Âu ngày nay sẽ khác đi nhiều nếu không có tích được sử dụng trong giáo trình dịch nói. Thuyết<br /> sự đóng góp cả về kinh nghiệm lẫn lý thuyết của Cảm ý cho rằng dịch là vấn đề chuyển ý chứ không<br /> Seleskovitch” (Hồ Đắc Túc, 2012, tr.203) chuyển chữ, cụ thể khi nghe, người nghe không<br /> nghe từng chữ mà nắm bắt từng nhóm thông tin do<br /> Thuyết Cảm ý ra đời vào thập niên 1970, được một số lượng từ cấu thành. Thuyết Cảm ý gọi các<br /> coi là phương pháp dịch thuật dựa theo trình tự ba cụm (chunk) thông tin này là đơn vị nghĩa (units of<br /> bước là: (1) “Hiểu ý” (comprehension), (2) “Ly từ” meaning). Mỗi đơn vị nghĩa không phải có một số<br /> <br /> <br /> KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br /> Số 12 - 3/2018 71<br /> v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI<br /> <br /> <br /> từ bằng nhau, mà hình thành từ kiến thức tổng thể tiếp xúc lại là ngôn ngữ sống động, là những sản<br /> của người nghe kết hợp với một số lượng từ nào phẩm, là những chủ thể và ngữ cảnh khác nhau”<br /> đó tạo nên nghĩa. Do vậy, đơn vị giảng giải, phân (吕俊, 2002, tr.49).<br /> tích trong giáo trình dịch nói nên là đơn vị nghĩa,<br /> không nên thuần túy là đơn vị câu hay đoạn. Đơn Ngoài ra đặc điểm tính động của hoạt động<br /> vị nghĩa ở đây chính là các ý của thông điệp, do dịch nói càng đòi hỏi phải xem xét đánh giá vấn<br /> đó, giáo trình dịch nói cần lấy nội dung này làm đề dịch nói từ góc độ động, nhận thức sâu hơn về<br /> trọng tâm, thiết kế để rèn luyện cho người học các bản chất của quá trình dịch nói, từ đó ứng dụng<br /> kỹ năng như bắt ý, phân tích ý, lập sơ đồ ý... Trong vào thực tế dịch nói cũng như vào lĩnh vực dạy học<br /> quá trình nghe hiểu, ngôn ngữ nguồn dần dần được và biên soạn giáo trình. Lưu Hòa Bình từng chỉ ra<br /> biến đổi thành các đơn vị ý, các đơn vị ý này được “nghiên cứu trạng thái động của dịch nói lại có thể<br /> tồn tại không cần dựa vào ngôn ngữ. Người dịch giúp chúng ta nhận thức được cả quá trình dịch<br /> thông qua thính giác nắm được các thông tin và ý nói, từ đó tìm ra lời giải cho sự thành công của<br /> nghĩa ương ứng, đồng thời với việc đưa các thông người dịch, đồng thời có thể vận dụng vào biên<br /> tin và ý nghĩa này ghi nhớ vào não thì cũng quên đi soạn giáo trình dạy học” (刘和平, 2003, tr.8).<br /> hình thức ngôn ngữ của ngôn ngữ nguồn đã được<br /> xử lý. Do đó, người dịch nói không có điều kiện và Lấy ý nghĩa của ngôn ngữ làm phương thức để<br /> cũng không có khả năng dựa vào hình thức ngôn nhận thức sâu hơn về quá trình dịch, Bell (2001)<br /> ngữ nguồn để tiến hành dịch từng từ, từng câu, trong khi phân tích các đặc điểm của hoạt động<br /> càng không thể có khả năng tiến hành so sánh hình dịch nói để xây dựng mô hình quá trình dịch nói,<br /> thức ngôn ngữ của ngôn ngữ nguồn với ngôn ngữ đã chỉ ra rằng, người dịch thực sự đóng vai trò là<br /> đích. Vì vậy, việc phân tích hình thức kết cấu giữa người giao tiếp; trong quá trình dịch nói, người<br /> hai ngôn ngữ theo phương thức ngôn ngữ học đối dịch thực tế là đang thực hiện các hành vi giao<br /> chiếu để hướng dẫn người học tiến hành dịch là tiếp. Bell miêu tả các bước tiến hành hành vi giao<br /> không phù hợp với giáo trình dịch nói. tiếp xuyên ngôn ngữ này như sau: (1) Người dịch<br /> tiếp nhận các tín hiệu thông tin 1; (2) phân tích<br /> 2.2. Trường phái coi phiên dịch là quá nhận biết các mã 1; (3) giải mã tín hiệu 1, (4) tìm<br /> trình động kiếm thông tin, (5) lí giải thông tin, (6) người dịch<br /> lựa chọn mã 2, (7) thông qua mã 2 để biên tập lại<br /> Đã từ lâu, dưới ảnh hưởng của ngôn ngữ học thông tin, (8) lựa chọn kênh thông tin, (9) truyền<br /> cấu trúc, các ý tưởng được nêu ra khi xây dựng nền tải tín hiệu thông tin 22.