intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

QHX-2013-43587 Tiểu Thuyết Viết Về Nông Thôn Trong Văn Học Việt Nam Sau Năm 1986 (Qua Mảnh Đất Lắm Người Nhiều Ma Của Nguyễn Khắc Trường, Ma Làng Của Trịnh Thanh Phong, Dòng Sông Mía Của Đào Thắng)

Chia sẻ: Minh Lộ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:113

20
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn Thạc sĩ Văn học Việt Nam: Tiểu thuyết viết về nông thôn trong văn học Việt Nam sau năm 1986 (Qua Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường, Ma làng của Trịnh Thanh Phong, Dòng sông mía của Đào Thắng)

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: QHX-2013-43587 Tiểu Thuyết Viết Về Nông Thôn Trong Văn Học Việt Nam Sau Năm 1986 (Qua Mảnh Đất Lắm Người Nhiều Ma Của Nguyễn Khắc Trường, Ma Làng Của Trịnh Thanh Phong, Dòng Sông Mía Của Đào Thắng)

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------------------------ LÊ THỊ LIÊN TIỂU THUYẾT VIẾT VỀ NÔNG THÔN TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM SAU NĂM 1986 (QUA MẢNH ĐẤT LĂM NGƯỜI NHIỀU MA CỦA NGUYỄN KHẮC TRƢỜNG, MA LÀNG CỦA TRỊNH THANH PHONG VÀ DÒNG SÔNG MÍA CỦA ĐÀO THẮNG) LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành văn học Việt Nam Hà Nội- 2013 1
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------- LÊ THỊ LIÊN TIỂU THUYẾT VIẾT VỀ NÔNG THÔN TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM SAU NĂM 1986 (QUA MẢNH ĐẤT LĂM NGƯỜI NHIỀU MA CỦA NGUYỄN KHẮC TRƢỜNG, MA LÀNG CỦA TRỊNH THANH PHONG VÀ DÒNG SÔNG MÍA CỦA ĐÀO THẮNG) Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành văn học Việt Nam Mã số: 60 22 01 21 Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS Hà Văn Đức Hà Nội- 2013 2
  3. Lời cam đoan Tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ này là công trình nghiên cứu của riêng tôi, không sao chép của ai. Những nội dung của luận văn có tham khảo và sử dụng các tài liệu, thông tin được đăng tải trên các sách, báo, các trang web, khóa luận tốt nghiệp và luận văn đã được chú thích theo danh mục tài liệu tham khảo của luận văn. Tác giả luận văn Lê Thị Liên 3
  4. Lời cảm ơn! Trong quá trình thực hiện nghiên cứu đề tài tôi đã nhận được sự quan tâm, giúp đỡ nhiệt tình từ rất nhiều phía. Trước hết tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS Hà Văn Đức – Khoa Văn học, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội đã tận tình hướng dẫn và tạo điều kiện thuận lợi nhất cho tôi thực hiện đề tài này. Xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo đã có những ý kiến đóng góp chân thành, sâu sắc cho tôi trong quá trình thực hiện luận văn. Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đến gia đình, bạn bè – những người đã luôn ủng hộ, động viên tôi nỗ lực để hoàn thành tốt nhất luận văn này. Xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, tháng 12/2013 Tác giả Lê Thị Liên 4
  5. MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................................7 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ....................................................................................8 3. Mục đích nghiên cứu ...........................................................................................15 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ......................................................................16 5. Phƣơng pháp nghiên cứu....................................................................................16 6. Cấu trúc đề tài .....................................................................................................17 CHƢƠNG 1: TIỂU THUYẾT VIẾT VỀ NÔNG THÔN TRONG BỐI CẢNH VĂN HỌC THỜI KÌ ĐỔI MỚI VÀ SỰ XUẤT HIỆN CỦA NGUYỄN KHẮC TRƢỜNG, TRỊNH THANH PHONG, ĐÀO THẮNG ........................................18 1.1 Đề tài nông thôn trong văn xuôi Việt Nam hiện đại ......................................18 1.1.1 Văn xuôi viết về nông thôn trước đổi mới (1986) ..........................................18 1.1.2 Tiểu thuyết viết về nông thôn sau đổi mới (1986)..........................................21 1.2 Sự xuất hiện của Nguyễn Khắc Trƣờng, Trịnh Thanh Phong và Đào Thắng trong dòng chảy của tiểu thuyết Việt Nam đƣơng đại .........................................27 1.2.1 Vài nét về sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Khắc Trường .............................27 