QUÁ TRÌNH SINH SỐNG, HỌC TẬP CỦA BÁC HỒ TẠI HUẾ<br />
(1906-1909) VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐỐI VỚI SỰ HÌNH THÀNH<br />
NHÂN CÁCH VÀ TƯ TƯỞNG CỨU NƯỚC HỒ CHÍ MINH<br />
LÊ THỊ HUYỀN TRANG<br />
Trường Đại học Phú Xuân, Huế<br />
NGUYỄN THỊ CHÂU<br />
Trường THPT Quốc Học, Huế<br />
Tóm tắt: Trong suốt thời thơ ấu của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hai lần<br />
sinh sống ở Huế với khoảng thời gian 10 năm. Trong lần thứ hai đến Huế,<br />
Người đã sinh sống và học tập trên mảnh đất kinh đô của đất nước từ 1906<br />
đến 1909. Tại đây, Người đã chịu ảnh hưởng sâu sắc của nền giáo dục gia<br />
đình và sự chuyển biến của lịch sử dân tộc trong giai đoạn này, tiếp thu nền<br />
văn hoá phương Tây. Trên cơ sở đó đã hình thành trong đầu óc Người khát<br />
khao tìm hiểu những gì còn ẩn giấu của nền văn minh phương Tây, để tìm ra<br />
con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc sau khi chứng kiến sự thất bại<br />
của các phong trào yêu nước thời bấy giờ. Có thể khẳng định rằng, Kinh đô<br />
Huế đã đóng một vai trò hết sức quan trọng đối với quá trình hình thành<br />
nhân cách và tư tưởng cứu nước của Hồ Chí Minh.<br />
<br />
“Từng giọt nước nhỏ thấm sâu vào lòng đất, chảy về một hướng mới thành suối thành<br />
sông. Biết bao nhiêu giọt nước nhỏ họp lại mới thành biển cả. Một pho tượng hay một<br />
lâu đài cũng phải có cái nền đất vững chắc mới đứng vững được. Nhưng người ta dễ<br />
nhìn thấy pho tượng, lâu đài mà không chú ý đến cái nền. Như thế là chỉ nhìn thấy cái<br />
ngọn mà quên mất cái gốc” [13, tr. 3]. Trong rất nhiều yếu tố hội tụ nhằm hình thành<br />
nền tảng cho nhân cách của Hồ Chí Minh, cố đô Huế với những năm tháng sinh sống và<br />
học tập của Người tại đây đã có ảnh hưởng một phần không nhỏ. Trong phạm vi bài viết<br />
này, chúng tôi tập trung nghiên cứu về quá trình sinh sống và học tập của Chủ tịch Hồ<br />
Chí Minh trong thời gian Người ở Huế lần thứ hai (1906-1909) đã có ảnh hưởng như<br />
thế nào đến việc hình thành nhân cách và tư tưởng yêu nước của Người sau này.<br />
Lần thứ nhất Bác Hồ theo gia đình vào Huế là năm 1895, sau khi ông Nguyễn Sinh Sắc<br />
thi trượt khoa thi Hội (1895). Để chuẩn bị cho kỳ thi tiếp theo, ông Nguyễn Sinh Sắc<br />
xin vào học ở trường Quốc tử giám và được chấp nhận. Thời gian này, ông đã đưa cả vợ<br />
con vào Huế cùng sinh sống. Chính ở nơi đây, trong những năm 1895-1901, cậu bé<br />
Nguyễn Sinh Cung đã chứng kiến nỗi gian lao, vất vả của gia đình. Trong tim Người,<br />
Huế không chỉ là một phần miền Nam yêu quý mà còn là nơi lưu giữ những kỷ niệm<br />
vui buồn của tuổi thơ. Tại mảnh đất cách xa quê hương đến 360km này, cậu cũng đã<br />
nếm trải nỗi đau mất mẹ, chẳng bao lâu đó lại mất cả em trai trong khi bố và anh đi<br />