<br /> tảng lý luận cho khoa học dịch thuật, từ Nida của<br /> Mỹ hay Wells của Đức, đa số các học giả đều coi Xuất phát từ quan điểm cho rằng, tính động<br /> nguyên văn và bản dịch là hai đối tượng nghiên cứu của dịch nói thể hiện trong hoạt động tư duy của<br /> chủ yếu. Đây là những nghiên cứu về dịch nhìn từ người dịch, Lưu Hòa Bình (2003) cho rằng, việc<br /> góc độ tĩnh, vấn đề quan tâm nhiều hơn vẫn là chất chuyển hóa từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác<br /> lượng sản phẩm dịch, “trọng điểm nghiên cứu tập không phải là một hoạt động máy móc, mà là một<br /> trung vào tiêu chuẩn dịch, đặc trưng ngôn ngữ và quá trình thao tác trí tuệ diễn ra liên tục. Từ nghe<br /> sự chuyển đổi về mặt ngôn ngữ” (王瑞昀, 2004, hoặc nhìn đến hiểu một cách chuẩn xác, từ việc bắt<br /> tr.68). Tuy nhiên, dịch có hai tầng nghĩa, một là ý ý và ghi nhớ ý của não bộ sau khi hiểu thông tin<br /> nghĩa tĩnh, tức là kết quả dịch; hai là ý nghĩa động, đến dùng một ngôn ngữ khác biểu đạt lại nội dung<br /> tức là quá trình dịch. Trường phái coi trọng trạng đã hiểu được, đòi hỏi người dịch phải có sự phân<br /> thái động của dịch cho rằng: “Ngôn ngữ dựa theo tích tư duy một cách toàn diện. Trong tác phẩm<br /> chủ nghĩa cấu trúc là hệ thống tĩnh và khép kín, là “Kỹ xảo dịch nói – Phương pháp dạy học khoa<br /> quy luật của những ký hiệu máy móc, còn trong học tư duy và suy luận dịch nói”, Lưu Hòa Bình<br /> dịch thực tế thì những thứ mà mọi người xử lí và đã chỉ rõ mối quan hệ giữa tư duy với quá trình<br /> <br /> <br /> KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br /> 72 Số 2 - 3/2018<br /> NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v<br /> <br /> <br /> <br /> dịch nói, cho rằng bản thân quá trình dịch nói là tiêu đầu tiên của việc biên soạn giáo trình dịch nói<br /> quá trình tư duy, trong đó suy luận lôgic chi phối tiếng Trung Quốc cần xác định là cung cấp kiến<br /> toàn bộ quá trình lý giải và biểu đạt, đồng thời thiết thức về kỹ năng dịch nói Trung - Việt, Việt - Trung,<br /> kế các dạng bài tập rèn suy luận logic và phát huy bao gồm các kỹ năng như nghe hiểu, bắt ý và kết<br /> tính năng của não bộ trong các hoạt động thu nhận, cấu lại ý, ghi nhớ, ghi chép, chuyển đổi ngôn ngữ,<br /> phân tích, tổng hợp, phản ứng... biểu đạt...; đồng thời cung cấp phương pháp để<br /> người học rèn luyện các kỹ năng trên. Mục tiêu<br /> Từ những phân tích về thứ tự hành vi giao tiếp thứ hai của việc biên soạn là cung cấp cho người<br /> trong hoạt động dịch nói của Bell và mối quan hệ học môi trường dịch khá sát với thực tiễn cả về<br /> giữa tư duy với quy trình dịch nói của Lưu Hòa nội dung lẫn hình thức, làm cơ sở cho người học<br /> Bình, có thể thấy rõ đặc trưng mang tính quá trình biết cách vận dụng tổng hợp các kỹ năng và biết<br /> của hoạt động dịch nói. Đây không phải là sự hoán cách xử lý các tình huống dịch trong thực tiễn, từ<br /> đổi ngôn ngữ đơn thuần, ngược lại hành vi dịch của đó hình thành nên ý thức về công tác dịch nói cho<br /> người dịch sẽ thay đổi cùng với sự thay đổi của mỗi người học như biết cách tập trung chú ý, khởi động<br /> trình tự, mỗi đối tượng trong suốt quá trình dịch. công năng tri nhận của đại não, thoát ly lớp vỏ<br /> Nếu lý giải từ góc độ quá trình thì dịch nói trên ngôn ngữ nguồn, nắm ý đồ người nói, rèn yếu tố<br /> thực tế là quá trình động thay đổi theo sự thay đổi tâm lý, xử lý tình huống...<br /> đồng thời của một hay nhiều biến lượng trong quá<br /> trình dịch nói, và sâu hơn đó là các hoạt động của Mục tiêu chính của giáo trình dịch nói không<br /> tư duy. Đây cũng chính là cơ sở cho việc phân chia phải là nâng cao khả năng ngoại ngữ của người<br /> và rèn luyện các kỹ năng riêng lẻ cũng như kỹ năng học; tuy nhiên, đặt trong bình diện là một giáo<br /> tổng hợp hoạt động dịch nói trong biên soạn giáo trình dạy ngoại ngữ thì việc biên soạn giáo trình<br /> trình dịch nói, khắc phục tình trạng coi trọng rèn dịch nói cũng cần nhằm đến mục tiêu cung cấp các<br /> luyện ngôn ngữ, xem nhẹ rèn luyện tư duy