1.2.2 Vài nét về sáng tác của Trịnh Thanh Phong .................................................28 1.2.3 Vài nét về sáng tác của Đào Thắng ................................................................29 Chƣơng 2: HIỆN THỰC NÔNG THÔN VÀ CÁC KIỂU NHÂN VẬT TRONG MẢNH ĐẤT LẮM NGƯỜI NHIỀU MA, MA LÀNG VÀ DÒNG SÔNG MÍA ....31 2.1 Bức tranh hiện thực cuộc sống nông thôn ......................................................31 2.1.1 Hiện thực nông thôn thời kì tiền đổi mới.......................................................31 2.1.2 Vấn đề tàn dư của cái cách ruộng đất ...........................................................39 2.1.3 Hiện thực đời sống tâm linh và đời sống tính dục trong ba tiểu thuyết .......44 3.2 Các kiểu nhân vật trong ba tiểu thuyết ...........................................................55 3.2.1 Nhân vật tha hóa .............................................................................................55 5
  6. 3.2.2 Nhân vật ki kịch ..............................................................................................64 3.2.3 Nhân vật vượt lên trên hoàn cảnh số phận....................................................70 Chƣơng 3: TIỂU THUYẾT VIẾT VỀ NÔNG THÔN NHÌN TỪ GÓC ĐỘ PHƢƠNG THỨC BIỂU HIỆN ..............................................................................78 3.1 Nghệ thuật khắc họa nhân vật .........................................................................78 3.1.1 Xây dựng những chi tiết ngoại hình ..............................................................79 3.1.2 Khắc họa nội tâm nhân vật .............................................................................85 3.2 Đặc điểm ngôn ngữ............................................................................................89 3.2.1 Ngôn ngữ của người kể chuyện .....................................................................90 3.2.2 Ngôn ngữ nhân vật .........................................................................................93 3.3 Kết cấu................................................................................................................98 3.3.1 Kết cấu lồng ghép ............................................................................................98 3.3.2. Kết cấu buông lửng để ngỏ ..........................................................................103 KẾT LUẬN ............................................................................................................107 TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................109 6
  7. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong lịch sử văn học Việt Nam, đề tài nông thôn luôn có sức hấp dẫn đặc biệt và là mảng hiện thực ghi danh nhiều tác giả, tác phẩm tiêu biểu. Mỗi thời kì tùy theo hoàn cảnh lịch sử, văn hóa, xã hội mà nông thôn được tiếp cận dưới những góc độ khác nhau. Trong dòng văn học hiện thực phê phán những năm 1930 – 1945, nông thôn hiện lên với cái đói, cái nghèo, tối tăm, lạc hậu. Sau Cách mạng Tháng Tám đến năm 1975, đề tài nông thôn được khai thác với cảm hứng ngợi ca những mặt tích cực, tốt đẹp của cuộc sống. Sau năm 1975, đặc biệt là sau Đại hội Đảng VI (1986) với tinh thần tự do dân chủ, nhìn thẳng vào sự thật, phát huy nhân tố con người đã mang đến cho văn chương một luồng sinh khí mới. Các nhà văn đã mạnh dạn bày tỏ tư tưởng, quan điểm nghệ thuật của mình về hiện thực. Dưới cái nhìn thế sự, vấn đề người nông dân cũng được mổ xẻ, soi chiếu dưới nhiều góc độ. Chưa bao giờ cuộc sống riêng tư, số phận con người lại được chú ý đến vậy. Thêm vào đó, việc các phương tiện thông tin truyền hình của Việt Nam công chiếu hàng loạt những bộ phim dài tập về đề tài nông thôn như: “Chuyện làng Nhô”, “Đất và người”, “Ma làng”, “Gió làng Kình” … đã đưa hình ảnh nông thôn thời kì đổi mới trở nên quen thuộc và hấp dẫn với người xem. Trong hàng loạt những tác phẩm văn xuôi viết từ sau đổi mới về đề tài nông thôn Việt Nam Mảnh đất lắm người nhiều ma (Nguyễn Khắc Trường), Ma làng (Trịnh Thanh Phong), Dòng sông mía (Đào Thắng) là những tác phẩm tiêu biểu, đặc sắc. Giá trị nội dung và nghệ thuật của ba tiểu thuyết này được khẳng định bằng việc nhận giải thưởng của Hội nhà văn (Mảnh đất lắm người nhiều ma, Dòng sông mía) và được chuyển thể thành phim (Ma làng, Mảnh đất lắm người nhiều ma) làm lay động bao trái tim độc giả, khán giả. Xuất phát từ lòng yêu thích, muốn tìm hiểu về cuộc sống của con người cũng như hình ảnh về nông thôn trong những năm sau đổi mới, đồng thời cũng mong muốn bổ sung thêm kiến thức, giúp ích cho việc học tập, nghiên cứu sau này, chúng 7