vắng. Cũng tại đây, Người đã được học những bài học đầu tiên từ người thầy - người<br />
cha của mình, được nuôi dưỡng trong nền Nho học gia giáo của gia đình, đồng thời<br />
chứng kiến những lần cha cùng bạn bè đàm đạo về thời thế với những biến động to lớn<br />
Tạp chí Khoa học và Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Huế<br />
ISSN 1859-1612, Số 02(14)/2010: tr. 47-55<br />
<br />
48<br />
<br />
LÊ THỊ HUYỀN TRANG - NGUYỄN THỊ CHÂU<br />
<br />
của lịch sử dân tộc trong những năm cuối thế kỷ XIX. Tất cả những điều đó đã có ảnh<br />
hưởng to lớn đến tâm hồn của cậu bé Nguyễn Sinh Cung, hình thành những gốc rễ đầu<br />
tiên cho nhân cách của một con người.<br />
Năm 1901, sau khi vợ mất và liền đó là đứa con trai út cũng qua đời, ông Nguyễn Sinh<br />
Sắc đã quyết định đưa con về quê. Được bạn bè, gia đình vợ động viên, cùng năm đó<br />
ông trở lại Huế tham gia kỳ thi Hội năm 1901 với tên gọi mới là Nguyễn Sinh Huy và<br />
đỗ Phó bảng (cùng với Phan Chu Trinh). Tuy nhiên, ý thức sâu sắc về thời cuộc, ông<br />
không muốn ra làm quan mà viện cớ hoàn cảnh gia đình để không vào Huế nhậm chức.<br />
Đến năm 1906, lại có giấy từ triều đình gọi ông vào kinh đô, ông đành phải vào Huế,<br />
mang theo cả hai con trai với tên gọi mới: Nguyến Tất Đạt, Nguyễn Tất Thành.<br />
Sau gần bốn năm xa Kinh đô Huế, nay trở lại, Huế trong mắt Nguyễn Tất Thành lúc này<br />
đã có ít nhiều đổi khác: Cầu Thành Thái (Tràng Tiền) hai đầu gục xuống dòng sông,<br />
nhịp giữa đã bị cơn bão Giáp Thìn (1904) cuốn đi; bờ Nam sông Hương với những dãy<br />
nhà mới của người Tây mọc lên nguy nga với vẻ kiêu ngạo, thách thức trước cảnh trí<br />
thơ mộng của Huế; dân Tây đi lại trên phố nhiều hơn… Tất cả những thay đổi đó của<br />
Huế khiến cho Nguyễn Tất Thành cảm thấy ở đất “thần kinh” này đang có một sự<br />
chuyển động âm ỉ bên trong, làm cho anh phải suy nghĩ.<br />
Những ngày đầu mới vào Huế, do chưa được cấp nơi ở, cha con ông Phó bảng phải<br />
nương nhờ trong nhà ông Phạm Khắc Doãn - một người đồng hương làm Biên tu ở<br />
Quốc sử quán. Ở nhà ông Phạm Khắc Doãn, hàng ngày, Phạm Gia Cần (con trai ông<br />
Phạm Khắc Doãn) và Nguyễn Tất Thành cùng lo việc cơm nước, bếp núc, dọn dẹp. Với<br />
đức tính siêng năng, chăm chỉ, cần kiệm, tháo vát của mình, Nguyễn Tất Thành đã<br />
khiến ông Doãn chú ý và khen ngợi, lấy đó làm tấm gương cho con trai mình noi theo.<br />
Ít lâu sau, Phó bảng Nguyễn Sinh Huy được triều đình cấp cho một căn hộ trong dãy<br />
“Thuộc viên”, hay còn gọi là “Dãy trại” ở đường Đông Ba, Thành Nội Huế (nay là<br />
đường Mai Thúc Loan). Sau khi sắp xếp được nơi ăn, chốn ở, tháng 9/1906, ông<br />
Nguyễn Sinh Huy đã xin cho hai cậu con trai vào học trường Tiểu học Pháp - Việt Thừa<br />
