Đinh Thanh Liêm<br />
<br />
6<br />
<br />
QUAN ĐIỂM CỦA NGƯỜI HỌC VỀ PHƯƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ THEO<br />
ĐỊNH HƯỚNG VIỆC HỌC QUA DỰ ÁN NHÓM<br />
GROUP PROJECT AS LEARNING-ORIENTED ASSESSMENT FROM<br />
THE PERCEPTION OF LEARNERS<br />
Đinh Thanh Liêm<br />
Trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học Đà Nẵng; dtliem@ufl.udn.vn<br />
Tóm tắt - Bài báo điều tra cảm nhận của sinh viên chuyên ngành<br />
Tiếng Anh du lịch, Khoa Tiếng Anh chuyên ngành, Trường Đại học<br />
Ngoại ngữ - Đại học Đà Nẵng về phương pháp đánh giá theo định<br />
hướng việc học. Tác giả điều tra 34 sinh viên năm thứ ba thông<br />
qua phiếu khảo sát sau khi các em tham gia vào quá trình làm dự<br />
án nhóm với các thành viên khác trong lớp. Kết quả khảo sát được<br />
phân tích bằng phần mềm thống kê SPSS phiên bản 18.0. Kết quả<br />
cho thấy rằng sinh viên cảm nhận phương pháp đánh giá này giúp<br />
các em phát triển kỹ năng giao tiếp, kỹ năng làm việc nhóm, tính<br />
sáng tạo và tư duy độc lập. Ngoài ra, sinh viên cũng khẳng định<br />
việc ứng dụng phương pháp đánh giá này đã giúp các em đạt được<br />
kết quả học tập mong đợi.<br />
<br />
Abstract - This paper explores the perceptions of English for<br />
Tourism major students at the Department of English for Specific<br />
Purposes at University of Foreign Language Studies – The University<br />
of Danang towards the learning-oriented assessment model.<br />
Questionnaires are administered to 34 third-year students after they<br />
have completed a group project informed by the learning-oriented<br />
asessment framework. Data collection is quantitatively analyzed<br />
using the statistical software SPSS 18.0. As the findings indicate, the<br />
participants perceive that the adoption of the model assists them in<br />
developing their communicative skills, team work skills, creativity and<br />
independent thinking. In addition to this, the participants state that<br />
the model enables them to achieve intended learning outcomes.<br />
<br />
Từ khóa - đánh giá theo định hướng việc học; người học; người<br />
dạy; quan điểm của người học; kết quả học tập mong đợi<br />
<br />
Key words - learning oriented assessment; learners; teachers;<br />
learner’s perception; intended learning outcomes<br />
<br />
1. Đặt vấn đề<br />
Trong lĩnh vực ngôn ngữ học ứng dụng, nhiều nhà nghiên<br />
cứu đã quan tâm nghiên cứu ảnh hưởng của quá trình đánh giá<br />
ngôn ngữ, đặc biệt ảnh hưởng của mục đích đánh giá và loại<br />
hình đánh giá đến việc dạy và học ngoại ngữ (Cheng, 2014;<br />
Green, 2013). Trong những năm gần đây, nhiều nhà nghiên<br />
cứu đã tập trung chú trọng nghiên cứu sang mảng đánh giá<br />
theo định hướng việc học. Mô hình này chú trọng vào việc học<br />
thông qua các hoạt động đánh giá và khuyến khích sự tham<br />
gia của người học vào quá trình đánh giá, và những phản hồi<br />
của người dạy cũng như người học giúp người học phát triển<br />
việc học của bản thân (Konstantinidis, 2012; Carless, 2007;<br />
Jones và Saville, 2014).<br />
Đánh giá kết quả học tập của người học là một bước vô<br />
cùng quan trọng nhằm đánh giá mức độ đạt được kết quả học<br />
tập của người học. Trước đây, các chuyên gia giảng dạy<br />
ngôn ngữ và nhiều nhà nghiên cứu đã phân chia rạch ròi giữa<br />
đánh giá quá trình được thực hiện trong lớp học và đánh giá<br />
tổng kết thường được tổ chức trong phạm vi toàn trường<br />
hoặc do cơ quan ngoài trường thực hiện quá trình đánh giá,<br />
chẳng hạn kỳ thi tuyển sinh đại học (Black và những tác giả<br />
khác, 2003). Tuy nhiên, việc phân chia như thế cũng có<br />
những vấn đề, lý do là vì hai thuật ngữ này không có sự khác<br />
biệt có ý nghĩa và không chuẩn xác [spurious] (Newton,<br />
2007). Trong khi đánh giá quá trình chú trọng vào việc học<br />
sắp diễn ra thì đánh giá tổng kết kết quả của quá trình học.<br />
Mặt khác, bất kể đó là đánh giá quá trình hay tổng kết thì cả<br />
hai cùng nhằm vào đánh giá việc đạt được mục tiêu đã đề ra<br />
và kết quả học tập của người học.<br />