  8. tôi quyết định chọn đề tài “ Tiểu thuyết viết về nông thôn trong văn học Việt Nam sau năm 1986 (Qua Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường, Ma làng của Trịnh Thanh Phong, Dòng sông mía của Đào Thắng” cho luận văn cao học của mình. Chúng tôi hi vọng đề tài được lựa chọn sẽ góp một tiếng nói nhỏ vào định hướng chung của nền văn hóa nghệ thuật nước nhà, thêm một sự đồng thuận trong thái độ của cộng đồng với vấn đề nông thôn Việt Nam. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Sau Đại hội Đảng VI (1986) văn học Việt Nam đã có một bước chuyển mình rất lớn lao trên tất cả các thể loại, đặc biệt là thể loại tiểu thuyết. Sự nở rộ của tiểu thuyết thời kì đổi mới, đặc biệt là các tiểu thuyết về nông thôn được coi như một thành tựu của văn học thời kì này đã thu hút các nhà nghiên cứu quan tâm, chú ý. Trong quá trình tìm hiểu các tư liệu liên quan đế đề tài, chúng tôi có được một số tư liệu có thể tạm phân ra một số vấn đề chính sau đây: 2.1 Những ý kiến chung về sự chuyển biến của văn xuôi viết về nông thôn Sau khi Đảng phát động cuộc đổi mới, văn học nói chung và văn xuôi viết về nông thôn nói riêng có bước chuyển biến căn bản. Nhờ không khí dân chủ của xã hội, chưa bao giờ tác phẩm văn xuôi lại xuất hiện nhiều và đa dạng như thời kì này. Giới nghiên cứu, phê bình cũng được rộng đường dư luận hơn trước nên số lượng bài viết rất phong phú. Hầu hết các bài viết đều đề cập đến những khía cạnh khác nhau của đời sống nông thôn trước và sau đổi mới, và thống nhất ghi nhận sau Đại hội Đảng VI (1986), văn xuôi viết về nông thôn đã có sự thay đổi đáng kể. Tác giả Trần Cương trong bài Văn xuôi viết về nông thôn nửa sau những năm 80 [12] đã nhận thấy có hai sự chuyển biến của văn xuôi viết về nông thôn nửa sau những năm 80 so với những năm trước đó, đó là: Sự chuyển biến trong chủ đề và sự chuyển biến trong phạm vi bao quát hiện thực. Ở bài viết này, khi nói về chuyển biến trong chủ đề Trần Cương đã đánh giá “ dường như lần đầu tiên xuất hiện hai chủ đề thuộc về con người mà trước kia chưa có đó là sản phẩm con người và hạnh phúc cá 8
  9. nhân…” [12; 36]. Ở phạm vi bao quát hiện thực tác giả cũng nhận xét: Các nhà văn đã nhìn nhận và phản ánh hiện thực nông thôn một cách chân thực và sâu sắc. Nhà nghiên cứu Phong Lê trong công trình Nghiên cứu văn học [38] với bài: Tiểu thuyết mở đầu thế kỷ XXI trong tiến trình văn học Việt Nam từ tháng 8 năm 1945” đã có một cái nhìn khái quát về tiểu thuyết Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến những năm sau đổi mới, đặc biệt là những cuốn tiểu thuyết mở đầu thể kỳ XXI. Tác giả Tôn Phương Lan trong cuốn Nhìn lại văn học Việt Nam thế kỷ XX [32] có bài Một số vấn đề văn xuôi thời kì đổi mới, tác giả có đề cập đến văn học sau chiến tranh. Đặt đề tài nông thôn bên cạnh đề tài khác, bài viết đã chỉ ra những đổi mới của đề tài nông thôn trong sự đổi mới chung của tiểu thuyết sau 1986. Ngoài ra, trong bài viết này, tác giả còn nói đến một số vấn đề tồn tại của đời sống nông thôn trong mối quan hệ dòng tộc. Trong bài viết Về hướng tiếp cận mới đối với hiện thực trong văn xuôi sau năm 1975, khi xác định ranh giới của tiểu thuyết trước và sau đổi mới, nhà nghiên cứu Tôn Phương Lan cho rắng: “Lâu nay người nông dân chưa được nhìn nhận qua vấn đề ruộng đất, vấn đề vào ra hợp tác xã, giờ đây, nhà văn được nhìn vào số phận lịch sử của họ. Và lịch sử đất nước được hiện ra qua lịch sử cuộc đời nhân vật trong cuộc mưu sinh, trong sự duy trì, đóng góp để làm nghĩa vụ cho tổ quốc, với phần trách nhiệm của từng hoàn cảnh gia đình”[34; 50]. Từ góc độ đó, tác giả cho rằng: “đã có một cách soi xét lại một thời đã qua, thông qua những số phận cá nhân và những vấn đề của làng xã, một dòng họ” ”[34; 48], trong đó, “nổi bật lên là mối mâu thuẫn về quyền lợi cá nhân nấp dưới vấn đề họ tộc” [34; 40] Tác giả Lã Duy Lan trong công trình khoa học Văn xuôi viết về nông thôn – tiến trình và đổi mới [32] đã khái quát và đánh giá về nông thôn trong suốt quá trình phát triển từ trước và sau năm 1986. Nếu ở giai đoạn trước năm 1986, tác giả đi vào những thành tựu và hạn chế trong việc phản ánh hiện thực thì ở giai đoạn sau năm 1986, ngoài việc giới thiệu diện mạo chung, tác giả còn tập trung đánh giá những “đặc trưng sáng tạo về nội dung” của văn xuôi viết về nông thôn thời kì đổi mới 9