lôgic, kiến thức về ngôn ngữ có liên quan, giúp người<br /> hoặc đưa ra kỹ năng, kỹ xảo dịch nói vào giáo học nâng cao khả năng biểu đạt ngôn ngữ, đương<br /> trình nhưng chỉ dừng lại ở giai đoạn kinh nghiệm. nhiên, các kiến thức ngôn ngữ này không phải là<br /> trọng tâm của việc biên soạn. Cần phải nhấn mạnh<br /> 3. PHƯƠNG PHÁP BIÊN SOẠN GIÁO<br /> là các kiến thức ngôn ngữ ở đây không chỉ đơn<br /> TRÌNH DỊCH NÓI TIẾNG TRUNG QUỐC<br /> thuần là cung cấp từ mới, rèn luyện kỹ năng nghe<br /> TẠI HỌC VIỆN KHOA HỌC QUÂN SỰ<br /> và kỹ năng nói mà cao hơn đó là tư duy song ngữ<br /> 3.1. Mục tiêu, yêu cầu của việc biên soạn phục vụ trực tiếp cho quá trình dịch nói.<br /> giáo trình dịch nói tiếng Trung Quốc<br /> Mục tiêu biên soạn này cần được gắn với đối<br /> 3.1.1. Mục tiêu của việc biên soạn giáo trình tượng đào tạo là học viên quân sự với yêu cầu của<br /> dịch nói tiếng Trung Quốc công việc sau này là phục vụ trong quân đội. Do<br /> đó mục tiêu biên soạn cần hướng tới các nội dung<br /> Hiện nay theo khảo sát trên thị trường sách đối ngoại quốc phòng, đàm phán quân sự, các bài<br /> Việt Nam, chưa hề có giáo trình, tài liệu liên quan phát biểu trong lĩnh vực quốc phòng... giúp người<br /> đến dịch nói tiếng Trung Quốc được xuất bản, việc học nắm bắt được các kỹ năng dịch nói trong lĩnh<br /> giảng dạy môn Thực hành dịch nói tiếng Trung vực quân sự. Ngoài ra, nhiệm vụ và yêu cầu của<br /> Quốc tại các trường đại học chủ yếu được thực quân đội không chỉ dừng lại ở việc nắm bắt các<br /> hiện qua tập bài giảng của giáo viên. Môn dịch nói thông tin quân sự mà còn phải bao quát hầu hết các<br /> là môn thực hành, việc dạy học trên lớp chủ yếu ngành nghề trong xã hội. Các nội dung mà người<br /> thông qua các đoạn băng hình cho sẵn, các kỹ năng dịch phải tiếp xúc rất đa dạng, phong phú, trong<br /> dịch nói được phân tích kết hợp trong quá trình đó kinh tế, chính trị, quân sự, khoa học kỹ thuật<br /> dịch, do đó thiếu tính hệ thống và bài bản. Mục là những vấn đề quan trọng trong xã hội hiện đại.<br /> <br /> <br /> KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br /> Số 12 - 3/2018 73<br /> v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI<br /> <br /> <br /> Việc tổng hợp một cách hợp lý các nội dung này thực hành tổng hợp cần đưa vào các nội dung sát<br /> và đưa vào giáo trình cũng phải được đặt ra đối với thực tiễn như hợp tác quốc phòng, đối ngoại quốc<br /> công tác biên soạn. phòng với các hình thức như đàm phán, hội thảo,<br /> phát biểu...<br /> 3.1.2. Yêu cầu của việc biên soạn giáo trình<br /> dịch nói tiếng Trung Quốc Thứ ba, các bài cụ thể cần được thiết kế dưới<br /> dạng các hoạt động khác nhau, nhằm giúp người<br /> Việc biên soạn giáo trình dịch nói tiếng Trung học lĩnh hội dần các kỹ năng thông qua cách giải<br /> Quốc cần đáp ứng các yêu cầu cơ bản như sau: quyết các tình huống, tạo cho người học có nhiều<br /> cơ hội được trải nghiệm, chủ động, sáng tạo. Nội<br /> Trước hết, giáo trình phải cụ thể hóa nội dung<br /> dung các bài ngoài hình thức dịch đuổi và dịch<br /> kiến thức, kỹ năng và thái độ được quy định<br /> cabin theo băng hình các bài diễn thuyết, bài phát<br /> trong chương trình đào tạo đối với môn học Dịch<br /> biểu..., cũng cần chú trọng đến đặc điểm giao tiếp<br /> nói tiếng Trung Quốc, đáp ứng yêu cầu đổi mới<br /> của dịch nói, trong đó nên phát huy vai trò sáng<br /> phương pháp giáo dục đại học và việc kiểm tra,<br /> tạo của người học, người học đóng vai trò là người<br /> đánh giá chất lượng đào tạo. Nội dung giáo trình<br /> nắm kịch bản, là người “diễn” các vai người nói, là<br /> phải phù hợp với mục tiêu, chương trình đào tạo,<br /> đảm bảo chuẩn kiến thức, kỹ năng và chuẩn đầu ra người dịch... góp phần tạo không khí sôi nổi, hứng<br /> đã ban hành. Cụ thể tại Học viện Khoa học Quân thú cho người học, tạo điều kiện để người học lĩnh<br /> sự, chương trình môn dịch nói tiếng Trung Quốc hội và nắm bắt kỹ năng. Việc biên soạn giáo trình<br /> được bố trí với thời lượng 75 tiết. Mục tiêu yêu cần tính đến việc tạo tình huống và không gian cho<br /> cầu của môn học là rèn luyện cho người học các người học, góp phần kéo gần khoảng cách giữa<br /> kỹ năng cần thiết trong dịch nói, giúp người học “dịch học đường” và dịch nói trong thực tiễn.