intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Quản lý thiên tai và biến đổi khí hậu - nghiên cứu điển hình tại tỉnh Bình Thuận

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:11

16
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết Quản lý thiên tai và biến đổi khí hậu - nghiên cứu điển hình tại tỉnh Bình Thuận trình bày các kết quả của một nghiên cứu điển hình về đánh giá và xây dựng các giải pháp quản lý tổn thương do thiên tai và biến đổi khí hậu tại Việt Nam thông qua đánh giá và xây dựng các giải pháp quản lý tổn thương do thiên tai và biến đổi khí hậu tại tỉnh Bình Thuận.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Quản lý thiên tai và biến đổi khí hậu - nghiên cứu điển hình tại tỉnh Bình Thuận

  1. QUẢN LÝ THIÊN TAI VÀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU - NGHIÊN CỨU ĐIỂN HÌNH TẠI TỈNH BÌNH THUẬN Vũ Thanh Ca1, Vũ Thị Hiền2, Vũ Hồng Hà2 1 Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội 2 Viện Nghiên cứu biển và hải đảo Tóm tắt Việt Nam là một trong những quốc gia chịu tác động mạnh mẽ nhất của thiên tai và biến đổi khí hậu. Các loại hình thiên tai gây ra những tổn thương lớn nhất tới tài sản và tính mạng con người là nắng nóng, hạn hán, mưa lớn gây lũ, lũ quét, ngập lụt trên diện rộng, bão, lốc xoáy, sạt lở bờ sông, bờ biển. Biến đổi khí hậu với nắng nóng gia tăng, mùa khô dài hơn và ít mưa hơn. Trong khi đó, mùa mưa ngắn hơn nhưng có nhiều cơn mưa có cường độ lớn hơn; các cơn bão mạnh nhiều hơn sẽ làm gia tăng thiên tai và mức độ tổn thương do thiên tai. Báo cáo này trình bày các kết quả của một nghiên cứu điển hình về đánh giá và xây dựng các giải pháp quản lý tổn thương do thiên tai và biến đổi khí hậu tại Việt Nam thông qua đánh giá và xây dựng các giải pháp quản lý tổn thương do thiên tai và biến đổi khí hậu tại tỉnh Bình Thuận. Các kết quả của nghiên cứu không chỉ áp dụng được tại tỉnh Bình Thuận mà có thể áp dụng được tại các khu vực khác của Việt Nam có điều kiện tương tự như tỉnh Bình Thuận. Từ khóa: Tổn thương do thiên tai; Biến đổi khí hậu; Giải pháp quản lý rủi ro thiên tai và biến đổi khí hậu; Tỉnh Bình Thuận. Abstract Natural hazard and climate change management - pilot study at Binh Thuan province Viet Nam is one of the countries most impacted by natural hazards and climate change. Most severe natural hazards in Vietnam are heavy rainfall causing floods and flash floods, typhoons, tornados, river bank land slide and coastal erosion, hot weather and drought. Climate change with more hot days, longer dry season with less rainfall; and shorter rainy seasons with more heavy rainfalls, more strong typhoons will increase natural hazards and vulnerability due to hazards. Through a research at Binh Thuan province, this paper presents results of a pilot study on the assessment of vulnerability due to natural hazard and climate change in Vietnam, and the development of measures for the management of the vulnerability. Results of the research can be applied not only in Binh Thuan province, but also in areas with conditions similar to that of Binh Thuan province. Keywords: Natural hazard vulnerability; Climate change; Measures for natural hazard risk and climate change management; Binh Thuan province. 1. Giới thiệu chung Việt Nam là một trong những quốc gia chịu nhiều tác động, ảnh hưởng bởi thiên tai. Thiên tai đã gây các tác động, ảnh hưởng xấu tới hầu như toàn bộ dân số Việt Nam (Anh và nnk, 2016; IMHEN và UNDP, 2015). Thiên tai tại Việt Nam rất đa dạng về loại hình, bao gồm: mưa lớn gây lũ, lũ quét, ngập lụt trên diện rộng tại các vùng núi cao và một số khu vực đồng bằng miền Trung; bão với gió mạnh cùng với nước dâng do bão gây ngập lụt trên diện rộng; xói mòn, sạt lở bờ sông, bờ biển. Hàng năm, thiên tai đã gây thiệt hại lớn tới kinh tế - xã hội, môi trường, thậm chí là tính mạng của người dân. Theo Rentschler và nnk (2020), ngập lụt sông và ngập lụt tại vùng bờ biển Việt Nam hàng năm làm ngành nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, du lịch và công 576 Nghiên cứu chuyển giao, ứng dụng khoa học công nghệ trong sử dụng hợp lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững
  2. nghiệp thiệt hại khoảng 852 triệu đô la Mỹ (tương đương với 0,5 % GDP cả nước) và 316.000 lao động bị mất việc. Các kết quả nghiên cứu trên thế giới và ở Việt Nam cho thấy, biến đổi khí hậu với nhiệt độ không khí và nước biển tăng lên làm gia tăng số lượng những ngày nắng nóng, làm mùa mưa ngắn hơn nhưng với lượng mưa tăng lên, mùa khô dài hơn nhưng với lượng mưa giảm đi; số lượng các cơn bão có thể ít hơn nhưng số các cơn bão mạnh lại tăng lên; mực nước biển dâng sẽ làm gia tăng tình trạng xâm nhập mặn vào các cửa sông và nước dưới đất, gia tăng ngập lụt và xói lở bờ tại vùng bờ biển (IPCC, 2019; Vũ Thanh Ca, 2017; MONRE, 2016). Nước biển dâng do biến đổi khí hậu cùng với suy giảm lượng phù sa từ thượng nguồn do các đập thủy điện, thủy lợi sẽ làm gia tăng xói lở bờ biển, làm gia tăng tính dễ bị tổn thương của vùng bờ biển Việt Nam do thiên tai kết hợp với biến đổi khí hậu (Steven và nnk, 2020; IPCC, 2019). Theo UNISDR (2015), tổn thất trung bình hàng năm do thiên tai ở Việt Nam tại thời điểm năm 2015 vào khoảng 8,1 tỷ đô la tính theo sức mua tương đương (PPP), và khoảng 2,7 tỷ đô la tính theo giá trị thực. Tuy nhiên, theo Rentschler và nnk (2020), nếu tính cả tổn thất và thiệt hại, bao gồm cả thiệt hại về năng lực ứng phó và phục hồi của các hộ gia đình, ước tính tổn thất hàng năm do thiên tai của Việt Nam sẽ khoảng từ 1,5 đến 2,07 % GDP; tức là, chi phí xã hội của thiên tai ở Việt Nam vào khoảng 11 tỷ đô la Mỹ theo PPP. Các kết quả nghiên cứu, đánh giá của Rentschler và nnk (2020) cũng cho thấy, nếu chậm triển khai với thời gian khoảng 10 năm đối với các giải pháp tăng cường tính chống chịu ở vùng bờ biển để ứng phó với thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu thì nền kinh tế vùng bờ biển Việt Nam có thể thiệt hại thêm tới 4,3 tỷ USD. Do vậy, đánh giá khả năng tổn thương do thiên tai và xây dựng các giải pháp phòng chống có ý nghĩa rất quan trọng để đảm bảo phát triển bền vững cho Việt Nam. Bình Thuận là một tỉnh nằm tại khu vực Duyên hải Nam Trung Bộ, trên vùng địa hình có nhiều biến đổi và chia cắt mạnh, có chế độ thủy hải văn khá phức tạp. Vùng nước trồi ngoài khơi tồn tại vào mùa hè, có tâm là vùng biển Bình Thuận, với nước từ sâu mát lạnh được đưa lên mặt nước nên tạo ra vùng phân kỳ không khí với gió biển thổi vào đất liền rất mát mẻ. Do có vùng phân kỳ không khí nên khu vực ven biển phía Bắc tỉnh Bình Thuận và cả tỉnh Ninh Thuận là những khu vực khô hạn nhất cả nước. Về phía Nam tỉnh Bình Thuận, ảnh hưởng của vùng nước trồi và phân kỳ không khí giảm đi nên mưa nhiều hơn. Sông suối ngắn, độ dốc khá lớn, lưu vực hẹp nên mưa to tại các vùng núi và cửa sông đôi khi sẽ sinh ra lũ lụt (kể cả lũ quét), gây ra những hậu quả nhất định tới tính mạng và tài sản của nhân dân, làm ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của kinh tế - xã hội. Ngoài ra, tác động đồng thời của nước biển dâng do biến đổi khí hậu và thiếu hụt bùn cát do hệ thống hồ đập được xây trên thượng nguồn các con sông đã làm một số khu vực ven biển với các bãi cát đẹp, đang hoặc có tiềm năng là nơi tập trung nhiều khu du lịch - nghỉ dưỡng tầm cỡ của khu vực bị đe dọa do xói lở bờ biển. Biến đổi khí hậu toàn cầu tác động đến môi trường và phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh thông qua yếu tố tăng số ngày nắng nóng, có khả năng gây tẩy trắng san hô, khô hạn kéo dài, mưa với thời gian ngắn nhưng cường độ lớn hơn gây ngập lụt cần được xem xét đánh giá nhằm đề xuất các giải pháp giảm thiểu và thích ứng, đảm bảo phát triển bền vững kinh tế - xã hội của tỉnh. Với các lý do nêu trên, việc nghiên cứu, đánh giá và xây dựng các giải pháp giảm thiểu mức độ rủi ro và tổn thương do thiên tai và biến đổi khí hậu tại tỉnh Bình Thuận như một trường hợp nghiên cứu điển hình để có thể áp dụng cho các khu vực có điều kiện tương tự tại Việt Nam là rất cần thiết. Nghiên cứu chuyển giao, ứng dụng khoa học công nghệ trong sử dụng hợp lý tài nguyên, 577 bảo vệ môi trường và phát triển bền vững
  3. 2. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu Theo Luật Phòng chống thiên tai, “Thiên tai là hiện tượng tự nhiên bất thường có thể gây thiệt hại về người, tài sản, môi trường, điều kiện sống và các hoạt động kinh tế - xã hội, bao gồm: bão, áp thấp nhiệt đới, lốc, sét, mưa lớn, lũ, lũ quét, ngập lụt, sạt lở đất do mưa lũ hoặc dòng chảy, sụt lún đất do mưa lũ hoặc dòng chảy, nước dâng, xâm nhập mặn, nắng nóng, hạn hán, rét hại, mưa đá, sương muối, động đất, sóng thần và các loại thiên tai khác. Rủi ro thiên tai là thiệt hại mà thiên tai có thể gây ra về người, tài sản, môi trường, điều kiện sống và hoạt động kinh tế - xã hội”. Rủi ro thiên tai có thể được định nghĩa là tích của thiên tai nhân với khả năng mà một hệ thống xã hội hoặc tự nhiên có thể bị tổn thương do thiên tai (UNISDR, 2004). Thiên tai được đánh giá bằng cường độ của thiên tai và xác suất xảy ra thiên tai. Theo McCarthy và nnk (2001), tính dễ bị tổn thương do thiên tai là “Khả năng dễ bị hoặc không có khả năng ứng phó với các tác động của biến đổi khí hậu của một hệ thống, trong đó có cả biến đổi khí hậu và khí hậu cực đoan. Tính dễ bị tổn thương là một hàm số của các đặc tính, mức độ và tỷ lệ biến đổi khí hậu của một hệ thống được xác định qua độ phơi lộ, độ nhạy cảm và khả năng thích ứng của hệ thống đó”. Tính dễ bị tổn thương (V) của một hệ thống đối với biến đổi khí hậu là một hàm của (i) mức độ phơi lộ (E) của hệ thống trước các tác động bất lợi của biến đổi khí hậu; (ii) mức độ nhạy cảm (S) của hệ thống trước những thay đổi của khí hậu; và (iii) năng lực thích ứng (AC) với biến đổi khí hậu. Mức độ phơi lộ được thể hiện bằng mức độ mà một hệ thống bị phơi bày ra trước thiên tai và được đo bằng một số thông số cụ thể như hệ thống hạ tầng kỹ thuật (đường sá, nhà cửa, đê điều, v.v.) hoặc các thông số đánh giá mức độ mà một hệ sinh thái bị phơi bày trước thiên tai. Mức độ phơi lộ của một hệ thống trước thiên tai có thể được lượng hóa qua các chỉ tiêu phơi lộ, được xác định một cách định tính hoặc định lượng qua các số liệu về thiên tai trong một năm hay trong một khoảng thời gian nào đó, tính bằng số năm. Cụ thể: - Bão, áp thấp nhiệt đới (ATNĐ): Số cơn bão/ATNĐ, cường độ (tốc độ và bán kính gió lớn nhất) của các cơn bão mạnh nhất và thiệt hại do bão/ ATNĐ gây ra. - Lũ, ngập lụt: Số trận, thời gian xuất hiện lũ, ngập lụt; mực nước lũ, ngập lụt cao nhất; thiệt hại do lũ, ngập lụt gây ra. - Nhiệt độ không khí: Nhiệt độ không khí tối cao, tối thấp và thiệt hại do nắng nóng hoặc rét hại gây ra. - Lượng mưa: Lượng mưa ngày, 05 ngày lớn nhất; số ngày có lượng mưa trên 50 mm, 100 mm; thiệt hại do mưa lớn gây ra. - Hạn hán: Tần suất, thời gian kéo dài hạn hán, thiệt hại do hạn hán gây ra. Độ nhạy cảm đối với thiên tai của một hệ thống là mức độ mà hệ thống đó phản ứng tích cực hoặc tiêu cực khi gặp thiên tai, được xác định theo các yếu tố tiếp xúc trong hệ thống, ảnh hưởng đến xác suất bị tổn hại ở những thời điểm nguy hại của thiên tai. Độ nhạy cảm đối với thiên tai liên quan đến các đặc tính của hệ thống. Năng lực thích ứng hay chống chịu của một hệ thống đối với thiên tai là năng lực mà hệ thống đó điều chỉnh để chịu được những nhiễu động thiên tai gây ra và duy trì hiệu quả các hoạt động của các thành phần kinh tế - xã hội, môi trường, vật lý của hệ thống. Nếu như sự phơi lộ thể hiện sự phơi bày của tài sản, tính mạng con người hoặc một hệ sinh thái trước thiên tai thì khả năng thích ứng hay chống chịu lại đặc trưng cho các biện pháp mà con người sử dụng trước thiên tai nhằm chống lại những tổn thương do thiên tai gây ra. Đối với một hệ thống kinh tế - xã hội, năng lực thích ứng hay chống chịu đối với thiên tai được quyết định bởi hệ thống hạ tầng vật chất (đê điều, đường sá, nhà 578 Nghiên cứu chuyển giao, ứng dụng khoa học công nghệ trong sử dụng hợp lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững
  4. cửa, các cơ sở tránh trú, nếu cần thiết), hệ tầng thể chế, chính sách (tổ chức, cơ chế phối hợp phòng chống, các chính sách hỗ trợ phòng, chống thiên tai), năng lực tài chính của quốc gia và địa phương, nhận thức và sự chuẩn bị sẵn sàng của người dân để phòng chống thiên tai,... Rủi ro thiên tai hay tính dễ bị tổn thương do thiên tai của một hệ thống phụ thuộc vào mức độ phơi lộ với thiên tai, mức nhạy cảm với thiên tai và năng lực thích ứng của hệ thống đó với tác động thiên tai. Có thể biểu diễn tính dễ bị tổn thương do thiên tai qua Phương trình (1) V = (E + S) / AC (1) Trong đó: V - tính dễ bị tổn thương do thiên tai; E - nguy cơ hứng chịu thiên tai; S - mức độ nhạy cảm với nguy cơ thiên tai; AC - khả năng thích ứng hay chống chịu với thiên tai. Ngoài ra, tác động của thiên tai I có thể được xác định theo Phương trình (2). I=ExS (2) Các chỉ tiêu của các tiêu chí phơi lộ, nhạy cảm và thích ứng trong Phương trình (1) được lựa chọn và phân cấp theo công thức chung (3) dưới đây: (3) Trong đó: Vmax: là giá trị lớn nhất của chỉ tiêu; Vmin: là giá trị nhỏ nhất của chỉ tiêu; n: là thứ tự của ngưỡng, có giá trị từ 1 đến m; m: là số ngưỡng cần phân cấp, tùy thuộc vào biên độ giá trị của chỉ tiêu. Bộ chỉ tiêu của tiêu chí nhạy cảm với thiên tai bao gồm các chỉ tiêu được lựa chọn được chia nhóm như sau: - Sự tác động của thiên tai đến yếu tố dân sinh: + Mật độ dân số: Số dân càng đông, mật độ dân cư càng lớn, địa phương càng nhạy cảm với thiên tai; + Giới tính: Số lượng nữ giới càng đông, cộng đồng càng dễ nhạy cảm đối với các thiên tai và ngược lại; + Nghề nghiệp hay nguồn thu nhập: Nông nghiệp rất nhạy cảm với thiên tai, phụ thuộc vào tự nhiên, trong khi các ngành nghề hay nguồn thu nhập thuộc lĩnh vực công nghiệp, thương mại - dịch vụ ít nhạy cảm hơn. Nghề công nhân hay làm công thu nhập thấp cũng bị ảnh hưởng khá mạnh bởi thiên tai. Công chức, viên chức hoặc người làm các ngành công nghiệp, dịch vụ công nghệ cao thì thu nhập khá ổn định dù có thiên tai hay không; + Số người phụ thuộc: số người phụ thuộc vào lao động chính của hộ càng nhiều thì hộ gia đình càng nhạy cảm với các thiệt hại của thiên tai; + Cơ cấu lao động: lao động làm việc trong lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp rất nhạy cảm với thiên tai. Lao động làm việc trong các lĩnh vực công nghiệp, xây dựng, thương mại, dịch vụ ít nhạy cảm hơn,… - Tỷ lệ hộ dân không có điện: hộ không có điện sẽ bị hạn chế trong việc sử dụng các thiết bị truyền thông, thông tin về cảnh báo, dự báo thiên tai, trong thiên tai cũng khó xoay sở hơn so Nghiên cứu chuyển giao, ứng dụng khoa học công nghệ trong sử dụng hợp lý tài nguyên, 579 bảo vệ môi trường và phát triển bền vững