  10. qua sự chuyển biến về chủ đề, phạm vi bao quát hiện thực và cách thể hiện nhân vật. Đồng thời, tác giả cũng đánh giá những thành tựu bước đầu về phương diện nghệ thuật: ngôn ngữ, thể loại, phong cách chung và giọng điệu. Tác giả Phạm Ngọc Tiến trong bài Đề tài nông thôn không bao giờ mòn đăng trên báo Tuổi trẻ ngày 2/12/2007 cũng có cái nhìn lạc quan. Trong bài viết tác giả đã khẳng định đề tài nông thôn không bao giờ “bạc màu”, “không bao giờ mòn”. Bởi nông thôn Việt Nam đang từng bước chuyển mình, đáng được ghi nhận. Quá trình nông thôn hóa, sự tác động của công nghiệp vào nông nghiệp, sự lai căng về văn hóa…cũng có mặt tích cực và tiêu cực nên đáng để các nhà văn suy ngẫm, trăn trở. [67]. Trong công trình nghiên cứu Tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 – 2005: Diện mạo và đặc điểm, tác giả Lê Thị Hường đã chỉ ra được những đặc điểm chính của tiểu thuyết giai đoạn này là sự đa dạng về hệ đề tài, trong đó đề tài nông thôn là một trong những đề tài đã gây được ấn tượng. Các nhà văn đã gặp gỡ nhau ở vấn đề cốt lõi của nông thôn: gia đình và dòng tộc, phong tục, nếp nghĩ, nếp sống của những con người sống trên những mảnh đất phần lớn còn chịu sức đè của thói tục cũ. [30]. Nhân dịp cuộc thi tiểu thuyết lần 2 (2002- 2004) kết thúc, báo Sài Gòn giải phóng đã có cuộc trao đổi với Chủ tịch hội nhà văn Việt Nam – nhà thơ Hữu Thỉnh. Trong cuộc trao đổi, nhà thơ đã khẳng định: Có mùa gặt mới của tiểu thuyết nông thôn đầu thế kỷ XXI. Nét mới của cuộc thi tiểu thuyết lần 2 là các nhà văn đã có sự mở rộng biên độ khi viết về nông thôn. Họ “đặt nông thôn Việt Nam trong những biến cố của dân tộc đầy bão táp theo chiều dài lịch sử”, “với độ mở và góc khuất mà trước đó nhiều nhà văn chưa có điều kiện để truyền tải tới bạn đọc. Những yếu tố đó tạo nên bộ mặt và sức bền của nông thôn Việt Nam. Qua Dòng sông mía, Cánh đồng lưu lạc… đã chứng tỏ được “ sức sống của dân tộc, cốt cách của người nông dân được phác họa một cách sắc sảo” [65]. Như vậy, văn xuôi và tiểu thuyết viết về nông thôn từ sau năm 1986 đã thực sự hồi sinh, để lại nhiều dấu ấn qua mỗi giai đoạn, mỗi tác giả và mỗi tác phẩm. 10
  11. Phải khẳng định rằng, văn xuôi và tiểu thuyết viết về nông thôn giai đoạn này đã không dẫm lên những lối mòn quen thuộc, mà đã có sự chuyển mình, hứa hẹn nhiều thành tựu ở những giai đoạn sau. 2.2 Những ý kiến đánh giá về Mảnh đất lắm người nhiều ma, Ma làng, Dòng sông mía. Văn xuôi viết về nông thôn đã gây được sự chú ý đông đảo dư luận. Hầu như những tác phẩm viết về nông thôn và người nông dân xuất hiện trên văn đàn, đều để lại nhiều dấu ấn đối với bạn đọc và các nhà nghiên cứu, phê bình. Trong phạm vi đề tài, chúng tôi tập trung khái quát lại lịch sử nghiên cứu vấn đề nông thôn sau năm 1986 – cái mốc đánh dấu sự đổi mới toàn diện trong đời sống xã hội. Sự ra đời của khá nhiều tác phẩm ở nhiều thể loại (truyện ngắn, tiểu thuyết) về đề tài nói trên đã thu hút sự quan tâm của người đọc. Tuy nhiên, đó hầu hết là những bài viết có quy mô nhỏ, đăng trên các báo, tạp chí, mạng internet… Vấn đề chung nhất các bài viết chỉ ra là: văn xuôi viết về nông thôn thời kì đổi mới tập trung nhận thức lại thực tại xã hội đã qua (giai đoạn từ 1954 đến trước năm 1986). Nguyễn Khắc Trường là cây bút trẻ của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam. Khởi đầu với các tập truyện Cửa khẩu, Thác rừng, Miền đất mặt trời nhưng thể loại truyện ngắn này không đem lại thành công cho ông. Đánh dấu sự thành công trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Khắc Trường phải kế đến cuốn tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma , với cuốn tiểu thuyết này Nguyễn Khắc Trường đã mang đến cho văn đàn một tiếng nói mới, trực diện và sắc sảo. Khảo sát các tư liệu đã thu thập được, chúng tôi nhận thấy các tài liệu nghiên cứu về Nguyễn Khắc Trường hầu như mới chỉ là ý kiến thảo luận, các bài viết đăng rải rác trên các báo, tạp chí và các bài phỏng vấn trực tuyến chưa mang tính toàn diện, hệ thống. Ngoài ra cũng còn phải kể đến một số bài được phát trên Đài tiếng nói Việt Nam, kịch bản phim Mảnh đất lắm người nhiều ma đã được công chiếu dưới cái tên Đất và người” của hãng phim Truyền hình Việt Nam vào tháng 1 năm 2003. Tuy các ý kiến đánh giá, phê bình đôi khi khác nhau, thậm chí trái ngược nhau, nhưng nhìn chung cũng khá thống nhất 11