<br /> nắm được quy trình dịch nói, đồng thời thông qua<br /> Thứ tư, hệ thống các bài thực hành và bài tập<br /> thực hành dịch nói, giúp người học làm quen với<br /> có tính thực tiễn cao, gần gũi với thực tiễn, phát<br /> môi trường gần giống với thực tế, bước đầu làm<br /> huy được tối đa cơ sở vật chất kỹ thuật, đồng thời<br /> quen với các hình thức dịch nói như dịch xã giao<br /> vừa sức với người học. Nguyên tắc đầu tiên của<br /> thông thường, dịch đàm phán hợp tác, dịch hội<br /> việc xây dựng hệ thống bài tập thể hiện ở việc tăng<br /> đàm ngoại giao, dịch bài phát biểu… trong đó chú<br /> dần độ khó. Độ khó tăng dần theo 3 hướng: các<br /> trọng các nội dung liên quan đến lĩnh vực quân sự.<br /> thao tác và hành động phức tạp dần; điều kiện thực<br /> Về phương pháp giảng dạy đang có sự đổi mới từ<br /> phương pháp coi trọng kết quả (sản phẩm dịch) hiện các thao tác và hành động phức tạp dần (tăng<br /> sang phương pháp coi trọng quá trình, trong đó dần tốc độ, trong cùng một thời gian phối hợp<br /> đang áp dụng mô hình phát huy năng lực tự chủ nhiều thao tác và hành động); tài liệu ngôn ngữ<br /> trong học tập của người học. phức tạp dần (lượng từ và cấu trúc ngữ pháp, cấu<br /> trúc ý phức tạp dần). Việc tăng độ khó phải diễn ra<br /> Thứ hai, kiến thức trong giáo trình được trình dần dần, không có bước nhảy vọt đột biến. Nguyên<br /> bày khoa học, logic, đảm bảo cân đối giữa lý luận tắc thứ hai là cần phân chia hệ thống bài tập thành<br /> và thực hành, phù hợp với thực tiễn và cập nhật hai nhóm lớn: bài tập chuẩn bị và bài tập luyện.<br /> những tri thức mới nhất về dịch nói. Nội dung của Các bài tập này đều nhằm phát triển những tố chất<br /> giáo trình chia thành 2 phần chính, bao gồm phần cần thiết để lĩnh hội những kỹ năng, kỹ xảo của<br /> lý thuyết, rèn luyện kỹ năng riêng lẻ và phần thực dịch nói, rèn giũa những kỹ năng, kỹ xảo cụ thể<br /> hành rèn kỹ năng dịch nói tổng hợp. Phần lý thuyết của dịch nói và cuối cùng là hình thành những kỹ<br /> nên thiết kế với khoảng 40% dung lượng của giáo năng phối hợp các thao tác và hành động riêng lẻ<br /> trình và không đi sâu mô tả các kỹ năng dịch nói thành một quá trình hoạt động thống nhất. Nguyên<br /> dưới góc độ bản thể luận mà chủ yếu giới thiệu kỹ tắc thứ ba nhằm xây dựng hệ thống bài tập có liên<br /> năng và phương pháp tập thành kỹ năng đó. Phần quan đến việc lựa chọn thời gian xử lý từng bài tập<br /> <br /> <br /> KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br /> 74 Số 2 - 3/2018<br /> NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v<br /> <br /> <br /> <br /> và việc phát huy với cơ sở vật chất như màn hình vấn đề thuộc bình diện ngôn ngữ. Trên thực tế, tất<br /> chiếu, phòng hội đàm, phòng dịch cabin... cả những bài tập chuẩn bị và bài tập luyện đầu tiên<br /> đều có thể được biên soạn trên cơ sở 5-6 bài phát<br /> Ngoài những yêu cầu trên thì giáo trình dịch biểu của diễn giả, mỗi bài kéo dài từ 5 đến 10 phút.<br /> nói tiếng Trung Quốc cũng cần đảm bảo các yêu Trong ngữ liệu sử dụng ở giai đoạn hai của giai<br /> cầu của giáo trình ngoại ngữ thông thường như nội đoạn luyện tập thực hành dịch nói, cần có nhiều<br /> dung được trích dẫn có nguồn gốc và chú thích rõ chủ đề đa dạng hơn và lớp từ phong phú hơn.