  5. với các hộ có điện. Vì vậy, địa phương càng nhiều hộ không sử dụng điện thì càng có tính nhạy cảm cao; + Tỷ lệ hộ nghèo: nhiều hộ nghèo thì địa phương có ít phương tiện và nguồn lực tài chính để ứng phó với thiên tai nên sẽ nhạy cảm với thiên tai; - Sự tác động của thiên tai đến hạ tầng: hạ tầng càng tốt thì tính nhạy cảm với thiên tai càng thấp. - Các thiệt hại do thiên tai: những nơi thường xuyên bị tổn thất, thiệt hại do thiên tai được đánh giá là nơi có tính nhạy cảm cao với thiên tai. Các thiệt hại do thiên tai thống kê nhiều năm, bao gồm các tổn thất, thiệt hại về người, nhà cửa, công trình - kiến trúc, tổn thất về nông - lâm - ngư nghiệp, giao thông thủy lợi, công nghiệp, các công trình cung cấp nước sạch, giáo dục, thông tin liên lạc, xây dựng,… Tổn thất quy đổi giá trị càng cao thì tính nhạy cảm càng cao. Các số liệu, tài liệu phục vụ nghiên cứu, đánh giá và xây dựng giải pháp quản lý thiên tai và biến đổi khí hậu của các tác giả được thu thập từ các Sở, ban, ngành và các địa phương trên địa bàn tỉnh Bình Thuận cũng như điều tra, khảo sát tại hiện trường. 3. Kết quả và thảo luận 3.1 Hiện trạng thiệt hại và các giải pháp giảm thiểu rủi ro do thiên tai và biến đổi khí hậu của tỉnh Bình Thuận 3.1.1. Hạn hán Hạn hán trên địa bàn tỉnh Bình Thuận xảy ra thường xuyên, gây thiệt hại đáng kể tới sản xuất và đời sống nhân dân. Trong những năm gần đây, do tác động của BĐKH, dòng chảy năm và dòng chảy mùa lũ trên các lưu vực sông thuộc tỉnh Bình Thuận có xu thế tăng nhẹ. Tuy nhiên, dòng chảy tự nhiên mùa cạn có xu thế ngày càng giảm, dẫn đến việc gia tăng tình trạng thiếu nước trên các lưu vực sông. Mùa khô của tỉnh Bình Thuận có xu thế kéo dài hơn, với nhiệt độ không khí có xu thế tăng cao hơn, làm nước bốc hơi nhiều hơn, kết hợp lượng mưa giảm vào mùa khô khiến cho nguồn nước vào mùa khô ngày càng khan hiếm. Khu vực phía Đông sát biển của tỉnh Bình Thuận là vùng khô hạn thường xuyên với lượng mưa hàng năm trung bình chỉ 500 - 700 mm, có thể được coi là vùng đất bán sa mạc, rất khó phát triển sản xuất nông nghiệp. Thiệt hại do hạn hán tới nông, lâm nghiệp ở mức khá lớn, điển hình năm 2004, ước tính tới trên 287 tỷ đồng (nông nghiệp khoảng hơn 264 tỷ đồng và lâm nghiệp khoảng 23 tỷ đồng). Nguyên nhân của thiệt hại là do mưa ít nên nước tích trong các hồ, đập chỉ khoảng 40 % so với bình quân nhiều năm. Hạn hán cũng làm thiếu nước cho sinh hoạt vào cuối mùa khô. Đặc biệt, vào mùa khô cuối năm 2019 đầu năm 2020, lượng mưa từ đầu mùa khô đến tháng 05/2020 thấp hơn mức trung bình nhiều năm từ 20 % đến 90 %. Do thiếu nước, toàn tỉnh Bình Thuận đã phải cắt giảm gần 14.000 ha diện tích cây trồng trong vụ Đông - Xuân và hơn 30.000 ha lúa vụ Hè - Thu. Ngoài trồng trọt, tình trạng thiếu nước còn ảnh hưởng tới đàn gia súc của tỉnh, do thiếu nước ăn và nước uống. Từ cuối tháng 04/2020 tới tháng 05/2020, toàn tỉnh đã có 38 xã, phường, thị trấn Trong đó, có 26.000 hộ dân với trên 97.000 nhân khẩu ở khu vực nông thôn thiếu nước sinh hoạt cục bộ. Đặc biệt, tại vùng núi phía Đông Bắc của tỉnh, tất cả các giếng đào hoặc là cạn khô, hoặc bị nhiễm phèn không dùng được và người dân phải mua nước sạch mới mức giá từ 15.000 - 20.000 đồng/m3 (Vũ Thanh Ca và Vũ Hồng Hà, 2021). Hạn hán không chỉ xảy ra vào mùa khô mà còn xảy ra vào mùa mưa. Tại huyện Hàm Tân và phần phía Nam của các huyện Đức Linh và Tánh Linh, mặc dù lượng mưa vào mùa mưa khá cao nhưng do chưa có các công trình thủy lợi dẫn nước tưới, hạn hán vẫn có thể xảy ra trong mùa mưa, trong khoảng thời gian giữa hai đợt mưa khá dài. 580 Nghiên cứu chuyển giao, ứng dụng khoa học công nghệ trong sử dụng hợp lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững
  6. Để khắc phục hậu quả của hạn hán, tỉnh Bình Thuận đã đầu tư xây dựng và đưa vào vận hành một hệ thống, gồm: 49 hồ chứa lớn nhỏ với tổng dung tích 442 triệu m3. Ngoài hệ thống các hồ chứa lớn nhỏ, tỉnh còn có hệ thống 29 ao nhưng có tổng dung lượng khá nhỏ. Ngoài ra, tỉnh Bình Thuận cũng đã xây dựng được một hệ thống các kênh tiếp nước, dẫn nước, chuyển nước từ lưu vực sông La Ngà rất dư thừa nước về các lưu vực sông thiếu nước như sông Lòng Sông, Sông Lũy, Sông Quao, sông Cà Ty và Sông Dinh. Tỉnh cũng đã xây dựng được hệ thống kênh thủy lợi nội đồng, với tổng chiều dài tới hơn 2.000 km. Tổng lưu lượng nước dưới đất đang được khai thác trên địa bàn toàn tỉnh được ước tính khoảng 118.700 m3/ngày.đêm. Tỉnh cũng đã xây dựng và đưa vào vận hành các quy định về điều tiết nước và thứ tự ưu tiên cấp nước trong điều kiện hạn hán. Với hệ thống thủy lợi hiện tại, về cơ bản, tỉnh đã giảm được rất đáng kể mức độ tổn thương do hạn hán trên địa bàn tỉnh; và chỉ những năm hạn nặng tỉnh mới không điều tiết đủ nước phục vụ chống hạn (Vũ Thanh Ca và Vũ Hồng Hà, 2021). 