Do đó, Jones và Saville (2014) đã đề xuất mô hình đánh<br />
giá qua định hướng việc học. Mô hình này được xem là một<br />
đường hướng đánh giá có tính hệ thống và hình thức đánh<br />
giá này chú trọng, tập trung vào quá trình học ngoại ngữ<br />
cũng như kết quả học tập. Quá trình học có thể được tiến<br />
<br />
hành và kết quả học tập có thể đạt được thông qua việc đánh<br />
giá có kế hoạch hoặc không có kế hoạch trước (Purpura và<br />
Turner, 2013, trang 9). Đánh giá qua định hướng việc học là<br />
mô hình có tính hệ thống kết hợp cả đánh giá trong lớp học<br />
với các kỳ thi quan trọng (high-stakes exams), kết hợp cả<br />
đánh giá quá trình với đánh giá tổng kết. Tất cả các hình thức<br />
đánh giá này có quan hệ kết hợp với nhau nhằm tạo ra những<br />
ảnh hưởng tích cực lên việc học, việc đo lường kết quả học<br />
tập (Jones và Saville, 2014, trang 6).<br />
Hình 1, mô tả mối quan hệ gắn kết giữa những đánh giá<br />
quan trọng vĩ mô (đánh giá ngoài trường) và đánh giá vi<br />
mô (đánh giá trong lớp học) do Jones và Saville (2014) đề<br />
xuất. Hướng thẳng đứng là hướng định lượng dành cho các<br />
chuyên gia đánh giá; trong khi đó hướng nằm ngang là<br />
hướng định tính dành cho người dạy. Mục tiêu của mô<br />
hình, kết hợp vai trò gắn kết, bổ sung cho nhau giữa chuyên<br />
môn của người dạy và các chuyên gia đánh giá.<br />
Mô hình này là một vòng tròn khép kín gồm nhiều giai<br />
đoạn, tập trung vào một hoạt động đánh giá qua định hướng<br />
việc học. Sau khi kiểm tra kiến thức cũ của người học,<br />
người dạy bắt đầu giao cho người học bài tập đánh giá và<br />
quan sát phân tích hoạt động học của người học. Nội dung<br />
quan sát có thể được lưu trữ dưới dạng các ghi chú cá nhân.<br />
Dựa trên kết quả quan sát và phân tích hoạt động học, người<br />
dạy sẽ quyết định các bước tiếp theo của quá trình dạy-học.<br />
Trong quá trình người học thực hiện hoạt động học, phản<br />
hồi việc học cần do người dạy hoặc người học cung cấp<br />
cho nhau và người dạy có thể điều chỉnh mục tiêu bài học<br />
thông qua việc lặp lại, mở rộng hoặc hỗ trợ hoạt động học.<br />
Bên cạnh việc lưu trữ những quan sát cá nhân, người<br />
dạy cũng cần phải lưu trữ thành tích học tập cho từng người<br />
học. Kết quả học tập này có thể được dùng để phân tích, so<br />
sánh với khung tham chiếu châu Âu. Khung này được xem<br />
là bộ tham chiếu cho việc học và tham chiếu cho đánh giá<br />
<br />
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 4(125).2018<br />
<br />
tổng kết xác định quá trình tiến bộ của người học. Những<br />
kết quả kỳ thi ngoài trường cũng được lưu trữ làm minh<br />
chứng cho kết quả học tập của người học.<br />
<br />
Hình 1. Mối quan hệ gắn kết giữa những đánh giá vĩ mô và<br />
đánh giá vi mô (phỏng theo Jones và Saville, 2014)<br />
<br />
Mục đích của đánh giá theo định hướng việc học là tăng<br />
cường hiệu quả học tập của người học thông qua hoạt động<br />
đánh giá. Bất kể hoạt động đó nhằm đánh giá thường xuyên<br />
hay đánh giá tổng kết, hoạt động đánh giá phải thúc đẩy,<br />
phát triển quá trình học tập của người học.<br />
Để đạt được mục đích trên, Carless (2007) đã đề xuất 3<br />
đặc điểm quan trọng cần phải có của một hoạt động đánh<br />
giá qua định hướng việc học.<br />
+ Thứ nhất, bài đánh giá được xem như là bài học. Tác<br />
giả lý giải khi bài đánh giá nhằm đánh giá kết quả học tập<br />
mong đợi thì người học sẽ có cơ hội trải nghiệm việc học<br />
sâu hơn để đạt được thành tích tốt nhất. Bài đánh giá phải<br />
phát triển kỹ năng học và phải tương tự như hoạt động<br />
trong thực tế cuộc sống. Ngoài ra, bài đánh giá cũng phải<br />
yêu cầu người học đầu tư công sức chứ không phải là ôn<br />
tập nhanh để vượt qua bài kiểm tra hay kỳ thi.<br />
+ Thứ hai, đánh giá qua định hướng việc học phải có sự<br />
tham gia của người học trong hoạt động đánh giá. Người<br />
học cần phải hiểu rõ các mục tiêu học tập và cùng tham gia<br />
tích cực vào quá trình xây dựng các tiêu chuẩn, tiêu chí<br />
đánh giá. Hoạt động đánh giá phải phát triển khả năng tự<br />