Thiên [15]. Trường dạy cả chữ Hán, chữ quốc ngữ và chữ Pháp, nhưng càng lên lớp<br />
trên, chữ Pháp càng tăng lên. Nhờ có vốn học từ ngoài Vinh, lại sáng dạ, tiếp thu nhanh<br />
nên Nguyễn Tất Thành nhanh chóng theo kịp và vượt các bạn cùng khoá. Cậu còn nhờ<br />
ông Doãn và cha mượn nhiều sách vở về đọc rất chăm chú. Những lúc rảnh rỗi, Nguyễn<br />
Tất Thành lại rủ các bạn đi thăm cảnh trí kinh đô và quan sát đời sống sinh hoạt của<br />
nhân dân, khám phá những điều bí ẩn giữa thực tế cuộc sống trái ngược với những điều<br />
trong sách vở. Càng tiếp cận với nền văn minh Pháp qua sách vở, Nguyễn Tất Thành<br />
càng thêm tò mò muốn tìm hiểu những bí ẩn đằng sau nền văn minh đó.<br />
Vào Huế lần này Nguyễn Tất Thành mới hiểu hết vẻ đẹp của Huế cũng như những<br />
chuyện rối ren, phức tạp của triều đình Huế trong những năm cuối thế kỷ XIX, đầu XX.<br />
Phong trào Cần Vương bùng nổ, phát triển mạnh mẽ nhưng cuối cùng cũng bị đàn áp,<br />
thất bại. Năm 1888, vua Hàm Nghi bị bắt và đày sang Angiêri cũng là năm Thành Thái<br />
lên ngôi. Trong 18 năm ở ngôi của mình (1888-1906), ông vua yêu nước này luôn mang<br />
<br />
QUÁ TRÌNH SINH SỐNG, HỌC TẬP CỦA BÁC HỒ TẠI HUẾ (1906-1909)...<br />
<br />
49<br />
<br />
trong mình tâm trạng u uất và phải chịu sự kiểm soát của Toà Khâm sứ. Từ năm 1897,<br />
thực dân Pháp ép vua Thành Thái ra dụ ngày 15/8/1897 và dụ ngày 21/9/1897 giao toàn<br />
quyền cai trị trong xứ cho Tòa Khâm sứ. Không cam chịu làm một ông vua bù nhìn, đau<br />
xót trước cảnh nước mất nhà tan, Thành Thái đã bí mật liên hệ với tổ chức Duy tân hội<br />
để hoạt động. Nhưng mọi việc đang tiến hành thì bị thực dân Pháp phát hiện, chúng lấy<br />
cớ nhà vua bị điên để truất ngôi vua và đày nhà vua đi biệt xứ. Những sự kiện trên đã<br />
tác động to lớn đến tâm hồn của cậu thanh niên Nguyễn Tất Thành, làm cho cậu luôn<br />
trăn trở nghĩ về những nhân vật, những con đường cứu nước khác nhau thời bấy giờ.<br />
Năm 1907 là một năm đầy sôi động của lịch sử dân tộc mà Kinh đô Huế là điểm xoáy<br />
của những cơn gió mạnh từ nhiều hướng ập tới. Phong trào Đông du của Phan Bội Châu<br />
đang cuốn hút những trái tim yêu nước từ Bắc chí Nam. Đây là thời kỳ “đắc ý” của nhà<br />
chí sĩ họ Phan. Thơ văn yêu nước của ông được hàng triệu người truyền miệng nhau, cổ<br />
vũ mãnh liệt tinh thần đoàn kết, quyết tâm cứu nước cứu nhà:<br />
“Nghìn, muôn, ức, triệu người chung góp<br />
Xây dựng nên cơ nghiệp nước nhà<br />
Người dân ta, của dân ta<br />
Dân là dân nước, nước là nước dân”<br />
(Hải ngoại huyết thư) [8, tr. 188]<br />
Ông kêu gọi mọi người trong nước đứng dậy đấu tranh:<br />
“Hòn máu uất chất quanh đầy ruột<br />
Anh em ơi xin tuốt gươm ra<br />
Có trời, có đất, có ta<br />
Đồng tâm như thế mới là đồng tâm”<br />