3.1.2. Ngập lụt Với địa hình có độ dốc lớn từ các núi cao ra đến biển, hàng năm, về mùa mưa, khi có mưa lớn kéo dài ở thượng nguồn, nước trên sườn dốc tập trung nhanh, tràn về gây lũ quét và ngập lụt cho một số điểm cục bộ ở các huyện Đức Linh, Hàm Tân, Hàm Thuận Nam, và một số khu vực đồng bằng ven biển, như thị xã La Gi và thành phố Phan Thiết. Ngập lụt ở tỉnh Bình Thuận thường xảy ra hàng năm, từ tháng 7 đến tháng 10, với tần suất xuất hiện trên dưới 30 %/tháng vào các tháng 8, 9, 10. Vào tháng 7 và tháng 11, tỷ lệ xuất hiện ít hơn 4 %. Diện tích bị ngập lụt hàng năm thường khoảng từ 4.000 đến 6.000 ha. Năm lũ lớn có diện tích ngập trên 15.000 ha, thời gian ngập liên tục kéo dài từ vài tuần đến một vài tháng. Các điểm ngập sâu là khu vực hạ lưu các suối Loăng Quăng, suối Cát và cuối đồng bằng, thuộc các xã Đức Hạnh và Phú Điền. Thiệt hại do mỗi trận lũ từ vài tỷ đến vài chục tỷ đồng tùy thuộc lũ lớn hay nhỏ. Các năm có lũ lớn tại Bình Thuận là các năm 1978, 1979, 1982, 2011, 2012, 2013, 2014, 2017 và 2020. Đặc biệt, vào năm 2013, lũ quét xảy ra vào ngày 25/8, tại xã La Ngâu, huyện Tánh Linh và ngày 14/9 tại xã Đông Hà, huyện Đức Linh. Lũ quét còn xảy ra tại huyện Bắc Bình vào các ngày 8 - 12/6 và tại thị trấn Phan Rí Thành và ngày 10 - 11/08, gây nhiều thiệt hại cho sản xuất nông nghiệp và cơ sở hạ tầng. Trong năm 2014, tại huyện Bắc Bình, vào 01/6 xảy ra lũ quét cục bộ tại thôn Kà Lúc, xã Phan Sơn, làm chết 01 người (học sinh lớp 7) đang tắm sông, vào bờ không kịp. Thị xã La Gi ngày 21/6, mưa lớn ở thượng nguồn sông Dinh, nước lũ đổ về hạ lưu làm trôi một số thuyền đánh cá công suất lớn xuống khu vực neo đậu xuồng máy phía hạ lưu gây va đập, nhấn chìm 21 chiếc xuồng máy của ngư dân khu phố 5, 6, phường Bình Tân và xã Tân Bình đang neo đậu. Tháng 10/2017, mưa lớn trên diện rộng đã khiến nước tràn qua đập thủy lợi Ba Bàu gây lũ ở hạ lưu, làm ngập nhiều nhà dân và hàng nghìn ha cây thanh long, cây trồng các loại khác ở các xã Mương Mán và Hàm Mỹ, huyện Hàm Thuận Nam và một số khu vực thuộc thành phố Phan Thiết. Gần nhất, năm 2020 là một năm đặc biệt của Bình Thuận, với đầu năm hạn hán nặng nhưng cuối năm lại có mưa lớn gây ngập lụt. Từ ngày 09/10 đến ngày 15/10/2020, trên địa bàn huyện Đức Linh đã xảy ra mưa lớn kéo dài làm ngập là 430 ha lúa mới gieo sạ, làm thiệt hại khoảng 03 tỷ đồng. Mưa lớn trong thời gian đầu tháng 10/2020 cũng gây thiệt hại ở huyện Bắc Bình với tổng thiệt hại khoảng 14 tỷ đồng. Đặc biệt, vào đêm 28/8/2021, do có mưa lớn tại thượng nguồn, lũ quét bất ngờ xảy ra tại cửa Sông Dinh đã cuốn trôi 1 xà lan, 25 tàu cá loại vừa và lớn cùng nhiều tàu nhỏ khác, gây hư hỏng, thiệt hại tài sản rất lớn cho ngư dân. Với tổng lưu lượng năm vào khoảng 5,4 tỷ m3 nước, dòng chảy trên các lưu vực sông của Nghiên cứu chuyển giao, ứng dụng khoa học công nghệ trong sử dụng hợp lý tài nguyên, 581 bảo vệ môi trường và phát triển bền vững
  7. Bình Thuận chủ yếu tập trung vào mùa mưa (Vũ Thanh Ca và Vũ Hồng Hà, 2021). Như vậy, với tổng dung tích 442 tr. m3, mặc dù đã có quy trình vận hành liên hồ chứa để chống lũ và ngập lụt, khi mưa lớn, các hồ chứa hiện có của tỉnh Bình Thuận vẫn chưa đủ khả năng điều tiết để chống lũ và ngập lụt cho những khu vực có mức độ tổn thương cao do ngập lụt. 3.1.3. Xói lở bờ sông, bờ biển Đặc điểm của các sông Bình Thuận là ngắn, dốc nên vào mùa lũ nước chảy rất xiết. Những năm gần đây, nhiều hồ, đập thủy lợi được xây dựng trên thượng nguồn các con sông nên chặn nguồn bùn cát về hạ nguồn. Hiện tượng khai thác cát tại lòng sông do nhu cầu xây dựng cùng với thiếu hụt cát từ thượng nguồn về đã làm gia tăng độ dốc tại bờ sông, gây ra xói lở nguy hiểm trên nhiều đoạn sông khi lũ về. Vi dụ, trên bờ Sông Lũy, xói lở xảy ra trên đoạn xã Phan Thanh với chiều dài khoảng 300 m, tại khu vực Chợ Lầu với chiều dài khoảng 200 m. Việc khai thác cát trên sông La Ngà khiến bờ sông thuộc xã Huy Khiêm (huyện Tánh Linh) bị sạt lở nặng với chiều dài sạt lở khoảng 1,5 km. Để chống xói lở, cùng với kiểm soát tốt hơn việc khai thác cát trên sông, tỉnh Bình Thuận đã xây dựng các bờ kè chống xói lở tại các khu vực có xói lở. Ví dụ, trên bờ Sông Lũy, đã xây dựng kè bờ sông tại khu vực xã Phan Thanh với chiều dài 330 m, kè bờ sông tại khu vực Chợ Lầu với chiều dài 220 m và đã cơ bản chống được xói lở. Tuy nhiên, do hiện tượng khai thác trộm cát nên xói lở bờ sông vẫn xảy ra (Vũ Thanh Ca và Vũ Hồng Hà, 2021). Do thiếu hụt bùn cát cung cấp từ thượng nguồn nên các con sông, bờ biển tỉnh Bình Thuận hiện đang bị xói lở nghiêm trọng. Theo Báo cáo hiện trạng môi trường 05 năm (2016-2020) của tỉnh Bình Thuận, tính riêng từ 2015 đến 2020 đã có 407 hộ dân phải di dời do sạt lở. Nhiều nhà cửa, trụ sở cơ quan, cơ sở hạ tầng khu du lịch trên địa bàn các huyện, thị xã, thành phố ven biển bị thiệt hại, ảnh hưởng nặng nề đến đời sống kinh tế người dân và