đánh giá, đánh giá bạn cùng học.<br />
+ Cuối cùng, để thúc đẩy việc học trong quá trình đánh<br />
giá, người học cần phải nhận được phản hồi kịp thời và phù<br />
hợp nhằm giúp họ cải thiện, phát triển. Carless (2007) cho<br />
rằng bản thân phản hồi không thể thúc đẩy việc học nếu<br />
người học không lĩnh hội phản hồi và sửa lỗi. Cả người dạy<br />
và người học đều có thể đưa ra các phản hồi phù hợp nhằm<br />
giúp người học phát triển và đạt được kết quả học tập như<br />
mong đợi. Cả 3 đặc điểm nêu trên thống nhất với nhau, chứ<br />
không tách rời nhau, ngược lại chúng có tính tương hỗ.<br />
Đánh giá theo định hướng việc học giúp phát triển quá<br />
trình học tập nhằm đạt hiệu quả học tập và khuyến khích<br />
người học nghiên cứu sâu để hiểu rõ kiến thức cần học,<br />
phát triển năng lực tư duy bậc cao, chứ không chỉ dừng lại<br />
<br />
7<br />
<br />
ở việc kiểm tra khả năng ghi nhớ tạm thời, hời hợt kiến<br />
thức để vượt qua các kỳ thi hoặc làm bài kiểm tra. Tuy<br />
nhiên, khi ứng dụng mô hình đánh giá này vào thực tế cũng<br />
có một số rào cản nhất định. Clarless (2009) đã đề cập đến<br />
rào cản ứng dụng một số hình thức tự đánh giá và đánh giá<br />
lẫn nhau xuất phát từ những khó khăn trong việc cung cấp<br />
điểm số đáng tin cậy cho các bài tập nhóm do người học<br />
thực hiện. Mặt khác, Clarless cũng quan ngại về khả năng<br />
giảng viên lựa chọn thi cử như là hình thức đánh giá chính<br />
khi thiết kế hoạt động đánh giá do thiếu niềm tin về đạo<br />
đức của người học, chẳng hạn tình trạng đạo văn khi sử<br />
dụng mô hình đánh giá qua định hướng việc học để đánh<br />
giá sự tiến bộ của người học.<br />
Trên thế giới, đã có một số nghiên cứu khảo sát ảnh<br />
hưởng vi mô (micro-level washback) của bài kiểm tra<br />
giữa học kỳ, kết thúc học phần lên người học, người dạy,<br />
các hoạt động giảng dạy và tài liệu học tập. Chẳng hạn,<br />
Saif (2006) tiến hành nghiên cứu ảnh hưởng của bài kiểm<br />
tra định kỳ, mục đích bài nghiên cứu nhằm xác định mức<br />
độ ảnh hưởng của bài kiểm tra đến hoạt động dạy học và<br />
kết quả học tập của chương trình đào tạo International<br />
Teaching Asisstant (ITA). Quan sát cho thấy, người dạy<br />
dạy theo yêu cầu của bài kiểm tra nhiều hơn dạy theo sách<br />
giáo khoa và hầu như bỏ qua những phần không có trong<br />
bài kiểm tra. Rõ ràng, phương pháp dạy học và việc lựa<br />
chọn các hoạt động giảng dạy phụ thuộc rất nhiều vào nội<br />
dung, mục tiêu của bài kiểm tra ITA.<br />
Tương tự, Hung (2012) thực hiện dự án danh mục đầu<br />
tư điện tử (e-porforlio) như là cách đánh giá quá trình học<br />
tập mới thay thế cho các hình thức đánh giá truyền thống.<br />
Kết quả nghiên cứu cho thấy dự án e-porforlio có những<br />
ảnh hưởng tích cực đến việc học như: dự án đã tạo được<br />
cộng đồng những giáo viên TESOL thường xuyên trao đổi<br />
chia sẻ kinh nghiệm, các học viên giúp đỡ nhau học tập,<br />
tăng cường việc tiếp thu kiến thức, phát triển tư duy phê<br />
phán. Tuy nhiên, e-porforlio cũng có những ảnh hưởng tiêu<br />
cực, chẳng hạn, hình thức đánh giá này tạo sự căng thẳng<br />
cho người học và một số học viên cũng phản đối việc dùng<br />
công nghệ trong việc kiểm tra.<br />
Kiểm tra đánh giá qua định hướng việc học có tiềm năng<br />
phát triển năng lực của người học, do phương pháp này cho<br />
phép người dạy thiết kế được hoạt động đánh giá như một<br />
hoạt động học đáp ứng được mục tiêu chương trình đào tạo,<br />
khuyến khích sự tham gia của người học xuyên suốt cả một<br />
quá trình. Ngoài ra, phương pháp này cũng chú trọng đến<br />
việc tham gia của người học vào quá trình đánh giá nhằm<br />
giúp họ hiểu rõ được các tiêu chí, tiêu chuẩn đánh giá qua<br />
đối thoại giữa thầy và trò. Tham gia của người học vào việc<br />
đưa ra phản hồi cho bạn và tự đánh giá việc học của mình<br />
cũng là quá trình vô cùng hữu ích giúp người học học tập lẫn<br />
nhau và hiểu rõ hơn các tiêu chuẩn, tiêu chí đánh giá. Quan<br />
trọng hơn hết, mô hình đánh giá qua định hướng việc học tạo<br />