(Hải ngoại huyết thư) [8, tr. 199]<br />
Phan Bội Châu tiêu biểu cho xu hướng bạo động, muốn dựa vào sự giúp đỡ của nước<br />
ngoài (Nhật Bản) để đánh đuổi giặc Pháp. Chủ trương đó được cụ thể hoá thành phong<br />
trào Đông Du, gây ảnh hưởng sâu rộng trong cả nước, đặc biệt là ở Trung Kỳ.<br />
Cũng trong thời điểm này (1906-1907), một xu hướng cứu nước khác nảy sinh: Xu<br />
hướng cải cách ôn hoà đứng đầu là Phan Chu Trinh. Phan Chu Trinh đã phát động một<br />
phong trào cải cách, duy tân rộng lớn ở Trung Kỳ, bao gồm nhiều mặt về kinh tế, văn<br />
hóa, xã hội… Ở Bắc Kỳ, trường Đông Kinh Nghĩa Thục được thành lập và nhanh chóng<br />
trở thành một phong trào rộng lớn thu hút đông đảo quần chúng tham gia.<br />
Tất cả những sự kiện sôi động đó của lịch sử dân tộc đã tác động lớn đến tư tưởng yêu<br />
nước của Nguyễn Tất Thành. Thời gian đó ở Huế có rất nhiều thơ văn yêu nước cổ động<br />
duy tân đất nước của cả ba phong trào. Nguyễn Tất Thành được đọc nhiều bài viết hấp<br />
dẫn, gây xúc động lớn. Anh cùng các bạn của mình hăng say bàn tán, tìm hiểu các loại<br />
sách báo Tân thư, Tân văn và các loại sách của các nhà khai sáng Pháp như Mông-tétxki-ơ, Rút-xô, Vôn-te… Không chỉ vậy, Nguyễn Tất Thành còn trực tiếp rủ thêm một<br />
số bạn bè tay cầm kéo, tay xách giỏ đi vận động các chú, các bác cắt bỏ búi tó và không<br />
mặc áo dài khi lao động cũng như trong sinh hoạt bình thường.<br />
<br />
50<br />
<br />
LÊ THỊ HUYỀN TRANG - NGUYỄN THỊ CHÂU<br />
<br />
Có thể nói, những phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam đầu thế kỷ XX như một<br />
luồng gió mới thổi vào tâm hồn, suy nghĩ của Nguyễn Tất Thành. Chính từ những<br />
phong trào yêu nước đó đã làm xuất hiện trong đầu anh những ý nghĩ mới lạ, anh muốn<br />
tìm hiểu thật kỹ các xu hướng cứu nước của các phong trào để có thể chọn cho mình<br />
một hướng đi đúng đắn và phù hợp. Với tinh thần yêu nước và những chính kiến riêng<br />
của bản thân, anh nhận thấy những hạn chế của các phong trào trên, vì thế anh rất băn<br />
khoăn không biết mình sẽ đi theo hướng nào. Đó là những suy nghĩ hết sức sâu sắc và<br />
thể hiện ý thức của một thanh niên Việt Nam yêu nước trong bối cảnh mới của lịch sử<br />
dân tộc.<br />
Đến mùa thu năm 1907, Nguyễn Tất Thành tiếp tục học lên lớp sơ đẳng của trường tiểu<br />
học Pháp - Việt Đông Ba [15].<br />
Một sự kiện to lớn và có tính chất quan trọng đối với quyết định ra đi tìm đường cứu<br />
người của Nguyễn Tất Thành đó là phong trào chống thuế Trung Kỳ năm 1908. Nguyên<br />
nhân sâu xa dẫn đến sự kiện này là chính sách khai thác và bóc lột nhân dân của thực<br />
dân Pháp, đặc biệt là chính sách thuế khoá. Riêng ở Trung Kỳ, nhân dân phải đi phu và<br />
nộp thuế nhiều hơn những nơi khác. Đầu năm 1908, chính quyền ra nghị định tăng 5%<br />