<br /> ràng, đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về quyền tác giả<br /> theo quy định hiện hành; hình thức và cấu trúc của - Xác định qui mô giáo trình: Giáo trình thực<br /> giáo trình đảm bảo tính đồng bộ và tuân thủ các hành dịch nói tiếng Trung Quốc được biên soạn<br /> quy định cụ thể của các cấp có liên quan. theo chương trình học phần. Xét theo độ dài tăng<br /> dần của các bài và để tiện cho việc triển khai giảng<br /> 3.2. Định hướng phương án kết cấu giáo trình dạy và thi kiểm tra cũng như việc in ấn, mượn tài<br /> liệu học tập của học viên, giáo trình nên chia thành<br /> Xác định phương án kết cấu giáo trình là một<br /> 2 cuốn, cuốn dành cho học viên và cuốn dành cho<br /> trong những bước không thể thiếu của công tác<br /> giảng viên, trong đó cuốn của giảng viên có trích<br /> thiết kế giáo trình. Tất cả các yếu tố đã được xác<br /> định như mục tiêu biên soạn, nguyên tắc biên soạn, dẫn nguyên văn các tư liệu dịch nói được thực hiện<br /> ý tưởng biên soạn đều được thể hiện ở kết cấu giáo trên lớp và yêu cầu về đáp án.<br /> trình. Việc xác định phương án kết cấu giáo trình<br /> - Phương thức kết cấu của giáo trình: Giáo<br /> dịch nói tiếng Trung Quốc bao gồm một số công<br /> trình thực hành dịch nói được thiết kế kết hợp giữa<br /> việc cụ thể sau:<br /> lý thuyết với thực hành, giữa rèn kỹ năng độc lập<br /> - Định vị giáo trình: Giáo trình dịch nói tiếng với rèn kỹ năng tổng hợp. Xuất phát từ hai loại<br /> Trung Quốc là giáo trình phục vụ cho công tác hình cơ bản của dịch nói là dịch đuổi và dịch cabin<br /> giảng dạy môn Dịch nói tiếng Trung Quốc, nằm nên nội dung giáo trình sẽ phải đề cập đến cả hai<br /> trong hệ thống giáo trình Thực hành dịch tiếng loại hình này, tuy nhiên hai loại hình này có chung<br /> Trung Quốc. Trước khi vào học học phần dịch nói, một số kỹ năng, các kỹ năng này được trình bày<br /> học viên đã học các học phần tương ứng với các ở phần dịch đuổi, nội dung phần dịch cabin chỉ<br /> giáo trình Thực hành dịch tổng hợp 1, 2, 3, 4 và giới thiệu các kỹ năng riêng biệt của loại hình dịch<br /> một phần giáo trình Thực hành dịch tiếng Trung nói này. Giáo trình ngoài phần nhập môn, nên chia<br /> Quốc quân sự. Nói cách khác, giáo trình dịch nói thành hai phần: phần giới thiệu lý thuyết và rèn kỹ<br /> tiếng Trung Quốc cần kế thừa và tiếp tục các giáo năng độc lập; phần thực hành tổng hợp.<br /> trình thực hành dịch tổng hợp và thực hành dịch<br /> tiếng Trung Quốc quân sự, đảm bảo các nội dung - Xác định kết cấu từng bài: Ở phần lý thuyết<br /> có lôgic hệ thống và không bị trùng lặp. và rèn các kỹ năng độc lập, mỗi bài được chia<br /> thành 3 phần cơ bản: giới thiệu lý thuyết, bài thực<br /> - Xác định dung lượng của giáo trình: Dung hành rèn kỹ năng trên lớp và phần bài tập. Ở phần<br /> lượng của giáo trình được thể hiện ở số trang, số thực hành tổng hợp, mỗi bài được chia thành 3<br /> bài, độ dài các đoạn video... Đối với giáo trình thực phần: phần chuẩn bị, bài khóa để luyện tập trên<br /> hành dịch, tùy theo nội dung chủ đề và thể loại văn lớp và phần bài tập. Phần chuẩn bị cung cấp nội<br /> bản đơn giản hay phức tạp để xác định dung lượng dung liên quan đến bối cảnh hoặc có liên quan về<br /> của một bài. Thông thường ở những bài đầu, các ngôn ngữ đến bài khóa chính giúp người đọc có<br /> văn bản và băng hình được lựa chọn nên có độ khó sự chuẩn bị về kiến thức nền và ngôn ngữ phục vụ<br /> ngôn ngữ vừa phải để hướng người học tập trung cho công việc dịch bài khóa chính. Bài khóa chính<br /> nỗ lực chính vào việc hình thành những phẩm không trùng lặp với phần chuẩn bị được lựa chọn<br /> chất, tâm lý cần thiết và tạm thời quên đi những để người học thực hành trên lớp.<br /> <br /> <br /> KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br /> Số 12 - 3/2018 75<br /> v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI<br /> <br /> <br /> 3.3. Định hướng phương án lựa chọn và tổ đặc biệt là chất lượng âm thanh. Yêu cầu âm thanh<br /> chức ngữ liệu phải rõ ràng, đảm bảo người nghe phải nghe được.