cơ hội để cung cấp những phản hồi chú trọng vào việc học<br />
chứ không phải điểm số, và từ những phản hồi đó người học<br />
sẽ có những điều chỉnh, thay đổi nhằm nâng cao năng lực<br />
học tập. Mặc dù, đánh giá qua định hướng việc học có những<br />
ưu việt như đã nêu, tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng của<br />
phương pháp đánh giá này trong phạm vi lớp học ở Việt<br />
Nam vẫn chưa được nhiều nhà nghiên cứu khai thác và điều<br />
<br />
Đinh Thanh Liêm<br />
<br />
8<br />
<br />
tra. Do đó, trong bài viết này, tác giả muốn tìm hiểu cảm<br />
nhận của người học về hình thức đánh giá qua định hướng<br />
việc học và hình thức đánh giá này ảnh hưởng như thế nào<br />
lên quá trình học cũng như kết quả học tập của người học.<br />
2. Giải quyết vấn đề<br />
2.1. Đối tượng nghiên cứu<br />
Bài nghiên cứu điều tra cảm nhận sinh viên năm thứ ba<br />
chuyên ngành Tiếng Anh du lịch, Khoa Tiếng Anh chuyên<br />
ngành, Trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học Đà Nẵng về<br />
mô hình đánh giá qua định hướng việc học và cảm nhận<br />
của các em về ảnh hưởng của việc đánh giá đến việc học.<br />
Người tham gia gồm 34 sinh viên: 32 nữ và 2 nam, có trình<br />
độ Anh văn tương đương với bậc B2 theo khung tham<br />
chiếu châu Âu CEFR.<br />
2.2. Quy trình thực hiện<br />
Trong học kỳ đầu của năm thứ ba, sinh viên học một số<br />
môn như kỹ năng tiếng C1.1, kỹ năng tiếng C1.2, ngữ âm,<br />
biên-phiên dịch, tiếng Anh du lịch. Môn Tiếng Anh du lịch<br />
là môn học kỹ năng về chuyên ngành tiếng Anh du lịch.<br />
Người học được học kỹ năng giao tiếp với khách du lịch,<br />
kỹ năng bán tour du lịch... Chương trình học kéo dài trong<br />
vòng 15 tuần và kết quả học tập của sinh viên được đánh<br />
giá theo 2 giai đoạn: giữa học kỳ (40%), trong đó 10% dành<br />
cho việc tham gia tích cực các hoạt động trong lớp và tham<br />
gia đầy đủ các buổi học và cuối học kỳ (60%). Vì cuối kỳ<br />
thi theo hình thức tập trung toàn trường nên trong nghiên<br />
cứu này hình thức đánh giá qua định hướng việc học được<br />
áp dụng cho kỳ thi giữa học kỳ.<br />
Ngay từ đầu học kỳ, giảng viên giao cho sinh viên dự<br />
án và cùng với sinh viên thảo luận những mục tiêu của<br />
chương trình học, xây dựng bộ tiêu chí đánh giá cho dự án<br />
để đảm bảo sinh viên hiểu rõ được những tiêu chí này. Sau<br />
đó sinh viên được phân chia thành 8 nhóm để chuẩn bị<br />
nhiều giai đoạn của dự án: tìm hiểu nhu cầu của du khách,<br />
thiết kế các tour du lịch dựa trên các nguyên tắc đã học,<br />
viết tập san quảng cáo và ứng dụng 6 giai đoạn bán hàng<br />
vào việc quảng bá sản phẩm tour du lịch.<br />
Dự án yêu cầu sinh viên phải thiết kế các tour du lịch<br />
trong hoặc ngoài nước và chuẩn bị chiến dịch quảng bá các<br />
tour trực tiếp thông qua tờ rơi quảng cáo và viết tài liệu giới<br />
thiệu địa điểm du lịch. Trong quá trình thực hiện dự án, sinh<br />
viên liên lạc, giao tiếp với nhau trực tiếp hoặc qua<br />
Wikispace. Hằng tuần các nhóm báo cáo những việc mình<br />
đã làm cho nhau và nhận được góp ý phản hồi của nhau và<br />
của giảng viên. Giảng viên có nhiệm vụ quan sát, phản hồi<br />
và lưu trữ quá trình tiến bộ của sinh viên qua từng giai đoạn.<br />
Sau khi trải qua 8 tuần chuẩn bị, cả lớp được chia ra<br />
thành 4 nhóm lớn: nhóm 1 đóng vai là những người bán<br />
tour, nhóm 2 đóng vai là những du khách và 2 nhóm còn<br />
lại đóng vai trò người quan sát, đánh giá dựa trên bộ tiêu<br />
chí đã đưa ra. Mỗi nhóm nhỏ trong nhóm lớn chuẩn bị sẵn<br />
sàng dàn dựng quầy hàng để quảng bá các tour cho nhóm<br />
khách hàng còn lại. Trong suốt quá trình diễn ra phần trình<br />
bày, cả giảng viên và nhóm được giao đánh giá phần trình<br />
bày sẽ theo dõi, quan sát, ghi chú các điểm tốt và chưa tốt<br />
của nhóm trình bày. Nếu phần trình bày của sinh viên chưa<br />
tốt, giảng viên góp ý và yêu cầu nhóm chỉnh sửa và trình<br />
<br />
bày lại vào tuần sau đó. Cuối cùng, tất cả các nhóm cùng<br />
nộp lại tờ bướm quảng cáo và tài liệu giới thiệu địa điểm<br />