thuế điền. Tháng 4 năm 1908, lấy cớ phải đài thọ lễ “tứ tuần đại khánh” cho Khải Định,<br />
chúng lại tăng thêm 30%. Tố cáo tình trạng này, Phan Chu Trinh đã viết trong “Thư gửi<br />
toàn quyền Bô”: “Không cần kể đến ruộng rộng hay hẹp, cứ nhất luận mà lấy thuế; năm<br />
nay gia một khoản, sang năm gia một khoản” [4, tr. 112]. Nỗi uất ức của nhân dân ngày<br />
càng tăng cao, chỉ chờ có dịp là bùng nổ.<br />
Trong hoàn cảnh ấy, những hoạt động sôi nổi của các phong trào đấu tranh đầu thế kỷ<br />
XX đã kích thích nhân dân vùng dậy chống lại ách áp bức bóc lột của thực dân Pháp.<br />
Quảng Nam là tỉnh mở đầu cho phong trào với sự kiện cuộc xung đột ngày 13/3/1908<br />
giữa nhân dân huyện Đại Lộc (Quảng Nam) với tên tri huyện, vì tên này ăn của đút lót<br />
phân bổ nhân dân đi đắp con đường từ huyện đường tên tỉnh lỵ không công bằng. Cuộc<br />
đấu tranh đã thu hút đông đảo quần chúng nhân dân tham gia và nhanh chóng lan ra<br />
toàn tỉnh và các tỉnh khác ở Trung Kỳ.<br />
Ở Thừa Thiên Huế, hưởng ứng phong trào đấu tranh của nhân dân các tỉnh phía Nam,<br />
ngày 9/4/1908, đoàn biểu tình ở các huyện đã kéo về Huế. Tên Phủ doãn Thừa Thiên<br />
Trần Trạm và tên Phó quản dẫn một số lính tới làng Công Lương, nơi quần chúng đang<br />
tập trung chuẩn bị biểu tình để giải tán, liền bị quần chúng ném đá. Một người trong<br />
đoàn biểu tình bị bắn chết, đoàn người liền trói tên Phủ doãn và Phó quản. Quân Pháp<br />
đã dùng gậy gộc để đàn áp, đoàn biểu tình buộc phải giải tán. Ngày 11/4/1908, nhân dân<br />
đã bao vây Toà Khâm sứ Trung Kỳ đưa đơn đòi yêu sách. Thực dân Pháp cho binh lính<br />
bắn vào đoàn biểu tình. Cuộc xung đột xảy ra vô cùng quyết liệt. Có người không nén<br />
nổi căm hờn đã lao vào bọn lính, ôm lấy chúng rồi cùng lao xuống sông Hương mà chết.<br />
Phong trào chống thuế có sức cuốn hút mạnh mẽ đối với mọi tầng lớp nhân dân Huế<br />
thời bấy giờ. Người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã rủ thêm một số bạn bè<br />
trong đó có anh trai Nguyễn Tất Đạt tham gia vào đoàn biểu tình đấu tranh giành quyền<br />
sống cho đồng bào của mình. Tại Toà Khâm sứ Trung Kỳ, ngay trước tiền sảnh, với tư<br />
<br />
QUÁ TRÌNH SINH SỐNG, HỌC TẬP CỦA BÁC HỒ TẠI HUẾ (1906-1909)...<br />
<br />
51<br />
<br />
cách là phiên dịch cho đồng bào, Nguyễn Tất Thành đã thể hiện tinh thần yêu nước, ý<br />
chí đấu tranh, đứng về phía nhân dân của mình. Trong đoạn băng ghi âm nhân kỷ niệm<br />
ngày sinh nhật Bác Hồ (19/5/1979), đồng chí Vũ Kỳ đã kể lại: “Trong cuộc biểu tình<br />
chống thuế của nhân dân Thừa Thiên Huế năm 1908, Bác Hồ đã tham gia tích cực.<br />
Người nhận làm phiên dịch, nhưng phiên dịch của Người không thụ động. Khi đồng bào<br />
đưa yêu sách chưa đúng mức thì Người đưa vào cho đúng để đối chọi với Pháp. Khi<br />