<br /> Tùy theo yêu cầu của từng nội dung rèn luyện mà<br /> 3.3.1. Nguyên tắc lựa chọn ngữ liệu người biên soạn phải biên tập lại các file âm thanh<br /> và hình ảnh này như điều chỉnh tốc độ nói, cho<br /> Ngữ liệu được lựa chọn đưa vào giáo trình phải<br /> thêm tạp âm… Trong dịch đuổi, với nội dung dịch<br /> có tính chính xác cao, có nguồn gốc rõ ràng, chính<br /> diễn thuyết, người nói thường nói liền trong một<br /> thống. Đặc biệt về nội dung, ngữ liệu chủ yếu đề<br /> khoảng thời gian khá dài, người biên tập phải tách<br /> cập đến vấn đề quân sự nhưng không được liên<br /> ra thành các đoạn nhỏ và có khoảng thời gian dừng<br /> quan đến các bí mật quân sự, bí mật quốc gia, hoặc<br /> để cho người học tập dịch. Việc biên tập thành các<br /> các ngữ liệu có quan điểm trái với đường lối chủ đoạn nhỏ này phải dựa trên cơ sở mạch ý hoặc<br /> trương của Đảng và nhà nước, đặc biệt các chủ lôgic của người nói, cần tách thành những đoạn<br /> trương về đối ngoại quân sự, không liên quan đến nhỏ có ý trọn vẹn, phù hợp với tư duy của người<br /> các vấn đề nhạy cảm chính trị, quân sự... nói, đồng thời phải phù hợp với khả năng nghe, ghi<br /> nhớ, chuyển đổi ngôn ngữ của đối tượng người học.<br /> Ngữ liệu dùng để rèn luyện cho kỹ năng dịch<br /> nói riêng lẻ thì phải có tính điển hình và tính minh Ngữ liệu nên mang tính thời sự, nên là các nội<br /> họa cao cho kỹ năng đó. Ví dụ, khi lựa chọn ngữ dung có liên quan đến các vấn đề “nóng” đang diễn<br /> liệu minh họa cho kỹ năng ghi nhớ bằng hình ảnh ra, có lợi cho việc thu nhận và phân tích thông tin<br /> thì nên chọn ngữ liệu giàu hình ảnh, khi lựa chọn của người học, đặc biệt là với việc khởi động công<br /> ngữ liệu minh họa cho kỹ năng nghe bắt ý người năng tri nhận và sử dụng kiến thức ngoài ngôn ngữ<br /> nói thì nên sử dụng ngữ liệu có lôgic và tầng bậc ý để lý giải thông tin. Tính thời sự ở đây không hẳn<br /> nghĩa chặt chẽ... là thời gian đưa ra thông tin mà chủ yếu chỉ đây là<br /> vấn đề nóng thu hút nhiều sự quan tâm, người học<br /> Ngữ liệu có độ khó vừa sức với đối tượng<br /> ít nhiều cũng đã có những hiểu biết nhất định làm<br /> người học. Để làm được điều này thì đầu tiên phải<br /> bối cảnh cho việc dịch thông tin.<br /> phân tích kỹ trình độ và nhu cầu của người học.<br /> Không lựa chọn ngữ liệu ở lĩnh vực quá chuyên Ngữ liệu cần thể hiện tính hoàn chỉnh của nội<br /> sâu có nhiều thuật ngữ chuyên ngành, hoặc lĩnh dung phát ngôn. Đa số các ngữ liệu sẽ được biên<br /> vực quá mới mẻ với người học. Một biện pháp soạn lại tạo độ ngừng cho người dịch, việc ngừng<br /> nữa để xác định độ khó cho phù hợp và thông qua ngắt không được tạo ra trở ngại cho việc lý giải.<br /> việc làm đáp án. Trong quá trình làm đáp án, người Do đó nên lựa chọn các ngữ liệu có nội dung mạch<br /> biên soạn có thể phát hiện ra những điểm khó, lạc, các tầng bậc ý nghĩa có cấu trúc rõ ràng, các<br /> thách thức cao với người học. Đối với các điểm đơn vị diễn ngôn trọn vẹn.<br /> khó ngôn ngữ mang tính thách thức với người học<br /> trong nguyên văn cần được xuất hiện trong các Ngữ liệu cần phục vụ trực tiếp cho công việc<br /> phần mang tính phụ trợ để người học có thể chuẩn của người học sau khi tốt nghiệp. Học viên Học<br /> bị trước. Đối với các điểm khó về tư duy song ngữ, viện Khoa học Quân sự sau khi ra trường, nếu có<br /> tư duy chuyển đổi cần trở thành các điểm trọng làm công việc liên quan đến dịch nói thì chủ yếu<br /> tâm giảng giải trên lớp. là dịch nói cho hoạt động đối ngoại, thăm viếng<br /> quốc phòng, các hoạt động tuần tra chung, giao<br /> Ngữ liệu dùng cho dịch nói đa số là các file lưu biên phòng, các buổi hội thảo, hội đàm, bồi<br /> hình ảnh và âm thanh. Một yêu cầu đặt ra cho việc dưỡng nghiệp vụ… Do đó cần ưu tiên lựa chọn<br /> lựa chọn là chất lượng của âm thanh và hình ảnh, ngữ liệu về các nội dung này.