doanh nghiệp. Đặc biệt, tại một số khu vực như: bãi Đồi Dương, thành phố Phan Thiết, bờ biển Hàm Tiến, Mũi Né, xói lở đã làm mất bãi tắm và đang đe dọa đến các khu nghỉ dưỡng, nhà hàng, khách sạn trên bờ. Tỉnh đã xây dựng những công trình bảo vệ bờ nhưng do thiếu kinh phí và chưa được tính toán, thiết kế tốt nên các công trình này chưa ngăn chặn được xói lở bờ biển, bảo vệ các bãi cát một cách hiệu quả. 3.1.4. Bão, nước dâng, gió mạnh, sóng lớn Bình Thuận là một tỉnh ít bão, nhưng bão, nước dâng bão, gió mạnh, sóng lớn đã gây ra những thiệt hại đáng kể. Đặc biệt là trong mùa mưa bão năm 2017, bão với gió mạnh, mưa lớn, ngập lụt vùng ven biển đã làm 06 người chết, hơn 280 căn nhà bị sập, tốc mái, ngập, hư hỏng và hơn 14.000 ha diện tích nông nghiệp bị thiệt hại. Tổng giá trị thiệt hại toàn tỉnh hơn 99 tỷ đồng. Đồng thời, cũng vào năm này gió mạnh, sóng lớn liên tục xảy ra trên biển, đã gây ra 88 vụ tai nạn, sự cố, làm chết 36 người, mất tích 14 người, chìm 25 tàu cá. Riêng 08 tháng năm 2018, sóng gió trên biển Bình Thuận đã gây ra 43 vụ tai nạn làm chết 21 người, chìm 9 tàu cá. 3.2. Mức độ tổn thương do thiên tai và biến đổi khí hậu tỉnh Bình Thuận vào năm 2030 Để đánh giá mức độ tổn thương do thiên tai của tỉnh Bình Thuận vào năm 2030, trong nghiên cứu này đã sử dụng các số liệu, tài liệu như dưới đây: - Số liệu địa hình tỉnh Bình Thuận tỷ lệ 1:10.000; - Số liệu thiên tai tỉnh Bình Thuận: hạn hán, mưa lớn, ngập lụt, lũ quét, xói lở bờ biển,... - Số liệu dân số, quy hoạch sử dụng đất, phát triển cơ sở hạ tầng và dự báo phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Bình Thuận vào năm 2030, được lấy từ Dự thảo Báo cáo Quy hoạch tỉnh Bình Thuận giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2050 (Viện Chiến lược và Phát triển, 2021). 582 Nghiên cứu chuyển giao, ứng dụng khoa học công nghệ trong sử dụng hợp lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững
  8. - Số liệu hồ chứa và các số liệu khí tượng, thủy văn tỉnh Bình Thuận lấy từ dự thảo Báo cáo định hướng Phương án quy hoạch tài nguyên nước tỉnh Bình Thuận giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050 (Vũ Thanh Ca và Vũ Hồng Hà, 2021). Trên cơ sở các tính toán về mức độ dễ bị tổn thương do thiên tai của tỉnh Bình Thuận theo các phương pháp tính toán trình bày trong mục 2, nhóm nghiên cứu đã xây dựng được bản đồ mức độ tổn thương do thiên tai và biến đổi khí hậu của tỉnh Bình Thuận như trên Hình 1. Để có thể làm rõ mức độ tổn thương do thiên tai và biến đổi khí hậu tại tỉnh Bình Thuận, căn cứ vào các kết quả đánh giá, trong báo cáo này đã phân mức độ tổn thương do thiên tai và biến đổi khí hậu tại tỉnh Bình Thuận thành 07 mức: ít bị tổn thương, khả năng tổn thương thấp, dễ bị tổn thương, tổn thương trung bình, tổn thương hơn trung bình, tổn thương cao và tổn thương rất cao. Các khu vực ít bị tổn thương hoặc tổn thương thấp là những khu vực đã được xây dựng cơ sở hạ tầng cũng như có các nguồn lực để đảm bảo phòng chống và khắc phục hậu quả tác hại do thiên tai và biến đổi khí hậu. Các khu vực từ dễ bị tổn thương tới tổn thương rất cao là những khu vực chưa được đầu tư cơ sở hạ tầng đầy đủ hoặc chưa có đủ nguồn lực tài chính, tổ chức, thể chế để phòng chống thiên tai, biển đổi khí hậu. Do vậy, cần được đầu tư thỏa đáng để tăng mức chống chịu nhằm đảm bảo phát triển bền vững kinh tế - xã hội. Hình 1: Bản đồ mức độ tổn thương do thiên tai và biến đổi khí hậu tỉnh Bình Thuận giai đoạn 2021 - 2030 Từ Hình 1 có thể thấy, khu vực miền núi phía Tây Bắc, thuộc địa phận huyện Đức Linh và một phần nhỏ huyện Tánh Linh của tỉnh có mức độ dễ bị tổn thương từ cao tới rất cao. Đây là khu vực thuộc lưu vực Sông La Ngà, có mưa lớn, địa hình dốc, thoát nước kém nên thường xuyên bị Nghiên cứu chuyển giao, ứng dụng khoa học công nghệ trong sử dụng hợp lý tài nguyên, 583 bảo vệ môi trường và phát triển bền vững
  9. ngập lụt và lũ quét. Khu vực này cũng là khu vực có diện tích đất nông nghiệp lớn, với nhiều loại cây trồng khác nhau, đặc biệt là cây Thanh long nên tác động của ngập lụt khá nghiêm trọng. Các khu vực có mức độ tổn thương từ cao tới rất cao là khu vực cửa Sông Phan, thị xã La Gi, khu vực cửa Sông Cà Ty, thành phố Phan Thiết, khu vực cửa Sông Lũy, thị trấn Phan Rí Cửa và khu vực cửa Sông Lòng Sông, thị trấn Liên Hương. Đây là những khu vực dễ bị ngập lụt, thậm chí là lũ quét do mưa lớn. Ngoài ra, khu vực phía Bắc của thị trấn Liên Hương và phía Nam của xã Vĩnh Tân cũng đang bị xói lở mạnh và có nguy cơ bị ngập lụt vào dịp cuối năm, khi có sóng lớn trong gió mùa Đông Bắc. Các khu vực có nguy cơ tổn thương hơn trung bình cũng là những khu vực có nguy cơ ngập lụt do mưa lớn. Tất cả các khu vực cửa sông ven biển đều là các khu vực tập trung dân cư và các hoạt động kinh tế - xã hội với mật độ cao nên mức độ tổn thương khi có có ngập lụt cũng nằm trong khoảng tư trên trung bình tới