du lịch. Giảng viên sẽ đưa phản hồi cho sinh viên, lưu trữ<br />
quá trình học của từng sinh viên, tổng kết điểm dựa trên bộ<br />
tiêu chí đề ra.<br />
2.3. Công cụ thu thập và phân tích số liệu<br />
Bài viết sử dụng bộ câu hỏi điều tra để nghiên cứu cảm<br />
nhận của sinh viên về việc áp dụng hình thức kiểm tra đánh<br />
giá qua định hướng việc học và ảnh hưởng của hình thức<br />
đánh giá này đến việc học của các em. Cảm nhận của sinh<br />
viên được đánh giá thông qua thang đo Likert gồm 5 mức<br />
độ: điểm 1 (hoàn toàn không đồng ý), điểm 2 (không đồng<br />
ý), điểm 3 (không ý kiến gì), điểm 4 (đồng ý) và điểm 5<br />
(hoàn toàn đồng ý).<br />
3. Kết quả nghiên cứu và thảo luận<br />
3.1. Ảnh hưởng của đánh giá qua định hướng việc học<br />
đến việc học<br />
Trong phần này, tác giả sẽ trình bày ảnh hưởng của mô<br />
hình đánh giá qua định hướng việc học đến kỹ năng làm<br />
việc nhóm, khả năng đánh giá người khác, mức độ đạt kết<br />
quả học tập mong đợi.<br />
3.1.1. Phát triển khả năng làm việc làm nhóm<br />
Qua kết quả điều tra cho thấy, đa số sinh viên thích làm<br />
việc nhóm vì các em thấy được lợi ích của việc làm nhóm<br />
trong quá trình học tập và đánh giá. Sinh viên khẳng định<br />
làm việc nhóm có lợi cho việc học của bản thân (82,3%),<br />
giúp các em lập được kế hoạch học tập (73,5%), quản lý<br />
được quỹ thời gian (61,7%) vì bị ràng buộc bởi những<br />
thành viên khác trong nhóm nên các em biết cách quản lý,<br />
thu xếp thời gian của bản thân để không ảnh hưởng đến<br />
công việc chung của cả nhóm.<br />
Bảng 1. Kỹ năng làm việc làm nhóm<br />
Điểm (%)<br />
Điểm<br />
Kỹ năng<br />
1<br />
làm việc nhóm<br />
Làm việc nhóm có lợi cho<br />
2,9<br />
việc học của bản thân.<br />
Làm việc nhóm giúp tôi<br />
2,9<br />
lập kế hoạch tốt.<br />
Làm việc nhóm giúp tôi<br />
5,9<br />
quản lý thời gian tốt.<br />
Làm việc nhóm giúp tôi<br />
5,9<br />
phát triển tư duy sáng tạo.<br />
Làm việc nhóm giúp tôi<br />
tự phản ảnh được việc 11,8<br />
học của bản thân.<br />
Tôi đã trở nên độc lập<br />
trong tư duy hơn khi làm 5,9<br />
việc nhóm<br />
Tôi nghĩ tôi học được rất<br />
0<br />
nhiều từ bạn của mình.<br />
Tôi đã nhận được những<br />
phản hồi hữu ích về việc 5,9<br />
học của bạn cùng lớp.<br />
Tôi đã nhận được những<br />
phản hồi kịp thời của bạn<br />
2,9<br />
nhằm giúp tôi chỉnh sửa<br />
sai sót.<br />
<br />
Điểm<br />
2<br />
<br />
Điểm<br />
3<br />
<br />
Điểm<br />
4<br />
<br />
Điểm<br />
5<br />
<br />
2,9<br />
<br />
11,8<br />
<br />
38,2<br />
<br />
44,1<br />
<br />
8,8<br />
<br />
14,7<br />
<br />
38,2<br />
<br />
35,3<br />
<br />
14,7<br />
<br />
17,6<br />
<br />
44,1<br />
<br />
17,6<br />
<br />
8,8<br />
<br />
14,7<br />
<br />
44,2<br />
<br />
29,4<br />
<br />
29,4<br />
<br />
35,3<br />
<br />
17,6<br />
<br />
11,8<br />
<br />
14,7<br />
<br />
8,8<br />
<br />
47,1<br />
<br />
23,5<br />
<br />
5,8<br />
<br />
11,7<br />
<br />
29,4<br />
<br />
52,9<br />
<br />
5,9<br />
<br />
17,6<br />
<br />
41,2<br />
<br />
29,4<br />
<br />
17,6<br />
<br />
14,7<br />
<br />
35,3<br />
<br />
29,4<br />
<br />
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 4(125).2018<br />
<br />
Bên cạnh đó, sinh viên cũng nhận thấy rằng, học nhóm<br />
giúp các em phát triển được tư duy sáng tạo (73,6%) và độc<br />
lập trong tư duy (73,6%). Lý do các em khẳng định như<br />
vậy là vì việc học nhóm buộc các em phải thể hiện quan<br />
điểm bản thân và thể hiện mình. Sinh viên phải biết tư duy<br />
và sáng tạo để bảo vệ quan điểm bản thân. Đặc biệt, khi<br />
làm nhóm, các em đã học được rất nhiều từ bạn của mình<br />
(82,3%), nhận được những phản hồi hữu ích về việc học<br />
của bạn cùng lớp nhằm giúp bản thân tiến bộ hơn trong học<br />
tập (70,6%) và nhận được những phản hồi kịp thời của bạn<br />
để giúp các em sửa lỗi (64,7%). Tuy nhiên, quá trình làm<br />
việc nhóm vẫn chưa giúp bản thân các em tự phản ánh, tự<br />
đánh giá được việc học của bản thân. Chỉ có 29,4% sinh<br />
viên đồng ý rằng các em đã phát triển được kỹ năng tự đánh<br />
giá việc học của mình.<br />