  12. khi đánh giá về giá trị của cuốn tiểu thuyết này. Đáng chú ý là các ý kiến thảo luận về Mảnh đất lắm người nhiều ma do báo Văn nghệ tổ chức ngày 25 tháng 1 năm 1991. Trong cuộc thảo luận này các nhà nghiên cứu xem xét, đánh giá tác phẩm dưới nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau. Có ý kiến đưa ra sự đánh giá tổng quát về tác phẩm và khẳng định tài năng của Nguyễn Khắc Trường (Hà Minh Đức), đánh giá tác phẩm ở chiều sâu văn hóa của nó (Bùi Đình Thi), cũng có ý kiến xem xét, đánh giá tác phẩm ở khía cạnh đóng góp của nó với đề tài nông thôn (Phong Lê), ở nghệ thuật trần thuật và cách tổ chức cốt truyện (Trần Đình Sử, Trung Trung Đỉnh,…) Có thể dẫn ra một số nhận xét tiêu biểu. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh khẳng định: “Đã lâu lắm rồi mới xuất hiện một tác phẩm viết về nông thôn Việt Nam theo đúng mạch của Tắt đèn, Chí Phèo…Mảnh đất lắm người nhiều ma là cuốn tiểu thuyết hấp dẫn nhờ nghệ thuật kể chuyện. Sự dẫn dắt tình tiết, sự tổ chức các tình huống đã tạo được nhiều bất ngờ… [58;430 – 431]. Hà Minh Đức cũng khẳng định: “Nguyễn Khắc Trường đã viết về nông thôn với cách nhìn chân thực, chủ động làm bộc lộ qua những trang viết một nông thôn có nhiều chuyển động, xáo trộn, đấu tranh giữa cái tốt và cái xấu, tranh chấp nhau giữa các thế lực” [58; 424]. Với Phong Lê “Cuốn sách đặt ra và gây được ấn tượng ở các vấn đề chìm và nổi, ở bề mặt và bề sâu trong sự đan xen đó. Không chỉ là chất thơ mà còn là bi kịch, và là những bi kịch gọi nhau, Không chỉ những con người nhân danh đủ dạng trong thế bài trừ tiêu diệt lẫn nhau mà còn là đủ những dị dạng, bị đẩy ra hoặc bị hút vào những giao tranh quyết liệt đó”. Và “sức hấp dẫn của cuốn sách là ở một số vỉa mới mà nó khai thác, gắn bó với những vấn đề chung, vừa thực sự, vừa lưu cữu của nông thônn chúng ta”.[58; 426]. Bên cạnh những ý kiến bình luận trên, trong cuộc thảo luận còn có các ý kiến đóng góp của Ngô Thảo, Hoàng Ngọc Hiến, Hồ Phương, Nguyễn Phan Hách,… Nhìn chung những bài viết này đều có nhận định chung là ý thức dòng họ là vấn đề nổi bật trong các vấn đề về hiện thực nông thôn được phản ánh trong tác phẩm. Ngoài ra còn các bài viết trên báo và tạp chí,…đánh giá tiểu thuyết này, hầu hết các ý kiến mới chỉ thể hiện những ấn tượng chung nhất, khái quát nhất về tác phẩm. 12
  13. Dòng sông mía của Đào Thắng thì mang lại cho người đọc những trang viết thú vị về nông thôn Việt Nam. Lý Hoài Thu trong “Dòng sông mía – Một không gian tiểu thuyết vừa quen thuộc vừa mới mẻ in trên Tạp chí Văn nghệ quân đội, số 623 năm 2005 đã đi từ nét quen thuộc: quen thuộc từ hình ảnh dòng sông, cùng “bức tranh thu nhỏ của một vùng dân cư có nghề chính là trồng mía, làm đường” để chỉ ra những nét mới mẻ, độc đáo của Dòng sông mía. Tác giả Lý Hoài Thu cũng đã chỉ ra sự sáng tạo của Đào Thắng về giá trị nội dung, và những phương thức biểu hiện của tác phẩm: nghệ thuật xây dựng nhân vật, không gian và thời gian, điểm nhìn trần thuật để từ đó khẳng định: “đặc tính nổi bật nhất của Dòng sông mía … là sự khác lạ độc đáo”. Tác phẩm thực sự đã mở ra hướng tiếp cận mang ý nghĩa cách tân về mặt thể loại. Cùng nghiên cứu về Dòng sông mía, Nhà phê bình Trần Mạnh Hảo trong bài “Dòng sông mía của Đào Thắng hay tiếng nấc của sông Châu Giang” đăng trên Tạp chí Nhà văn số 7 năm 2005 có nhận định: “Dòng sông mía chính là làng quê trồng mía để bán và để nấu đường của tác giả tái hiện lên sinh động từ thời Tây thực dân, qua cách mạng, kháng chiến, hòa bình, cải cách ruộng đất, chống Mỹ, hòa bình và cuối cùng đến chiến tranh biên giới với Trung Quốc…”’ Trần Lệ Thanh trong bài: “Ma làng “và sự trăn trở của một ngòi bút với quê hương” in trên báo Văn nghệ trẻ số tháng 2 năm 2003 đã làm rõ hơn giá trị của “Ma làng” về cả phương diện nội dung và nghệ thuật trong tiểu thuyết của nhà văn Trịnh Thanh Phong. Và những phát hiện trong bài viết của tác giả Trần Lệ Thanh cũng đã gợi hướng cho chúng tôi rất nhiều khi thực hiện đề tài này. Trong bài viết tác giả Trần Lệ Thanh cho rằng nội dung chính của tác phẩm Ma làng là: “Đằng sau việc miêu tả những mâu thuẫn dai dẳng, sự tranh chấp, đố kị giữa làng trên xóm dưới, tộc này họ kia chi phối đời sống nông dân, đằng sau những mánh khóe hiểm ác những mưu mô toan tính của những người có thế lực có quyền thế, lợi dụng đúng chỗ đứng của mình để thu lợi… Tác phẩm trong một chừng mực nào đó đã phản ánh được thực trạng khá đau đớn vẫn còn diễn ra trong đời sống tinh thần của một số làng quê nông thôn.”, tác giả bài viết cũng cho rằng:“Cái làm nên sức hấp dẫn 13