rất cao. Các khu vực bị hạn hán, bao gồm hầu hết các huyện thuộc tỉnh Bình Thuận như khu vực thuộc huyện Bắc Bình, một phần của huyện Tuy Phong, Hàm Thuận Bắc, Hàm Thuận Nam, Hàm Tân, Tánh Linh và Đức Linh có mức tổn thương từ thấp đến trung bình. Cần chú ý như chỉ ra trên Hình 1, mặc dù xâm nhập mặn vào nước dưới đất tại khu vực ven biển tỉnh Bình Thuận khá nghiêm trọng nhưng do các chính sách hạn chế khai thác nước dưới đất tại các khu vực bị xâm nhập mặn nên mức độ tổn thương do xâm nhập mặn gây ra là không đáng kể. Theo các tính toán (Vũ Thanh Ca và Vũ Hồng Hà, 2021), vào năm 2030, tổng lượng nước cần thiết vào mùa khô với thời gian khoảng 07 tháng của tỉnh Bình Thuận là 782 triệu m3. Theo Quy hoạch tỉnh, để đảm bảo an ninh nguồn nước, phục vụ chống hạn vào mùa khô, trong thời gian từ nay tới 2030, tỉnh Bình Thuận cần xây dựng thêm các Hồ Ka Pét, La Ngà 3, Cà Tót và Tân Lê với tổng dung tích là 542 triệu m3. Các hồ chứa mới xây cùng với các hồ chứa hiện có đã nâng tổng dung tích của tất cả các hồ chứa của tỉnh Bình Thuận lên thành 984 triệu m3. Như vậy, tổng dung tích các hồ chứa trong tỉnh đã lớn hơn khá nhiều so với nhu cầu nước trong mùa khô của tỉnh và cùng với lượng nước dưới đất được khai thác, nếu quản lý tốt thì tỉnh Bình Thuận sẽ đảm bảo đủ nước để cung cấp phục vụ phát triển bền vững kinh tế - xã hội. Với tổng lượng dòng chảy năm trên các lưu vực sông khoảng 5,4 tỷ m3, tập trung chủ yếu vào mùa lũ, ngay cả khi đã xây thêm được 04 hồ chứa mới, nếu không dự báo chính xác được lượng mưa và vận hành hiệu quả các hồ chứa để điều tiết lũ thì trong những trận mưa lớn, những khu vực bị tổn thương cao do lũ và ngập lụt của tỉnh vẫn có nguy cơ cao bị tổn thương do lũ và ngập lụt. Vì vậy, cần tiếp tục nghiên cứu xây dựng mới hoặc nâng cấp các hệ thống thoát nước nhằm giảm thiểu mức độ tổn thương do ngập lụt gây ra. Hiện tại, tỉnh Bình Thuận mới xây dựng được một số bờ kè để chống xói lở bờ biển. Đây là những bờ kè mới có tác dụng ngăn sóng mà chưa đảm bảo được việc tạo bãi cát. Do vậy, nguy cơ xói lở bờ biển của tỉnh Bình Thuận vẫn ở mức trung bình cao. Huyện đảo Phú Quý hiện nay đã được đầu tư chống xói lở bờ đảo. Nếu được đầu tư để xây dựng thêm một số hồ chứa thì sẽ đủ nước sinh hoạt và sản xuất nên mức tổn thương do thiên tai thấp. Tỉnh cũng đã đầu tư xây dựng hệ thống tự động quan trắc môi trường, giám sát tài nguyên nước và nâng cấp hệ thống dự báo, cảnh báo thiên tai. Ngoài ra, tỉnh luôn chú ý hoàn thiện hệ thống thể chế, chính sách, nâng cao nhận thức của cán bộ quản lý để giảm thiểu tổn thương do thiên tai trên địa bàn tỉnh. 584 Nghiên cứu chuyển giao, ứng dụng khoa học công nghệ trong sử dụng hợp lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững
  10. 3.3. Các giải pháp quản lý thiên tai để giảm mức độ tổn thương do thiên tai và biến đổi khí hậu tỉnh Bình Thuận Để giảm mức độ tổn thương do thiên tai và biến đổi khí hậu, tỉnh Bình Thuận cần tập trung thực hiện một số giải pháp như dưới đây: 1) Tiếp tục hoàn thiện cơ chế phối hợp và các chính sách quản lý thiên tai và biến đổi khí hậu. Tiếp tục hoàn thiện và đưa vào sử dụng quy trình vận hành liên hồ chứa trong cả mùa lũ và mùa khô hạn để đảm bảo sử dụng tối ưu các hồ chứa để điều tiết lũ và cấp nước chống hạn. 2) Xây dựng mới 04 hồ chứa như nêu trên và duy tu, nâng cấp các hồ chứa thủy điện, hồ chứa thủy lợi và hệ thống kênh chuyển nước, tiếp nước, kênh tiêu nước và hệ thống thủy lợi nội đồng hiện có để phục vụ điều tiết lũ và trữ nước chống hạn. 3) Thường xuyên kiểm tra và nạo vét các sông, xây dựng mới hoặc nâng cấp các hệ thống kênh thoát nước để tăng khả năng thoát lũ. Tạo quỹ đất, di dời dân khỏi các vùng có nguy cơ ngập lụt cao. Tiếp tục trồng rừng, khôi phục rừng đầu nguồn để tăng khả năng giữ nước làm giảm lũ và cung cấp nước cho mùa khô hạn. 4) Cần đầu tư nâng cấp hệ thống giám sát, dự báo, cảnh báo thiên tai để phục vụ xây dựng và thực hiện các kế hoạch phòng tránh thiên tai một cách hiệu quả. 5) Đối với các khu vực dân cư thưa thớt, khó có điều kiện xây dựng các công trình thuỷ lợi để dẫn nước về phục vụ chống hạn, cần điều tra và hỗ trợ kinh phí khoan các giếng nước ngầm tầng sâu phục vụ cấp nước sinh hoạt ổn định cho người dân vào mùa khô hạn. 6) Tạo các mỏ cát ổn định, nhất là tại các vị trí các con sông đổ vào các hồ chứa để khai thác cát phục vụ xây dựng. Hạn chế tới mức thấp nhất hiện tượng khai thác cát lậu tại các lòng sông, dẫn tới sạt lở bờ sông. 7) Cần nghiên cứu, áp dụng các giải pháp công trình hỗn hợp để chống xói lở và khôi phục lại các bãi cát của tỉnh Bình Thuận. 