3.1.2. Kỹ năng đánh giá bạn cùng lớp<br />
Kết quả điều tra cho thấy sinh viên đã phát triển được<br />
khả năng đánh giá người khác (trên 82%). Sinh viên cũng<br />
nghĩ việc đánh giá đóng góp của những thành viên khác<br />
trong nhóm là chấp nhận được (83%). Mặc dù các em chấp<br />
nhận việc đánh giá và được đánh giá, tuy nhiên, chỉ gần<br />
56% sinh viên đồng tình rằng đánh giá nhóm khác giúp các<br />
em hình thành được những ý tưởng cần thiết cho dự án của<br />
mình. Sở dĩ sinh viên cảm thấy các em biết cách đánh giá<br />
bạn của mình vì các em đã hiểu rõ được các tiêu chí đánh<br />
giá do chính các em và giảng viên cùng tham gia xây dựng.<br />
Bảng 2. Kỹ năng đánh giá bạn cùng lớp<br />
Điểm (%)<br />
<br />
Điểm<br />
1<br />
<br />
Điểm<br />
2<br />
<br />
Điểm<br />
3<br />
<br />
Điểm<br />
4<br />
<br />
Điểm<br />
5<br />
<br />
Tôi đã phát triển được khả<br />
năng đánh giá người khác.<br />
<br />
0<br />
<br />
2,9<br />
<br />
14,7<br />
<br />
35,3<br />
<br />
47,1<br />
<br />
Tôi nghĩ việc tôi đánh giá<br />
đóng góp của những thành<br />
viên khác trong nhóm là<br />
chấp nhận được.<br />
<br />
0<br />
<br />
0<br />
<br />
17,6<br />
<br />
41,2<br />
<br />
41,2<br />
<br />
Khả năng đánh giá<br />
<br />
Đánh giá nhóm khác giúp<br />
tôi hình thành được những ý<br />
tưởng cần thiết cho dự án<br />
của mình.<br />
<br />
11,8<br />
<br />
8,8<br />
<br />
23,5<br />
<br />
32,4<br />
<br />
23,5<br />
<br />
3.1.3. Mức độ đạt kết quả học tập mong đợi<br />
Bảng 3. Mức độ đạt kết quả học tập<br />
Điểm (%)<br />
Mức độ<br />
đạt kết quả học tập<br />
<br />
Điểm Điểm<br />
1<br />
2<br />
<br />
Điểm<br />
3<br />
<br />
Điểm<br />
4<br />
<br />
Điểm<br />
5<br />
<br />
Tôi lập và xử lý được bảng<br />
câu hỏi điều tra khảo sát để<br />
tìm hiểu nhu cầu khách hàng.<br />
<br />
0<br />
<br />
0<br />
<br />
14,7<br />
<br />
47,1<br />
<br />
38,2<br />
<br />
Dựa trên các nguyên tắc đã<br />
học, tôi thiết kế được các tour<br />
du lịch.<br />
<br />
5,9<br />
<br />
11,8<br />
<br />
11,8<br />
<br />
47,1<br />
<br />
23,5<br />
<br />
Tôi có thể viết các bài quảng<br />
cáo về du lịch.<br />
<br />
0<br />
<br />
5,9<br />
<br />
14,7<br />
<br />
52,9<br />
<br />
26,5<br />
<br />
Tôi hiểu rõ các giai đoạn bán<br />
hàng.<br />
<br />
0<br />
<br />
0<br />
<br />
20,6<br />
<br />
23,5<br />
<br />
55,9<br />
<br />
Tôi có thể thiết lập mối quan<br />
hệ với khách hàng.<br />
<br />
0<br />
<br />
0<br />
<br />
5,9<br />
<br />
41,2<br />
<br />
52,9<br />
<br />
Tôi có thể trình bày sản phẩm<br />
du lịch với khách hàng.<br />
<br />
5,9<br />
<br />
8,8<br />
<br />
11,8<br />
<br />
44,1<br />
<br />
29,4<br />
<br />
Kết quả khảo sát cho thấy, sinh viên khẳng định biết<br />
<br />
9<br />
<br />
cách viết câu hỏi điều tra khảo sát nhu cầu của khách hàng<br />
và xử lý được bảng câu hỏi điều tra khảo sát để tìm hiểu<br />
nhu cầu khách hàng (85%). Sinh viên cũng khẳng định có<br />
khả năng thiết kế được các tour du lịch nhằm đáp ứng nhu<br />
cầu của du khách dựa trên các nguyên tắc thiết kế tour<br />
(70,6%). Bên cạnh việc biết cách khảo sát, thiết kế tour,<br />
sinh viên cũng biết viết các bài quảng cáo về các địa điểm<br />
du lịch (79,7%). Tương tự kỹ năng viết, 79,4% người tham<br />
gia nghiên cứu đồng ý rằng các em hiểu rõ các giai đoạn<br />
bán hàng và cũng có đến 94,1% đồng ý có thể xây dựng<br />
được mối quan hệ với khách hàng thông qua giao tiếp.<br />
Ngoài ra, người tham gia cho biết các em có thể trình bày<br />
sản phẩm du lịch với khách hàng (73,5%).<br />
3.2. Cảm nhận của sinh viên về hình thức đánh giá qua<br />
định hướng việc học<br />
Kết quả điều tra cảm nhận của sinh viên về mô hình<br />
đánh giá qua định hướng việc học cho thấy, có hơn 85%<br />
sinh viên thích hình thức đánh giá này vì các em thể hiện<br />
được tính sáng tạo của bản thân trong học tập qua từng giai<br />
đoạn của dự án, từ khâu lập kế hoạch đến khâu hoàn thiện.<br />
Sinh viên cũng thừa nhận nội dung đánh giá qua định<br />