  14. của Ma làng là ở tấm lòng của tác giả, ở cái nhìn xã hội vừa nghiêm khắc vừa hiền lành đôn hậu của nhà văn. Đặc biệt cái làm nên sức nặng của ngòi bút Trịnh Thanh Phong chính là ở chỗ, tuy luôn day dứt, trăn trở trước những số phận, những cảnh đời, mảnh đời vụn vỡ, những tác giả không bao giờ thỏa hiệp với cái xấu” [49]. Chính điều này chi phối đến giọng điệu, nghệ thuật xây dựng nhân vật. Bên cạnh nội dung tác giả bài viết cũng đề cập sơ bộ nhất vài nét nghệ thuật tự sự trong Ma làng như lối trần thuật “Bằng nhiều chi tiết, qua lối trần thuật độc đáo giàu sức gợi”, giọng điệu “Nghe và cách miêu tả những nhân vật này, thấy được thái độ vừa trân trọng, cảm thông vừa nghiêm khắc phán xử của nhà văn”, “giọng điệu mỉa mai bông tếu cũng trở thành một phương thức khá quen thuộc của nhiều cây viết”, kết cấu tác phẩm của Trịnh Thanh Phong được nhận xét “Trịnh Thanh Phong có được một phần kết luận hợp lý”… Tuy đây là những đánh giá rất sơ lược về nghệ thuật trong Ma làng nhưng nó cũng đã gợi ý cho chúng tôi trong khi tìm hiểu những phương diện nghệ thuật trong tiểu thuyết của Trịnh Thanh Phong. Triệu Đăng Khoa trong bài: Hỏi chuyện nhà văn tác giả “Ma làng” Báo Nông nghiệp nông thôn số tháng 9 năm 2008: Khẳng định sức hấp dẫn của tác phẩm “Ma làng” với mọi thế hệ người đọc. Sức hấp dẫn mà tác phẩm Ma làng có được do nội dung mà nó phản ánh đó chính là những mưu mô toan tính, những biến thái tinh vi của bọn phú hào mới mang tư duy của người nông dân. Cùng với đó là cách xây dựng nhân vật cũng như tấm lòng của nhà văn đối với người nông dân. Trung Trung Đỉnh trong bài: Tiểu thuyết ma làng và những thói tục mới ở làng quê trên báo văn nghệ trẻ số tháng 3/2003 đã đề cập khá rõ nét về nội dung cũng như những mâu thuẫn được đề cập đến trong tác phẩm Ma làng. Tác giả bài viết khẳng định nhà văn Trịnh Thanh phong đã viết về nông thôn Việt Nam thời hiện đại với những thói tục xưa cũ được cải biến thành thói tục thời nay. Đó là “những thói tục mâm trên mâm dưới, họ hàng chú bác anh em cô dì giằng dịt lôi kéo nhau vào việc làng, việc nước… bọn phú hào mới của làng xã tranh thủ đục nước béo cò, xâu xé nhau bằng những chức vụ…” mâu thuẫn được phản ánh trong cuốn sách là : “một bên là thân phận những người nông dân ngàn đời nay vẫn chưa 14
  15. ra khỏi lũy tre làng… một bên là bọn quan chức dùng mọi thủ đoạn mưu mô chước quỷ nắm các chức quyền trong làng ngoài xã”. Đây cũng là nội dung bài viết Tiểu thuyết “Ma làng”- Bức tranh quê trước ngày đổi mới của tác giả Minh Hòa trên báo Tuyên Quang số ra ngày 28 tháng 9 năm 2007. Nhìn chung, mỗi công trình, bài viết đề cập, đánh giá ở những khía cạnh, góc độ khác nhau, nhưng đa số đều thống nhất khẳng định giá trị từng tác phẩm. Từ những ý kiến, những bài viết về tác phẩm, chúng tôi cảm nhận được sự thành công của cả ba tác giả và sự đóng góp to lớn của họ cả về phương diện nội dung và phương diện nghệ thuật, mở ra một hướng tiếp cận mới, cách nhìn mới về hiện thực nông thôn thời kỳ hội nhập. Xung quanh đề tài này còn có 1 số công trình nghiên cứu khoa học: khóa luận tốt nghiệp của sinh viên, luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ. Tuy nhiên, về việc nghiên cứu ba tác phẩm này, chúng tôi nhận thấy rằng trong những bài nghiên cứu và những ý kiến trên mới mang tính chất gợi mở, chưa mang tính chuyên sâu, chuyên biệt về đề tài nông thôn thời kì đổi mới dưới sự so sánh, đối chiếu giữa các tác phẩm nói chung và giữa ba tác phẩm Mảnh đất lắm người nhiều ma (Nguyễn Khắc Trường) , Ma làng (Trịnh Thanh Phong), Dòng sông mía (Đào Thắng) nói riêng. Kế thừa thành tựu nghiên cứu của người đi trước, chúng tôi sẽ cố gắng để có một cái nhìn sâu sắc và cụ thể hơn về đề tài nông thôn qua ba tiểu thuyết này, đồng thời cho thấy sự tìm tòi của ba tác giả cũng là sự đóng góp của họ về phương diện đề tài và thể loại. 3. Mục đích nghiên cứu Lựa chọn đề tài Tiểu thuyết viết về nông thôn trong văn học Việt Nam sau năm 1986 (Qua ba tác phẩm Mảnh đất lắm người nhiều ma (Nguyễn Khắc Trường), Ma làng (Trịnh Thanh Phong), Dòng sông mía (Đào Thắng)), luận văn nhằm mục đích tìm hiểu diện mạo nông thôn trong thời kì đổi mới, đồng thời phát hiện những đặc điểm nổi bật về nội dung và nghệ thuật của ba tác phẩm trên nói riêng và trong văn xuôi Việt Nam viết về đề tài nông thôn trong giai đoạn này nói chung. Từ đó sẽ 15