8) Cần xây dựng một hệ thống tài chính bền vững để phòng chống thiên tai và biển đổi khí hậu. Tăng cường xóa đói giảm nghèo, nhất là tại các khu vực có tính tổn thương do thiên tai cao, để giảm mức độ phơi lộ và tăng cường sức chống chịu của các cộng đồng dân cư với thiên tai. 9) Cần tăng cường hơn nữa công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của người dân về phòng chống thiên tai và biến đổi khí hậu. 4. Kết luận và kiến nghị - Việt Nam là một quốc gia có rủi ro và tính dễ bị tổn thương do thiên tai và biến đổi khí hậu cao. Nếu không có những giải pháp cấp bách để quản lý thiên tai thì trong tương lai, những thiệt hại do thiên tai có thể là rất lớn. - Quản lý thiên tai và biến đổi khí hậu bằng các giải pháp kỹ thuật, công nghệ, cơ sở hạ tầng, thể chế, chính sách, nâng cao nhận thức của cán bộ quản lý là các giải pháp bền vững để giảm thiểu những thiệt hại do thiên tai. - Do có những nỗ lực đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ phòng chống thiên tai, về cơ bản tỉnh Bình Thuận đã giảm được mức tổn thương do thiên tai và biến đổi khí hậu xuống mức trung bình. Tuy vậy, vẫn có những khu vực có mức tổn thương cao hoặc rất cao. Để đảm bảo tối thiểu hóa thiệt hại do thiên tai và biến đổi khí hậu và phát triển bền vững kinh tế - xã hội, Bình Thuận, nhất là trong điều kiện phát triển mạnh mẽ kinh tế - xã hội trong thời gian tới, cần tiếp tục đầu tư thỏa đáng cho các giải pháp quản lý, phòng chống thiên tai và biến đổi khí hậu. Nghiên cứu chuyển giao, ứng dụng khoa học công nghệ trong sử dụng hợp lý tài nguyên, 585 bảo vệ môi trường và phát triển bền vững
  11. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Bộ Tài nguyên và Môi trường (MONRE) (2016). Tóm tắt kịch bản biến đổi khí hậu và nước biển dâng cho Việt Nam. [2]. CARE Quốc tế tại Việt Nam, Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) tại Việt Nam và Tổng cục Phòng, Chống thiên tai (2020). Tài liệu hướng dẫn phương pháp đánh giá nhu cầu phục hồi và tái thiết do thiên tai. [3]. Đặng Nguyên Anh, I. Leonardelli và A.A. Dipierri (2016). Đánh giá bằng chứng di cư, môi trường và biến đổi khí hậu tại Việt Nam. Internatinal Organization for Migration. [4]. Dazé A., K. Ambrose và C. Ehrhart (2009). Cẩm nang phân tích tình trạng dễ bị tổn thương và năng lực ứng phó với biến đổi khí hậu. Care International. [5]. IMHEN và UNDP (2015). Báo cáo đặc biệt của Việt Nam về Quản lý rủi ro thiên tai và hiện tượng cực đoan nhằm thúc đẩy thích ứng với biến đổi khí hậu [Trần Thục, Koos Neefjes, Tạ Thị Thanh Hương, Nguyễn Văn Thắng, Mai Trọng Nhuận, Lê Quang Trí, Lê Đình Thành, Huỳnh Thị Lan Hương, Võ Thanh Sơn, Nguyễn Thị Hiền Thuận, Lê Nguyên Tường]. Nxb. Tài nguyên Môi trường và Bản đồ Việt Nam, Hà Nội, Việt Nam. [6]. McCarthy J. J., O.F. Canziani, N. A. Leary, D. J. Dokken, and K. S. White (2001). Climate Change 2001: Impacts, Adaptation, and Vulnerability. Contribution of Working Group II to the Third Assessment Report of the Intergovernmental Panel on Climate Change. Cambridge Univerity Press. [7]. IPCC (2019). Special Report on the Ocean and Cryosphere in a Changing Climate [H.- O. Pörtner, D.C. Roberts, V. Masson-Delmotte, P. Zhai, M. Tignor, E. Poloczanska, K. Mintenbeck, A. Alegría, M. Nicolai, A. Okem, J. Petzold, B. Rama, N.M. Weyer (eds.)]. [8]. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2013). Luật phòng chống thiên tai. Luật số: 33/2013/QH13. [9]. Rentschler J., de Vries Robbé S., Braese J., Nguyễn Huy Dũng, van Ledden M. và Pozueta Mayo B. (2020). Tăng cường khả năng chống chịu cho khu vực ven biển: Đảm bảo an toàn cho sự phát triển khu vực ven biển Việt Nam trước rủi ro thiên tai. Washington, DC: Ngân hàng Thế giới. [10]. Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bình Thuận (2020). Báo cáo hiện trạng môi trường (2016 - 2020). [11]. Steven A.D.L., Appeaning Addo K., Llewellyn G. and Vu T. C. et al. (2020). Coastal Development: Resilience, Restoration and Infrastructure Requirements. Washington, DC: World Resources Institute. www. oceanpanel.org/blue-papers/coastal-development-resilience-restoration-and-infrastructurerequirements. [12]. UNISDR (2004). Living with Risk: A Global Review of Disaster Reduction Initiatives. Geneva: UN Publications. [13]. UNISDR (2015). Báo cáo đánh giá toàn cầu về giảm nhẹ rủi ro thiên tai. https://tinyurl.com/y83ckc9x. [14]. Viện Chiến lược và Phát triển (2021). Dự thảo Báo cáo quy hoạch tỉnh Bình Thuận giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2050. [15]. Vũ Thanh Ca và Vũ Hồng Hà (2021). Dự thảo Báo cáo định hướng phương án quy hoạch tài nguyên nước tỉnh Bình Thuận giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2050. [16]. Vu Thanh Ca (2017). A Climate Change Assessment via Trend Estimation of Certain Climate Parameters with In Situ Measurement at the Coasts and Islands of Viet Nam. Climate,  5(2), 36; doi:10.3390/cli5020036. Available online at: http://www.mdpi.com/2225-1154/5/2/036/html. Ngày chấp nhận đăng: 10/11/2021. Người phản biện: PGS.TS. Trần Duy Kiều 586 Nghiên cứu chuyển giao, ứng dụng khoa học công nghệ trong sử dụng hợp lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0