<br /> <br /> <br /> KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br /> 76 Số 2 - 3/2018<br /> NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v<br /> <br /> <br /> <br /> 3.3.2. Nguyên tắc tổ chức ngữ liệu 2009). Như vậy, có ba điểm cần lưu ý trong khái<br /> niệm về giao tiếp: thứ nhất, đó là sự trao đổi hai<br /> Có thể phân ngữ liệu thành bốn hình thức chính chiều; thứ hai, có ít nhất hai đối tượng tham gia<br /> là ngữ liệu phục vụ cho việc minh họa các kỹ năng, vào quá trình giao tiếp; thứ ba, thông tin phải<br /> ngữ liệu phục vụ cho thiết kế bài tập, ngữ liệu phục được hai bên hiểu rõ. Nếu thiếu một trong ba<br /> vụ cho việc cung cấp bối cảnh và kiến thức ngôn yếu tố này thì việc giao tiếp chưa hoàn chỉnh.<br /> ngữ liên quan đến bài dịch chính, ngữ liệu phục vụ<br /> cho việc biên soạn bài dịch chính. Để người học trên vai trò người dịch có thể chủ<br /> động điều hành giao tiếp với tư cách là nhân vật<br /> Ngữ liệu còn có thể phân thành ngữ liệu dưới trung gian, ngữ liệu đưa ra cần có đầy đủ các yếu<br /> dạng băng hình, ngữ liệu dạng viết và ngữ liệu tố người nói, người nghe và quá trình truyền đạt<br /> “sống”. Ngữ liệu dưới dạng băng hình cần được tổ thông tin. Ngữ liệu này có thể là một bài phát biểu<br /> chức trước các ngữ liệu dạng viết, ngữ liệu dạng hay một kịch bản đàm phán được thể hiện ngay<br /> viết cần đưa vào giai đoạn cuối cùng. Lý do là vì trên lớp. Ngữ liệu này có thể giao cho người học<br /> các kỹ năng nghe, hiểu và biểu đạt là kỹ năng cơ sưu tầm và chuẩn bị trước trong vai trò người phát<br /> bản nhất của dịch nói, người học khi bắt đầu vào ngôn, cũng có thể giao cho người học viết kịch<br /> học dịch nói, khi còn chưa nhận thức được đầy bản. Trong giáo trình, dạng ngữ liệu này sẽ được<br /> đủ quy trình dịch nói cũng như các bước nghe lấy trình bày dưới các nội dung mang tính chất hướng<br /> thông tin, phân tích để hiểu thông tin, biểu đạt lại dẫn về chủ đề và các nội dung liên quan, như kịch<br /> thông tin sang ngôn ngữ đích mà đã tiếp xúc với bản buổi đàm phán về hợp tác giáo dục giữa một<br /> hình thức dịch nói văn bản sẽ hình thành nên thói trường đại học của Việt Nam và một trường đại học<br /> quen ỷ lại vào văn bản, dẫn đến kiểu dịch từng câu của Trung Quốc thì đầu tiên phải là các nội dung<br /> từng chữ hoàn toàn khác với bản chất của dịch nói. chào mời, giới thiệu đại biểu, tiếp đến là các nội<br /> Ngữ liệu dạng viết lại được chia thành hai dạng, dung giới thiệu về trường, đặc biệt là các thế mạnh<br /> dạng thứ nhất là công cụ phụ trợ, người dịch vẫn của từng trường, tiếp đến đi tới bàn bạc về một vài<br /> phải theo sát lời nói của người nói, bởi rất có thể lĩnh vực có thể hợp tác, bàn bạc về phương án hợp<br /> người nói sẽ đi sâu phân tích một ý nào đó, thậm tác và cuối cùng là thống nhất để đi đến ký kết văn<br /> chí bỏ qua một vài chỗ nào đó, hoặc nói không theo bản hợp tác... Trên thực tế rất khó có thể tìm được<br /> bài đã được chuẩn bị. Còn một hình thức nữa đó một kịch bản đã viết bằng hai thứ tiếng nên việc<br /> là nói lại văn bản, tức không có người nói, người chỉ đạo cho người học tự viết là khâu vô cùng quan<br /> dịch dịch trực tiếp các nội dung đọc được từ văn trọng. Việc sử dụng ngữ liệu “sống” này có vai trò<br /> bản. Ngữ liệu phục vụ cho hình thức dịch này cũng rất lớn trong việc kéo gần hoạt động “kiểu dịch<br /> được tổ chức vào dạng ngữ liệu dịch dạng viết. học đường” với hoạt động dịch trong thực tiễn, do<br /> Ngữ liệu băng hình là chủ yếu song cũng không đó nên đưa vào các bài rèn luyện tổng hợp.<br /> nên chiếm toàn bộ dung lượng giáo trình, chỉ nên<br /> để ở mức khoảng 60%, ngữ liệu dạng viết khoảng 4. KẾT LUẬN<br /> 20%, số còn lại là ngữ liệu “sống” khoảng 20%.<br /> Cơ sở lý luận cho việc biên soạn giáo trình<br /> Ngữ liệu “sống” còn được gọi là ngữ liệu mở, dịch nói tiếng Trung Quốc được xây dựng trên 3<br /> là phần ngữ liệu đảm bảo cho tính chất giao tiếp nền tảng: lý luận về dịch nói, lý luận giảng dạy<br /> của dịch nói được thể hiện rõ nhất. Bản chất của dịch nói và lý luận biên soạn giáo trình ngoại ngữ.