Pháp nói gì làm cho uy thế đồng bào kém đi thì Người nói thêm để dấy lên tinh thần đấu<br />
tranh của đồng bào” [1, tr. 128].<br />
Từ nhận thức yêu nước đến hành động yêu nước là sự chuyển biến về chất của quá trình<br />
hình thành tư tưởng yêu nước và quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước của Nguyễn Tất<br />
Thành. Ngay sau những cuộc đấu tranh của nhân dân Trung Kỳ, thực dân Pháp đã đàn<br />
áp khốc liệt. “Mượn gió bẻ măng”, nhân cơ hội này, thực dân Pháp đã buộc tội để trừ<br />
khử các nhà ái quốc Việt Nam mặc dù có người không trực tiếp tham gia phong trào<br />
chống thuế. Cuộc khủng bố dã man của thực dân Pháp đã gây một ấn tượng sâu sắc đối<br />
với Nguyễn Tất Thành. Những năm sau, nhiều lần anh nhắc lại ấn tượng đó trong một<br />
số bài viết của mình:<br />
“Năm 1908, nhân dân miền Trung không chịu nổi sưu cao thuế nặng và bao nhiêu sự hà<br />
lạm áp bức đã phải biểu tình. Các cuộc biểu tình ấy mặc dù diễn ra hết sức ôn hoà<br />
nhưng đều bị đàn áp thẳng tay. Hàng trăm đầu rơi, vô số người bị tù đày… Người ta<br />
tuyên bố các làng phải chịu trách nhiệm về những vụ hỗn loạn xảy ra trên địa phận<br />
mình. Làng nào cho một người yêu nước trú ngụ thì bị kết án. Để khai thác tin tức,<br />
người ta dùng một phương pháp đơn giản - bao giờ cũng vậy - là tra khảo lý hào, ai<br />
không nói thì bị xử tử tức khắc. Cứ như thế trong vòng hai tuần lễ, một viên giám binh<br />
đã xử tử bảy mươi lăm lý hào” [10, tr. 89-90].<br />
Sống giữa dòng xoáy của các phong trào yêu nước ở kinh đô Huế, Nguyễn Tất Thành<br />
nhận thức được bao nhiêu điều mới mẻ. Anh thấy rõ sức mạnh hợp quần của quần<br />
chúng nhân dân. Hoạt động của dân chúng đã vượt ra ngoài tầm lãnh đạo của các sĩ phu<br />
tiến bộ. Vậy phải làm thế nào cho các cuộc đấu tranh của nhân dân ít đưa tới chết chóc,<br />
tù đày và giành được thắng lợi? Đó là câu hỏi làm cho anh nhiều đêm trăn trở. Thêm<br />
vào đó, hai phong trào rộng lớn diễn ra khá sôi nổi trước đó là phong trào Đông Du của<br />
cụ Phan Bội Châu và phong trào Duy tân của cụ Phan Chu Trinh cũng đã bộc lộ rõ<br />
những hạn chế của mình và không chóng thì chầy cũng sẽ thất bại. Nguyễn Tất Thành<br />
hiểu ra rằng những con đường đó không còn phù hợp với điều kiện mới của lịch sử dân<br />
tộc. Nhưng con đường cứu nước đúng đắn đó là gì thì anh vẫn chưa nghĩ ra được. Chỉ<br />
có điều, trong con người thanh niên yêu nước ấy đã nung nấu một ý chí sẽ đi nước ngoài<br />
để tìm đường cứu nước cho dân tộc.<br />
Sau vụ chống thuế diễn ra ít lâu, ông Nguyễn Sinh Huy bị cấp trên khiển trách vì có hai<br />
người con trai tham gia vào vụ kháng thuế, dĩ nhiên hai con ông là Tất Đạt và Tất<br />
Thành cũng có tên trong sổ đen của mật thám Pháp.<br />
<br />