hướng việc học mở nên các em có cơ hội thể hiện những ý<br />
tưởng cá nhân. Bên cạnh phát triển khả năng sáng tạo, sinh<br />
viên cũng nhận thấy hình thức đánh giá này giúp các em<br />
phát triển tư duy suy nghĩ độc lập (77%).<br />
Bảng 4. Cảm nhận của sinh viên về mô hình đánh giá qua<br />
định hướng việc học<br />
Điểm (%)<br />
<br />
Điểm<br />
1<br />
<br />
Điểm<br />
2<br />
<br />
Điểm<br />
3<br />
<br />
Điểm<br />
4<br />
<br />
Điểm<br />
5<br />
<br />
Tôi thích hình thức đánh giá<br />
này vì tôi có thể sáng tạo<br />
trong học tập.<br />
<br />
0<br />
<br />
0<br />
<br />
14,7<br />
<br />
52,9<br />
<br />
32,4<br />
<br />
Hình thức đánh giá này giúp<br />
tôi phát triển kỹ năng giao<br />
tiếp: nói và viết.<br />
<br />
2,9<br />
<br />
5,9<br />
<br />
17,6<br />
<br />
35,3<br />
<br />
38,2<br />
<br />
Hình thức đánh giá này tạo<br />
động lực cho tôi tự học<br />
thêm.<br />
<br />
5,9<br />
<br />
14,7<br />
<br />
26,5<br />
<br />
23,5<br />
<br />
29,4<br />
<br />
Hình thức đánh giá này giúp<br />
tôi phát triển tư duy độc lập.<br />
<br />
5,9<br />
<br />
8,8<br />
<br />
8,8<br />
<br />
47,1<br />
<br />
29,4<br />
<br />
Nội dung đánh giá mở. Có<br />
thể đưa ra ý tưởng riêng.<br />
<br />
0<br />
<br />
0<br />
<br />
11,8<br />
<br />
61,8<br />
<br />
26,5<br />
<br />
Hình thức đánh giá này giúp<br />
tôi tiến bộ trong học tập.<br />
<br />
5,9<br />
<br />
8,8<br />
<br />
8,8<br />
<br />
35,3<br />
<br />
41,2<br />
<br />
Tôi nghĩ hình thức đánh giá<br />
này công bằng và cân bằng<br />
hơn, khác với những hình<br />
thức đánh giá chỉ mình<br />
giảng viên đánh giá.<br />
<br />
0<br />
<br />
2,9<br />
<br />
14,7<br />
<br />
35,3<br />
<br />
47,1<br />
<br />
Cảm nhận sinh viên<br />
<br />
Ngoài ra, sinh viên cũng cho rằng hình thức đánh giá<br />
này công bằng và cân bằng hơn, so với những những hình<br />
thức đánh giá khác chỉ do giảng viên đánh giá (82,4%). Đặc<br />
biệt, mô hình đánh giá này cũng giúp sinh viên phát triển<br />
kỹ năng giao tiếp, cụ thể là kỹ năng nói và kỹ năng viết<br />
tiếng Anh (73,5%). Hai kỹ năng được đánh giá là đặc biệt<br />
quan trọng đối với sinh viên chuyên ngành du lịch, vì các<br />
em sử dụng 2 kỹ năng này rất nhiều trong các tình huống<br />
khác nhau khi làm việc trong môi trường du lịch. Tuy<br />
nhiên, chỉ hơn 50% sinh viên khẳng định hình thức đánh<br />
giá này tạo động lực cho các em tự học thêm.<br />
<br />
Đinh Thanh Liêm<br />
<br />
10<br />
<br />
4. Kết luận<br />
Về phía người học, nhìn chung sinh viên cảm nhận kiểm<br />
tra đánh giá qua định hướng việc học, cụ thể việc ứng dụng<br />
hình thức đánh giá qua dự án trong quá trình học là một mô<br />
hình đánh giá tốt, nhằm giúp người học phát triển được khả<br />
năng làm việc nhóm và tư duy sáng tạo, suy nghĩ độc lập, nâng<br />
cao kiến thức sâu hơn và kỹ năng giao tiếp. Thông qua việc<br />
giao tiếp với các thành viên trong nhóm, người học có thể trao<br />
đổi ý tưởng của mình với các thành viên khác, tìm kiếm, phân<br />
tích, xử lý thông tin để hoàn thành dự án. Bên cạnh đó, việc<br />
người học thường xuyên phản hồi, đánh giá bạn cùng lớp và<br />
ngược lại, giúp các em từng bước hoàn thiện kỹ năng và kiến<br />
thức của bản thân. Đây là những kỹ năng vô cùng quan trọng<br />
và hữu ích cho công việc sau này của các em. Knight (2006)<br />
đã tóm lược nghiên cứu về những tố chất mà nhà tuyển dụng<br />
thường tìm kiếm ở mỗi ứng viên là: tính sáng tạo, kỹ năng làm<br />
việc nhóm, khả năng làm việc độc lập, ham học hỏi và chịu<br />
trách nhiệm. Như vậy, hình thức đánh giá qua định hướng việc<br />
học thông qua dự án nhóm đã góp phần chuẩn bị cho sinh viên<br />
một số kỹ năng thiết yếu nhằm đáp ứng yêu cầu xã hội.<br />
Về phía người dạy, mô hình này giúp người dạy theo<br />
dõi được quá trình tiến bộ của người học, nhận thấy được<br />
những điểm mạnh và điểm yếu của từng người học trong<br />
lớp. Thông qua việc quan sát, theo dõi, lưu trữ quá trình<br />
học của từng người học, người dạy có thể cung cấp những<br />
phản hồi kịp thời, hữu ích để giúp người học phát triển, đạt<br />