  16. thấy được những đóng góp quan trọng của những sáng tác viết về đề tài nông thôn đối với quá trình vận động và đổi mới của văn xuôi Việt Nam sau 1986. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu chính của chúng tôi trong đề tài này là những vấn đề về nội dung và nghệ thuật trong ba tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma (Nguyễn Khắc Trường), Ma làng (Trịnh Thanh Phong), Dòng sông mía (Đào Thắng). Tuy thời điểm sáng tác của mỗi tác giả không trùng lặp, nhưng tác phẩm của họ lại gặp nhau ở ý tưởng tái hiện lại gương mặt nông thôn một thời đã qua với những cái “có thật”. Qua đó thế hệ sau có thể biết thêm về làng quê xưa và nay có đặc điểm gì đã biến chuyển, có đặc trưng gì vẫn bảo tồn bền vững trở thành hồn cốt của nông thôn Việt Nam. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Tiếp cận đề tài xuất phát từ đặc điểm tiểu thuyết viết về nông thôn, chúng tôi tập trung khai thác bức tranh hiện thực và các kiểu nhân vật được thể hiện trong Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường, Ma làng của Trịnh Thanh Phong và Dòng sông mía của Đào Thắng. Ngoài việc tập trung khảo sát ba tác phẩm trên chúng tôi còn tiến hành khảo sát một số sáng tác về nông thôn trong văn học Việt Nam trước và sau năm 1986 viết về đề tài nông để có cái nhìn so sánh, đối chiếu. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Xuất phát từ yêu cầu của đối tượng và mục đích nghiên cứu, luận văn vận dụng một số phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp lịch sử - xã hội - Phương pháp phân tích, tổng hợp - phương pháp so sánh, đối chiếu 16
  17. - Phương pháp nghiên cứu loại hình 6. Cấu trúc đề tài Trong đề tài này, ngoài phần mở đầu và phần kết luận, phần nội dung chúng tôi chia làm 3 chương: Chương 1: Tiểu thuyết viết về nông thôn trong bối cảnh văn học thời kì đổi mới và sự xuất hiện của Nguyễn Khắc Trường, Trịnh Thanh Phong, Đào Thắng. Chương 2: Hiện thực nông thôn và các kiểu nhân vật trong Mảnh đất lắm người nhiều ma, Ma làng, Dòng sông mía. Chương 3: Tiểu thuyết viết về nông thôn nhìn từ góc độ phương thức biểu hiện. 17
  18. CHƢƠNG 1: TIỂU THUYẾT VIẾT VỀ NÔNG THÔN TRONG BỐI CẢNH VĂN HỌC THỜI KÌ ĐỔI MỚI VÀ SỰ XUẤT HIỆN CỦA NGUYỄN KHẮC TRƢỜNG, TRỊNH THANH PHONG, ĐÀO THẮNG 1.1 Đề tài nông thôn trong văn xuôi Việt Nam hiện đại 1.1.1 Văn xuôi viết về nông thôn trước đổi mới (1986) Thời kỳ 1930- 1945: Xã hội Việt Nam trong giai đoạn lịch sử này đã có sự biến đổi to lớn, từ chế độ thuần nhất phong kiến đã chuyển sang chế độ thực dân nửa phong kiến. Nghĩa là có sự thay đổi trong cơ cấu xã hội, cơ cấu kinh tế và cơ cấu giai cấp, nhưng riêng ở nông thôn Việt Nam thì nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, quan hệ sản xuất phong kiến gắn liền với sự tồn tại của giai cấp địa chủ và nông dân về cơ bản vẫn là như trước. Điều đáng nói là sự áp bức giai cấp ở đây (cụ thể giữa địa chủ và nông dân), ngày một gay gắt hơn, căng thẳng hơn. Bức tranh này chúng ta có thể nhận thấy rõ qua nhiều tác phẩm kí sự, truyện ngắn, đặc biệt là những cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của các tác giả tiêu biểu thuộc trào lưu hiện thực phê phán như : Bước đường cùng (Nguyễn Công Hoan); Tắt đèn (Ngô Tát Tố); Chí Phèo (Nam Cao)….Tập hợp lại, đó là một toàn cảnh tiêu biểu, bao quát được thực trạng của nông thôn Việt Nam xảy ra trước Cách mạnh tháng Tám 1945. Bức tranh toàn cảnh nông thôn của các nhà văn hiện thực như những đàn chim én báo hiệu mùa xuân cách mạng sắp tới gần. Ở những tác phẩm này, ngoàigiá trị hiện thực còn chứa đựng giá trị nhân đạo hết sức sâu sắc. Đó là những đòi hỏi về quyền sống, quyền làm người. Đó là sự quan tâm đến số phận của những kiếp người bé nhỏ, đầy bất hạnh. Đó là ý thức phản kháng của nhân vật khi bị dồn vào những bước đường không còn lối thoát. Cách mạng tháng Tám là một sự kiện vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Với thắng lợi này, nước ta từ một nước thuộc địa đã trở thành một nước độc lập dưới chế độ dân chủ cộng hoà, đưa nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người dân độc lập, tự do, làm chủ nước nhà. Và một điều mà chúng ta dễ nhận thấy là bộ 18