<br /> dịch nói là hoạt động giao tiếp, mà “giao tiếp là Bài viết đi sâu nghiên cứu lý luận về dịch nói, lấy<br /> sự truyền đạt điều muốn nói từ người này sang thuyết Cảm ý và trường phái coi phiên dịch là quá<br /> người khác để đối tượng có thể hiểu những thông trình động là nền tảng quan trọng, có tính khả thi<br /> điệp được truyền đi, nó không chỉ đơn thuần là cao trong việc chỉ đạo công tác biên soạn giáo<br /> việc truyền thụ ý muốn nói mà còn bao hàm cả trình dịch nói. Trên cơ sở lý luận đã được chắt lọc<br /> việc hiểu được những ý đó nữa” (Bùi Anh Tuấn, và phân tích, bài viết đã đưa ra các định hướng<br /> <br /> <br /> KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br /> Số 12 - 3/2018 77<br /> v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI<br /> <br /> <br /> cho việc biên soạn giáo trình dịch nói tiếng Trung dịch Trung - Việt đối ngoại, Học viện Ngoại giao,<br /> Quốc tại Học viện Khoa học Quân sự, bao gồm: Hà Nội.<br /> xác định mục tiêu, yêu cầu của việc biên soạn; đưa<br /> ra các định hướng về cấu trúc giáo trình, về lựa 2. Nguyễn Quốc Hùng (2007), Hướng dẫn kỹ<br /> chọn và tổ chức ngữ liệu... Việc xác định phương năng phiên dịch Anh – Việt & Việt – Anh, NXB<br /> pháp biên soạn hợp lý không chỉ có vai trò quan Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh.<br /> trọng quyết định đến chất lượng của giáo trình,<br /> phù hợp với đối tượng dạy học, mà còn góp phần 3. Hồ Đắc Túc (2012), Dịch thuật và tự do,<br /> bảo đảm tính khoa học, hiện đại và bắt kịp xu thế NXB Hồng Đức, Hà Nội.<br /> phát triển của giáo trình./.<br /> 4. Bùi Anh Tuấn (2009), Hành vi tổ chức, NXB<br /> Ghi chú: Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.<br /> 1. Thuyết Cảm ý (Theory of Sense) còn được 5. 刘和平(2003),口译技巧—思维科学<br /> gọi là thuyết Dịch thuật diễn giải (Interpretive 与口译推理教学法,中国对外翻译出版公司,<br /> Theory of Translation, hay La theorie interpretative 北京。<br /> de la traduction, nguyên văn trong Pháp ngữ, 释意<br /> 理论 trong tiếng Trung Quốc) 6.吕俊(2002),翻译学应该从解构主义<br /> 那里学些什么,外国语,第5期。<br /> 2. Bell, R. T (1991), Translation and translating<br /> theory and practice, London and New York:<br /> 7.赛 莱 丝 科 维 奇 著 , 黄 为 沂 , 钱 慧 杰 译<br /> Longman. Dẫn theo 吴爱俊(2011),从过程<br /> (1992),口译技艺:即席口译与同声传译经<br /> 化视角探索口译教材新编写模式,北京第二外<br /> 国语学院。 验谈,上海翻译出版公司,上海。<br /> <br /> Tài liệu tham khảo: 8. 王瑞昀(2004),口译的认知与口译教<br /> 材的编写—跨学科口译理论在《英语口译教<br /> 1. Phan Vũ Tuấn Anh (2013), Giáo trình Phiên 程》编写中的应用,中国翻译,第7期。<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> METHODS FOR COMPILING CHINESE INTERPRETING TEXTBOOKS<br /> AT MILITARY SCIENCE ACADEMY<br /> TONG VAN TRUONG<br /> Abstract: Developments in interpreting theories and requirements of reality have proved that<br /> the work of compiling Chinese interpreting textbooks cannot any longer result from existing<br /> models but should be based on convincing theories, new models and directing methods. For that<br /> reason, this article focuses on analyzing interpreting theories and claims that the Theory of Sense<br /> and the school considering interpreting as an active process are important basis for compiling<br /> interpreting textbooks. The article then suggests method directions for compiling Chinese<br /> interpreting textbooks at Military Science Academy including: defining aims and requirements of<br /> the compilation; specifying strutures of textbooks; collecting and collocating linguistic data… to<br /> make sure that completed textbooks are well scientific and qualified.<br /> Keywords: Chinese interpreting textbooks, compiling method(s), direct<br /> Received: 04/01/2018; Revised: 06/02/2018; Accepted for publication: 28/02/2018<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br /> 78 Số 2 - 3/2018<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2