được kết quả học tập như mong đợi.<br />
Mặc dù hình thức đánh giá này có những mặt tích cực<br />
như đã nêu, nhưng mô hình này cũng có những vấn đề đòi<br />
hỏi người dạy phải lưu ý. Nếu chúng ta sử dụng hình thức<br />
người học đánh giá kết quả học tập của nhau không phù hợp,<br />
thì việc làm đó vô hình chung đã ngăn cản quá trình học của<br />
người học. Đặc biệt khi chúng ta yêu cầu người học trong<br />
nhóm đánh giá đóng góp của những thành viên khác, chúng<br />
ta đã khiến các em không hợp tác chặt chẽ với nhau trong<br />
quá trình làm dự án và tạo ra sự cạnh tranh không đáng có.<br />
Mặt khác, trong quá trình thiết kế dự án người dạy cần<br />
lồng ghép hình thức tự đánh giá, tự phản ánh quá trình học<br />
tập của bản thân người học vào mô hình đánh giá. Lý do là<br />
kỹ năng tự đánh giá cũng là một kỹ năng vô cùng cần thiết<br />
cho người học, vì quá trình tự đánh giá lấy người học làm<br />
trung tâm, hỗ trợ phát triển kiến thức sâu và phát triển kỹ<br />
năng tự học.<br />
<br />
Tóm lại, đánh giá qua định hướng việc học là mô hình<br />
đánh giá cân bằng và có tính hệ thống nhằm giúp người học<br />
phát triển kỹ năng học tập suốt đời, phát triển kỹ năng giao<br />
tiếp. Qua hình thức đánh giá này, người dạy có được những<br />
minh chứng về sự tiến bộ của người học và qua việc nhận<br />
ra những vấn đề của người học, người dạy điều chỉnh, sửa<br />
đổi bổ sung các mục tiêu học tập giúp tối ưu hóa việc học<br />
của mỗi người học. Do đó, việc ứng dụng mô hình đánh giá<br />
này nên được phổ biến rộng rãi trong Nhà trường nhằm tạo<br />
ra được những ảnh hưởng tích cực của đánh giá đến việc<br />
học của người học.<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
[1] Newton, P. E., “Clarifying the Purposes of Educational<br />
Assessment”, Assessment in Education, 14(2), 2007, pp. 149-170.<br />
[2] Black, P., Harrison, C., Lee, C., Marshall, B., & Wiliam, D.,<br />
Assessment for Learning: Putting it into Practice, Berkshire,<br />
England, Open University Press, 2003.<br />
[3] Carless, D., “Learning-Oriented Assessment: Conceptual Bases and<br />
Practical Implications”, Innovations in Education and Teaching<br />
International, 44(1), 2007, pp. 57-66.<br />
[4] Carless, D., Learning-Oriented Assessment: Principles, Practice and<br />
a Project. In L. H. Meyer, S. Davidson, H. Anderson, R. Fletcher,<br />
P.M. Johnston, & M. Rees (Eds.), Tertiary Assessment & Higher<br />
Education Student Outcomes: Policy, Practice & Research (pp.7990). Wellington, New Zealand: Ako Aotearoa, 2009.<br />
[5] Cheng, L., “Consequences, Impact and Washback”, in A. J. Kunnan<br />
(Ed.), The Companion to Language Assessment, John Wiley & Sons,<br />
2014, pp.1130-1146.<br />
[6] Green, A., “Washback in Language Assessment”, International<br />
Journal of English Studies, 13(2), 2013, pp. 39-51.<br />
[7] Hung, S. T. A., “A Washback Study on e-Portfolio Assessment in<br />
an English as a Foreign Language Teacher Preparation Program”,<br />
Computer Assisted Language Learning, 25(1), 2012, pp. 21-36.<br />
[8] Jones, N. & Saville, N., Learning-Oriented Assessment, Cambrige<br />
English, 2014.<br />
[9] Knight, P., “Assessing Complex Achievements”, in I. McNay (Ed.),<br />
Beyond Mass Higher Education: Building on Experience, UK, The<br />
Society for Research in Higher Education and the Open University<br />
Press, 2006, pp. 96-104.<br />
[10] Konstantinidis, A., “Implementing Learning-Oriented Assessment<br />
in an eTwinning Online Course for Greek Teachers”, Journal of<br />
Online Learning and Teaching, 8(1), 2012, pp. 45-57.<br />
[11] Purpura, J. E., & Turner, C. E., Learning-Oriented Assessment in<br />
Classrooms: A Place Where SLA, Interaction, and Language<br />
Assessment Interface, ILTA/AAAL Joint Symposium on “LOA in<br />
classrooms”, 2013<br />
[12] Saif, S., “Aiming for Positive Washback: A Case Study of<br />
International Teaching Assistants”, Language Testing, 23(1), pp. 1-34.<br />
<br />
(BBT nhận bài: 30/01/2018; hoàn tất thủ tục phản biện: 20/3/2018)<br />
<br />