  19. mặt của nông thôn Việt Nam đã có những thay đổi to lớn. Thành công của cuộc Cách mạng đã đem đến cho người nông dân cuộc sống mới, sinh mệnh mới. Giờ đây ruộng đất đã được trao tận tay với quyền làm chủ và họ bắt đầu quá trình xây dựng và kiến thiết cuộc sống mới. Nhưng cũng trong giai đoạn này, người nông dân lại phải tiếp tục tham gia vào cuộc kháng chiến chống lại thực dân Pháp, giải phóng đất nước. Chính vì vậy, trong những năm này, văn xuôi viết về nông thôn hầu như không tách riêng ra thành một mảnh rõ rệt với văn xuôi nói chung. Đề tài nông thôn cũng nằm trong đề tài kháng chiến, hoà quện trong một cái tên chung là văn xuôi kháng chiến. Các làng quê giờ đây trở thành hậu phương vững chắc, tiếp sức cho tiền tuyến, đảm bảo thắng lợi cả về vật chất lẫn tinh thần. Những bà mẹ hậu phương trở thành mẹ chung, sẵn sàng chở che, nuôi dấu chiến sĩ bồ đội; những người phụ nữ- người vợ đảm đang vừa lo tăng gia sản xuất, vừa lo chiến đấu; những lớp trai trẻ bừng bừng khí thế ra trận... Tất cả những gương sáng đó đều có mặt trong một thể loại văn học mang đậm tính thời sự- đó là thể ký. Có thể kể đến Truyện và ký (Trần Đăng); Nhật ký ở rừng (Nam Cao); Ký sự Cao Lạng (Nguyễn Huy Tưởng); Tuỳ bút kháng chiến (Nguyễn Tuân)...Đây đều là những tác phẩm tiêu biểu của thể loại ký trong giai đoạn văn học này. Ngoài ra trong giai đoạn văn học này, văn xuôi lấy bối cảnh trực tiếp là nông thôn còn có các truyện ngắn Thư nhà (Hồ Phương); Làng (Kim Lân); Con Trâu (Nguyễn Văn Bổng)...đều là những sáng tác tiêu biểu có giá trị. Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, miền Bắc được giải phóng, Đảng ta đã chủ trương chuyển sang làm cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trước khi bắt đầu những nhiệm vụ của cách mạng xã hội chủ nghĩa, miền Bắc phải bắt tay vào công cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế-xã hội do bị tàn phá nặng nề. Một số vấn đề lớn được đặt ra là làm sao đáp ứng được những nhu cầu của con người sau những năm tháng chiến tranh, đồng thời vẫn phải củng cố, giữ vững mục tiêu của Đảng của cách mạng. 19
  20. Nông thôn Việt Nam trong giai đoạn này nổi bật lên hai sự kiện quan trọng: đó là Cải cách ruộng đất và phong trào hợp tác hoá nông nghiệp. Hai sự kiện này thể hiện rất rõ trong văn học. Văn xuôi viết về nông thôn trong cải cách ruộng đất có các sáng tác: Bếp đỏ lửa (Nguyễn Văn Bổng); Nông dân với địa chủ (Nguyễn Công Hoan); Ông lão hàng xóm (Kim Lân)... Đây là những tác phẩm của các tác giả có quá trình và có thành tựu sáng tác từ trước cách mạng. Văn xuôi viết về phong trào hợp tác xã nông nghiệp cũng có những sáng tác tiêu biểu của các tác giả như: Đào Vũ với Cái sân gạch và Vụ lúa chiêm; Vũ Thị Thường với Cái hom giỏ và Gánh vác; Nguyên Khải với Tầm nhìn xa, Mùa lạc, Hãy đi xa hơn nữa, Gia đình lớn; Nguyễn Kiên với Đồng tháng năm và Vụ mùa chưa gặt… Thời kì 1964 – 1975: Giai đoạn này cả nước bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ. Nông thôn vừa là hậu phương lớn chi viện cho miền Nam tiền tuyến vừa sẵn sàng chiến đấu giữ vững nền độc lập, bởi vậy văn xuôi viết về nông thôn trong giai đoạn chống Mỹ ít nhiều mang âm điệu sử thi anh hùng. Đây là thời kỳ văn xuôi viết về nông thôn có được nhiều thành tựu cả về tác phẩm lẫn đội ngũ sáng tác, có thể kể đến: Nguyễn Thị Ngọc Tú với Đất lành, Buổi sáng; Chu Văn với Bão Biển, Đất mặn; Nguyễn Khải với Chủ tịch huyện; Nguyễn Minh Châu với Cửa sông…Nhìn chung, qua các tác phẩm trên đã phản ánh được hiện thực nông thôn sống động với nhiều sự kiện và chi tiết tiêu biểu, nêu được những tấm gương sáng về nhiệt tình cách mạng và khí thế chống Mỹ cứu nước của hậu phương. Đặc biệt qua các tác phẩm của Chu Văn (Bảo biển) hay Nguyễn Khải (Chủ tịch huyện) đã có cái nhìn sâu sắc, toàn diện hơn về người nông dân. Văn xuôi viết về nông thôn giai đoạn 1975 – 1985 bắt đầu chuyển động với các tiểu thuyết Nhìn dưới mặt trời (Nguyễn Kiên); Bí thư cấp huyện (Đào Vũ). Đây là hai tác giả có quá trình viết về nông thôn từ rất sớm, nhưng những vấn đề được lựa chọn đưa vào thời điểm đó thực sự là những vấn đề xã hội bức thiết: đó là hiện tượng ô dù, tham ô được nhắc tới để mọi người cùng nhận thức và tìm cách loại bỏ 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2